PDA

View Full Version : Ý Nghĩa Về Lá Cờ Phật Giáo



Chuối đây
28-05-2007, 15:43
Ý Nghĩa Về Lá Cờ Phật Giáo

I.- Nguồn gốc

Người phác họa ra lá cờ Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2-8-1832 tại New Jersey, Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Ông nguyên là Ðại Tá Hải Quân của Quân Ðội Hoa Kỳ. Khoảng năm 1875, ông chưa hề học hỏi về giáo lý nhà Phật, nhưng khi cơ duyên đã tới, ông là phóng viên của tờ báo The New-York Daily Graphic, đã giao cho ông nhiệm vụ gặp một phụ nữ người Nga tên là Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), để viết bài về trường hợp bà nầy có những sự kiện huyền bí. Tại nông trại của Eddys ở New-York, hai người đã gặp nhau, từ đó bà Blavatsky đã hướng dẫn ông trên con đường đạo.

Bà H.P. Blavatsky, ông H.S. Olcott, ông W. Q. Judge là những người đã thành lập Hội Thông Thiên Học Mỹ Quốc ngày 17-11-1875, nay trở thành Hội Thông Thiên Học Quốc Tế, có 60 nước hội viên và trụ sở đặt tại Adgar, Ấn Ðộ.
Ông có công lớn nhất trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo Tích Lan, từ đó nhà Phật học uyên thâm Anaragika Dharmapala người Tích Lan, môn đệ của Olcott, đã khôi phục nền Phật Giáo Ấn Ðộ ngày 21-1-1891, và cũng từ đó dần dần Phật Giáo truyền bá sang phương Tây, rồi lan tràn khắp thế giới.
Ông và bà Blavatsky thọ trì tam quy, ngũ giới với Thượng Tọa Bulatgama tại chùa Wijayananda có sự hiện diện của hàng ngàn chư Tăng, Ni, Phật Tử và gây xúc động mạnh mẽ cho những Phật Tử đã chứng kiến, vì đây là lần đầu tiên Giáo Hội Tăng Già Tích Lan làm lễ quy y cho hai người Phật Tử Âu Mỹ.
Sự nghiệp truyền bá và chấn hưng Phật Giáo của ông không thể nói hết trong khuôn khổ bài nầy. Ông đã tổ chức những trường học Phật Giáo khắp xứ sở Tích Lan, từ thành thị tới thôn quê hẻo lánh. Số trường học lúc ban đầu chỉ có 46 trường (năm 1897) và 6 năm sau (1903), số trường học đã lên đến 174 trường, và đến năm 1940 đã có 429 trường, trong đó có 12 Trường Trung học được chính phủ tài trợ . Không chỉ riêng ở Tích Lan, ông còn vận động để mở các trường học Phật Giáo ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Ðiện, Ấn Ðộ.
Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Susmangala, Tích Lan, phỏng theo sáu mầu hào quang của Ðức Phật (xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam và mầu tổng hợp của năm mầu này), đã phác họa ra mẫu cờ Phật Giáo. Về ý nghĩa, ông phát biểu như sau : "Nó có thể được các quốc gia Phật Giáo chấp nhận như một biểu tượng quốc tế cho tín ngưỡng của họ, giống như cây thánh giá đối với tín đồ Thiên chúa giáo ."
Lá cờ này được Tích Lan công nhận và treo tại các chùa ở xứ này trong ngày lễ Phật Ðản từ năm 1889, và 61 năm sau, tại Ðại hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên, tổ chức tại Colombo, thủ đô Tích Lan, từ ngày 25-5-1950 đến 8-6-1950 có 26 nước tham dự (1), phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Thượng Tọa Tố Liên, Trụ trì chùa Quán Sứ Hà Nội làm đại biểu (2), Hội nghị đã thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhists), và chọn lá cờ Phật Giáo Tích Lan làm cờ Phật Giáo Thế Giới.
Ðến ngày 6-5-1951, tại chùa Từ Ðàm, cố đô Huế, một Ðại Hội Phật Giáo ba miền Bắc Trung Nam, gồm 51 đại biểu Tăng già và cư sĩ, sau 4 ngày họp, đã thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Trong dịp nầy, Thượng Tọa Tố Liên đã tặng Ðại Hội lá cờ Phật Giáo Thế Giới, và đại hội đã chấp nhận lá cờ nầy cũng là cờ Phật Giáo Việt Nam.
Bằng một tâm hồn thiết tha với Ðạo Pháp, ròng rã suốt 38 năm, Phật tử Henry Steel Olcott đã dùng quãng đời quí báu của mình, để phục vụ tha nhân và ông mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, quê hương Ðức Phật. Lúc đó ông 75 tuổi.

II- Ý nghĩa của lá cờ Phật Giáo

Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình của mọi người con Phật .

Ngoài ra, cờ Phật Giáo còn có ý nghĩa cắt bỏ quan niệm cố chấp các ranh giới địa phương, gia tăng niềm hăng hái đoàn kết để phụng sự cho Ðạo Pháp và dân tộc.
Năm sắc theo chiều dọc : Xanh đậm, vàng, đỏ, trắng, cam, tượng trưng cho hào quang chư Phật .
Năm sắc theo chiều ngang ( chiếm diện tích 1/6 lá cờ ) là mầu tổng hợp tượng trưng cho ánh sáng hào quang chư Phật. Ý nghĩa của màu sắc phân biệt là :
1.- Xanh đậm : Tượng trưng cho Ðịnh căn. Màu xanh tượng trưng cho sự rộng lớn, sáng suốt .
2.- Vàng lợt : Tượng trưng cho Niệm căn, vì có Chánh Niệm mới sanh Ðịnh và phát Huệ.
3.- Ðỏ : Tượng trưng cho Tinh Tấn căn. Có tinh tấn mới khắc phục được mọi trở ngại, nghịch cảnh .
4.- Trắng :Tượng trưng cho Tín căn, niềm tin không lay chuyển, và có tín căn là có Nhân Duyên với chư Phật và nguồn gốc sanh ra muôn hạnh lành.
5.- Da cam : Tượng trưng cho Huệ căn. Khi có Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh đầy đủ thì Tuệ sẽ phát sanh.
6.- Màu tổng hợp : Tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của Phật giáo đồ trên toàn thế giới.

III.-Kết luận

Là Phật Tử, chúng ta luôn luôn tôn trọng và bảo vệ lá cờ Phật Giáo, vì trên hết, nó tượng trưng cho Phật Giáo, và cho tinh thần đoàn kết, bất phân biệt của tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới .

ghi chú: 1) 26 nước tham dự Ðại Hội và trở nên Hội viên sáng lập Hội Phật Giáo Liên Hữu Thế Giới là : Anh, Ấn Ðộ, Bhutan, Ðức, Hawai, Hong Kong, Kampuchia, Lào, Mã Lai, Miến Ðiện, Mỹ, Na Uy, Nam Dương, Nhật Bản, Nepal, Pháp, Phi Luật Tân, Sikkim, Tân Gia Ba, Tây Tạng, Thái Lan, Thụy Ðiển, Tích Lan, Triều Tiên, Trung Hoa và Việt Nam.
(2) Phái đoàn Việt Nam chỉ có 2 người: Thượng Tọa Tố Liên -- đại biểu chánh thức, và ông Phạm Chữ -- công chức Bộ Ngoại Giao Quốc Gia Việt Nam, tháp tùng theo làm Thông dịch viên.

:::Minh Đức Bùi Ngọc Bách:::

Chuối đây
28-05-2007, 15:44
Chử Vạn hay là chử thập ngoặc đúng là biểu tượng của đạo Phật . Điều này là hiển nhiên và không có gì phải lo ngại cả . Tiếng Phạn chử này đọc là Swatika . Tụi Âu Mỹ cũng đọc chử này là Swatika . Nguyên thủy Swatika có nghỉa là cát tường . Nếu bạn có dịp đi qua Thái Lan, hoặc là đã từng coi phim của Thái Lan, bạn sẽ thỉnh thỏang thấy rằng khi các phụ nử Thái Lan chào người lạ một cách lể phép, họ sẽ chắp tay xá bạn rồi nói : "Swatika" . Nghỉa là họ chúc bạn được cát tường . Hoặc là trong phim Tàu, thời nhà Thanh , triều đình rất sùng đạo Phật, Mật Tông, vì dân Mản châu cũng như dân Mông cổ theo đạo Phật , phái Mật tông . Dân chúng hoặc là quan lại tôn kính phủ phục trước quan trên hay là ngườii trong hòang gia, quốc thích, họ cũng chúc : " Cát tường" .
Chử này không thuộc về riêng của đạo Phật mà của cả đạo Hindu tức Ấn độ giáo hay là Bà la môn . Thực sự chử này thuộc về nền văn minh nào, dân tộc nào , hay là tôn giáo nào ? Hình như thuộc về của chung thì đúng hơn .
Cứ càng lúc thì người ta càng khám phá ra sự lạ lùng của chử này .

Chử Vạn này đã có trong hoa văn trang trí của các đền thờ nhà cửa quần áo nử trang của các vương quốc mà bây giờ thuộc Ấn Độ, Nepal, .., cách đây hàng mấy ngàn năm, lúc chưa có cả đạo Phật . Rồi ngay cả trong một số bộ lạc da đỏ ở vùng Trung Mỹ cũng có thờ phượng biểu tượng này . Có một quốc gia rất nhỏ tên là Kuna Yala ở vùng Trung Mỹ dùng luôn biểu tượng này trên nền cờ vàng viền cam . Đương nhiên là các bộ lạc da đỏ vùng Trung Mỹ chẳng có biết gì về đạo Phật cũng như Phát Xít của Đức cả .

Trong các phát hiện về khảo cổ nghiên cứu về Thành Troa trong thần thọai Hy Lạp , người ta cũng thấy chử Vạn khắc trên các đồ dùng vật dụng như chén bát, bình đựng nước . Nên biết rằng Paris, Helen, thần Jeus, thần tình yêu Venus ,.., của Hy Lạp không có bà con với Phật Thích Ca của châu Á .

Vào khỏang đầu thế kỷ 18, học giả người Đức Heinrich Schliemann tìm ra sự quan hệ của chử Vạn và chủng tộc Aryan , chủng tộc lai giửa Ba Tư, Ấn độ và người da trắng Âu châu . Chủng tộc này cũng là tổ tiên của người Đức, Áo . Và trong đầu thế kỷ 20, chử Vạn lập tức được lan truyền khắp dân gian của Đức và trở thành biểu tượng của chủng tộc mà họ cho là thượng đẳng , chủng tộc Đức . Do đó, để tìm hiểu sâu thêm về sự bí hiểm của chử Vạn và sự liên hệ văn hóa, và cũng cùng mục tiêu kích động tinh thần quốc gia cực đoan , đảng Quốc Gia Xả hội Đức đã gửi học giả Himle cầm đầu một phái đòan , cánh tay mặt của Hitler sau này, qua tận Tây Tạng để nghiên cứu . Điều này giờ đây không còn là bí mật nửa . Tôi có coi cả đọan phim tài liệu trên truyền hình, quay rỏ về chuyến đi này và họ ăn ở ra sao ở bên Tây Tạng .
Không biết ông ta có học được gì về giáo lý từ bi của Phật Pháp nhiệm mầu hay không ? Hay là ông ta và phái đòan nghiên cứu chỉ học một số huyền thuật để mê hoặc lòng người ? ? Nhưng chử Vạn , biểu tượng của Phật Giáo và cũng là biểu tượng của chủng tộc Aryan, tổ tiên người Đức, trở thành biểu tượng của quốc gia Đức, rồi trở thành biểu tượng của đảng quốc gia xả hội Đức , rồi trở thành biểu tượng của Fascist .
Đến bây giờ, Âu Mỹ vẫn không hiểu bằng cách nào , mà Hitler và đảng quốc gia xả hội Đức đã mê hoặc cả một quốc gia, xô cả một quốc gia đi vào đường xâm lăng giết hại cả thế giới như vậy ?
Trong một đọan phỏng vấn một cựu thiếu niên quốc xả . Ông ta bây giờ đã già , ông ta cũng nói rằng không hiểu tại sao lúc đó, ông ta như bị bùa mê thuốc lú . Cứ như điên cuồng . Cứ mổi lần nhìn thấy Hitler trên TV thôi là máu ông đã sôi sục lên hăng hái khác thường . Ông mê man với các diển thuyết của Hitler . Lời hiệu triệu của quốc trưởng làm ông hăng say và sẳn sàng chết , cũng như giết chết đối phương, bất kể là ai . Nhưng không phải một mình ông ta mà tất cả những người xung quanh như là lên cơn động kinh tập thể , chỉ biết có tuân lịnh Hitler mà thôi .

Trở lại chử Vạn , ngay cả một cái cầu tên là Laguna Bridge bắc qua sông Colorado của Mỹ cất hồi năm 1903, cũng đã có khắc chử Vạn với hy vọng cát tường . Lúc này chưa có đảng quốc xã ở bên Đức .

Và mới đây nửa, trong một phát hiện về khảo cổ ở đảo Phục Sinh , Easter Island, một vùng đảo nằm trên biển Thái Bình Dương . Người ta cũng tìm thấy chử Vạn khắc trên đá
http://img.photobucket.com/albums/v246/nicholaschan/ha.jpg
Theo các nhà khảo cổ thì các dấu tích khảo cổ trên đảo này hòan tòan không thuộc về nền văn minh nhân lọai hiện nay . Nó đã có cách đây hàng triệu năm . Lúc mà mấy con khủng long còn chưa có trên quả đất .

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/63/HinduSwastika.svg/200px-HinduSwastika.svg.png

trong đền thờ đạo Bà La Môn .
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d5/Svastika_hampi.jpg/250px-Svastika_hampi.jpg


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/3c/GreekHelmetSwastika.jpg/300px-GreekHelmetSwastika.jpg

trên mũ các chiến binh Hy Lạp khỏang năm 350 trước Công Nguyên .

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/27/KunaFlagMola.jpg/200px-KunaFlagMola.jpg


cờ đảo quốc Kuna
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/e/e0/KunaYalaFlag.svg/250px-KunaYalaFlag.svg.png



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/7a/Owlvasetroy.png/170px-Owlvasetroy.png
trên các bình đựng nước ở thành Troa .


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/9b/Swastika_iran.jpg/180px-Swastika_iran.jpg
ở Ba Tư (Iran )



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/fa/Romanswastika.JPG/266px-Romanswastika.JPG
ở La Mã .


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/31/Nydam.8.jpg/200px-Nydam.8.jpg
ở Đan Mạch

Ta có thể bắt gặp chữ Vạn ở những nền văn minh lớn hoàn toàn không có liên hệ gì với nhau , mà hình ảnh chữ Vạn lại tượng trưng cho sự Luân Hồi , như vậy là thuyết Luân Hồi không hề hư dối

Khoa học đã chứng minh là từ xa xưa đã có những nền văn minh lớn phát triển tột cùng , nền khoa học kỹ thuật của ta ngày nay còn thua xa họ nhiều , họ không những phát triển tột cùng về Khoa Học Kỹ Thuật mà còn phát triển cả về mặt Khoa Học Tâm Linh , nhưng không tránh khỏi Luật Trời , cái gì có sinh rất có diệt , phát triển đến tột cùng thì sẽ đi xuống và tiêu tan , như Xuân->Hạ->Thu->Đông->Xuân .Như nhân dân của châu lục MU ( hay còn gọi là đại lục LEMURIA),một châu lục đã biến mất từ lâu- đã lấy chữ Vạn làm biểu tượng của mình

Chuối đây
28-05-2007, 15:45
về việc Hít Le ngẫu nhiên chọn hình chữ "Vạn" làm biểu tượng ,thì mình nghĩ có thể là huyền ký ông ta có sứ mệnh " giúp nhân dân Thế Giới trả nghiệp "

Chữ Vạn còn giống cái này nữa nè:
http://img.photobucket.com/albums/v246/nicholaschan/m101_hst_f.jpg

pvc
28-05-2007, 16:07
cám ơn bác
à mà cái bùa của bác có ý nghĩa gì thế bác chuối ơi

Chuối đây
28-05-2007, 16:08
cái bùa của ông có ý nghĩa gì thếng chuối ơi

Chữ tiếng việt bên cạnh còn gì nữa, bác đọc đi thôi!!!:Q

pvc
28-05-2007, 16:13
bé tý thế nhìn thấy thế quái nào được

Chuối đây
28-05-2007, 16:30
Đây nhìn rõ nhá
https://img502.imageshack.us/img502/2945/cliptg3.jpg

pvc
28-05-2007, 16:58
Đây nhìn rõ nhá
https://img502.imageshack.us/img502/2945/cliptg3.jpg

đọc dich ra có nghĩa gì vậy bác ôi

ngaba_hoangsuphi
24-04-2008, 13:29
Niệm Phật ngoài miệng đẩy đưa,
Tật hư chẳng bỏ tương dưa ích gì.
Niệm Phật diệt tham sân si,
Thất tình lục dục tống đi cho rồi.
Niệm thế mới đúng ai ôi,
Niệm ngoài cửa miệng lôi thôi thêm rầy.
Miệng tâm hoà một mới hay,
Trong ngoài tu cả Phật rày mới linh.
Niệm sao dứt nghiệp sát sinh,
Để cho thế giới thái bình an vui.
Niệm sao cứu khổ ban vui,
Chớ không phải để ngược xuôi bao giờ.
Niệm Phật không kể thân sơ,
Thấy người đau đói làm ngơ sao đành.
Niệm Phật lánh dữ làm lành,
Chớ đừng mê lợi, mê danh, mê tình.
Niệm Phật quyết đặng vãng sinh,
Ăn chay, giữ giới tội tình lánh xa.
Niệm Phật giữ một chữ hoà,
Không tranh hơn kém nhà nhà vui tươi.
Niệm Phật thuận thảo ai ơi,
Bỏ đi những chuyện tranh ngôi tranh quyền.
Niệm Phật lòng dạ cho chuyên,
Quyền cao lợi lớn là thuyền mong manh.
Niệm Phật phải dứt tương tranh,
Mê đời cặn bã hôi tanh làm gì.
Niệm Phật chớ có hồ nghi,
Tín tâm bền chặt nguyện ghi vào lòng.
Niệm Phật chớ có ghi công,
Phật nào gian lận mà hòng kể ra.
Niệm Phật việc ác tránh xa,
Việc lành cố gắng hiện ra bề ngoài.
Thực hành từ thiện không sai,
Liên đài để sẵn chờ ngày vãng sanh. Sưu tầm

r0sy
16-02-2009, 20:53
Hôm nay em mới đọc bài này và biết về chữ Vạn đó, quả là thú vị. Cám ơn bác Chuối nhé (c). Nghĩ lại thấy cũng buồn cười, hôm đó em và mấy bạn Khoai tây đi chùa, thấy cái này đứa nào cũng nghệt mặt ra, chúng nó nghĩ em theo đạo Phật nên xúm lại hỏi. Khổ mình cũng ngu chả kém, nói bừa "tao nghĩ nó là biểu tượng của đức tin gì đó nên hitler lấy nó", sai toét toè toe :T

WoodenFish
20-02-2009, 12:19
Mời các bác tham khảo thêm bài viết của Phạm Việt Hưng trên ĐôngTác.Net bàn về vấn đề này. Mấy cái hình sao không up lên được, các bác thông cảm.


Lịch sử chữ thập ngoặc
History of Swastika

Rất nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ thập ngoặc” của Đức quốc xã.
Gọi là “chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng. Người Việt Nam đã khéo léo phân biệt 2 biểu tượng này bằng cách dùng hai tên gọi khác nhau. Nhưng với người tây phương, cả 2 biểu tượng đều được gọi là Swastika, vì hình thức của chúng hoàn toàn như nhau.
Trước đây, trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Văn Nghệ ngày 15-06-2002, tôi đã nêu lên nhận xét cho rằng đây không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, mà phải có chủ ý – chủ nghĩa quốc xã Đức đã cố tình lợi dụng Swastika để làm biểu tượng của chúng. Tuy nhiên, mọi nhận định trong bài viết đó vẫn mang tính chất suy luận cá nhân, chưa thể hiện đánh giá chính thức của lịch sử thế giới.
Hôm nay tôi đã có đủ tài liệu để giới thiệu với đọc giả những sự thật lịch sử được ghi chép trên các tài liệu chính thức, trong đó cho biết đích thân Hitler đã chọn Swastika làm biểu tượng của đảng quốc xã, nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã.
Trước khi tìm hiểu cụ thể, xin chú ý rằng:
• Swastika không phải là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau.
• Swastika của Đức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika của người Aryan.
Vì thế để tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng này là “Swastika”. “Chữ Vạn” sẽ chỉ được dùng cho Swastika của Phật giáo.
Vậy Swastika có xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi sẽ được trả lời trong bài viết này.
1- Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika

Bản đồ 1
Swastika là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng sông Indus (Bản đồ 1). Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troy (Bản đồ 2), chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.

Bản đồ 2
Mặc dù chưa ai vẽ ra được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các thời đại, nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng Hy Lạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ.
Trong tiếng Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being).
Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity).
Swastika trong nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tư (Hình 1-1), nhưng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả.

Hình 1-1
Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality).
Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết:
Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo kinh Trường A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật.
Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) – trong đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến tận thời trung cổ.
Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc là Seltic hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá này là người Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến đấu.
Cần đặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?
2- Ngôn ngữ Aryan và người Aryan
Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ).
Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay (Bản đồ 3). Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan.

Bản đồ 3
Vào khoảng 1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ được trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú quý (nobleman) hoặc chúa tể đất đai (lords of land)!
Một nhánh khác của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, Phần Lan, Latvia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ đại.
Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (đã dẫn), tôi đã đặt dấu hỏi: “Dân tộc Iran ngày nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”.
Và tôi đã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thư Wikipedia viết: “Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran”.
Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: "Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước nền văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây.
Tóm lại, người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần đã di cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay.
Tuy nhiên, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại.

(còn tiếp)

WoodenFish
20-02-2009, 12:31
SWASTIKA (Tiếp theo)

3- Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”
Như đọc giả đã thấy, những văn bản cổ mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan đến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.
Đến những năm 1920, chủ nghĩa quốc xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên đến mức cực kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Đác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người.
Nhưng tại sao Đức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng?
Trước khi biết rõ bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn Swastika làm biểu tượng cho đảng quốc xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây:
Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám phá ra Swastika trên đống đổ nát của thành Troy, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách khác:
Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan!
Muốn biết Swastika của người Aryan đã bị Hitler lợi dụng ra sao, xem bài kỳ sau sẽ rõ.
(Kỳ 2: Chủ nghĩa chủng tộc)
Chú thích minh hoạ:
Bản đồ 1: Khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng sông Indus, một trong những cái nôi văn minh của loài người. Tại đó tìm thấy những chữ Swastika có độ tuổi khoảng 3000 năm.
Bản đồ 2: Vị trí Thành Troy trên bản đồ. Swastika cũng được tìm thấy trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troy, chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.
Bản đồ 3: Vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay, nơi xuất xứ của người Aryan. Từ đây, một bộ phận người Aryan di cư đến Bắc Ấn, một bộ phận ở lại Iran, một bộ phận chinh phục châu Âu, trở thành người Ấn-Âu tiền sử.
Hình 1-1: Swastika trong nghệ thuật và văn hoá của người Hindi, trong đó có 4 dấu chấm ở các cung phần tư, nhưng Swastika của Hindu giáo không có 4 dấu chấm đó, thể hiện sự thiêng liêng.
Racism
Chủ nghĩa chủng tộc


Lý thuyết “chủng tộc thượng đẳng” (master race) của chủ nghĩa quốc xã (nazism) là
con đẻ của một “bà mẹ bệnh hoạn” – Học thuyết Darwin-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – và một “ông bố điên rồ” – Tư tưởng phục thù (Feeling of Revenge) trong xã hội Đức sau Thế Chiến I.
Khi đã có Học thuyết Darwin-xã-hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc Đức” thành “chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa quốc xã chỉ còn thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler đã tìm thấy biểu tượng đó: Swastika của người Aryan!
Vậy trước hết hãy tìm hiểu xem Học thuyết Darwin-xã-hội là gì?
1- Học thuyết Darwin-xã-hội
Học thuyết Darwin-xã-hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách máy móc Thuyết tiến hoá của Darwin vào trong xã hội loài người.
Không phải ngẫu nhiên mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn lan chủ nghĩa thực chứng (positivism) vào trong xã hội học.
Chủ nghĩa thực chứng do Auguste Comte (1798-1887) nêu lên từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19, trong đó cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở thành khoa học thực sự khi nó có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế.
Với thắng lợi trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng đã tạo ra tinh thần lạc quan mạnh mẽ trong thế kỷ 19, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải thích hành vi của số đông (en masse behaviour) bằng những quy luật của tự nhiên.
Đúng lúc đó, Thuyết tiến hoá của Darwin ra đời. Những kẻ có đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng Thuyết tiến hoá của Darwin để giải thích sự tiến hoá của xã hội loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loại người cũng phải tiến hoá theo quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết Darwin-xã-hội.
Học thuyết Darwin-xã-hội có liên quan gì đến cá nhân Darwin không?
Trước đây tôi luôn luôn nghĩ rằng Darwin chỉ nêu lên quy luật tiến hoá trong xã hội loài vật mà thôi. Việc đem lý thuyết của ông áp dụng một cách máy móc vào xã hội loài người là việc làm của những kẻ có đầu óc kỳ thị chủng tộc. Nhưng gần đây, tôi phải suy nghĩ rất nhiều khi đọc bài báo “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler cái gì?) của Grenville Kent, trên tạp chí SIGNS of the Times của Mỹ-Úc, số tháng 10 năm 1996, trong đó tác giả đã trích nguyên văn một phát biểu của Darwin như sau:
“Trong một tương lai không xa lắm, có thể đo bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như sẽ tiêu diệt và thay thế các chủng tộc dã man trên thế giới”.
Kent đã trích câu nói này trong tác phẩm nổi tiếng của Darwin, On the Origin of Species (Về nguồn gốc các loài) [Tôi chưa có điều kiện liên lạc với Grenville Kent để kiểm phối tính xác thực của thông tin, nhưng tôi sẽ cố gắng thực hiện việc kiểm phối đó trong tương lai sắp tới].
Nhưng dù câu nói trên xuất phát từ cửa miệng của bất kỳ ai chăng nữa thì chắc chắn đó là một phát ngôn của Học thuyết Darwin-xã-hội.
Kent đặt dấu hỏi chua chát “Nếu Darwin đúng thì tại sao Hitler lại không được bào chữa về mặt khoa học?”, rồi ông cho biết chủ nghĩa quốc xã Đức đã từng lý luận rằng “Nếu chúng ta xuất thân từ động vật thì tại sao chúng ta không hành động theo quy luật (đấu tranh sinh tồn) đó?”. Thế đấy, dưới con mắt của chủ nghĩa quốc xã, con người trước hết là một sinh vật, do đó mọi hành vi trước hết phải tuân theo quy luật đấu tranh sinh tồn – một quy luật bất khả kháng của tự nhiên (!!!).
Ngày nay, khi Học thuyết Darwin-xã-hội đã lộ nguyên hình là một học thuyết bệnh hoạn, không ai có thể chấp nhận sự vay mượn tư tưởng từ một học thuyết thuần tuý sinh học để đem áp dụng vào xã hội loài người một cách thô thiển và đơn giản đến như thế. Nhưng than ôi, đó lại là một sự thật đã diễn ra vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chúng ta không thể được phép quên!
Thật vậy, vào đầu thế kỷ 20, trường Đại học tổng hợp Berlin chặt cứng sinh viên ngồi nghe các giáo sư trình bầy Học thuyết Darwin-xã-hội. Trong đám thính giả có rất nhiều nhà ngoại giao, nhà quân sự, thương gia và các lãnh tụ của nhà nước Đức. Một trong số đó là Heinrich Himmler, kẻ sau này trở thành cánh tay phải của Hitler, đứng đầu bộ máy SS – bộ máy tàn sát chủng tộc khét tiếng của Nazi.
Bối cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng quốc xã thắng thế vào cuối những năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ III (The Third Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong lịch sử.

WoodenFish
20-02-2009, 12:37
SWASTIKA (Tiếp theo & hết)

2- Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù
Bước vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại (mà không “tâm phục khẩu phục”) của Đức trong cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng bất mãn sâu sắc hơn nữa. Để chống lại căn bệnh này, những nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
Trong bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan và Swastika cùng với Học thuyết Darwin-xã-hội đã trở thành “những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thuỷ tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh tuý nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới.
Một trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg. Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong “hệ thống các bậc thang chủng tộc” (racial hierarchy), trong khi “chung tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn hoá và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ gìn hoặc phá hoại những nền văn hoá đó mà thôi. Rosenberg sau này đã trở thành cánh tay phải của Hitler về tuyền truyền và giáo dục tư tưởng quốc xã, đồng thời làm bộ trưởng quốc xã phụ trách khu vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại toà án tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16-10-1946.
Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là bộ phận tinh tuý nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang 661)”.
Một khi đã tự nhận mình là hậu duệ tinh túy nhất của người Aryan thì đương nhiên, những kẻ theo chủ thuyết chủng tộc Đức cũng sẽ tự nhận Swastika là biểu tượng của họ, bởi như chúng ta đã biết trong bài kỳ trước: Nhà khảo cổ học Heinrich Schliemann đã khám phá ra rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu, tức đặc trưng của người Aryan. Đó là lý do để chủ nghĩa quốc xã đã chộp lấy Swastika để biến thành biểu tượng của chúng.
3- Swastika rơi vào tay quỷ dữ
Bách khoa toàn thư Wikipedia cho biết:
Cuối thế kỷ 19, Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc xuất bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu tượng chính thức của những vận động viên thể thao Đức.
Đầu thế kỷ 20, Swastika của người Aryan đã trở thành một biểu tượng chung của chủ nghĩa dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm thấy ở nhiều nơi như biểu tượng của Wandervogelb - một phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp chí Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz von Liebenfels; trên nhiều đơn vị Freikorps khác nhau; và như một biểu tượng của Hội Thule.
Nhưng Swastika chỉ chính thức trở thành biểu tượng của quỷ dữ kể từ khi Hitler chính thức sử dụng biểu tượng đó.
Sau hai lần thi trượt vào Đại học Mỹ thuật, Hitler rất hậm hực bất mãn. Năm 1909, Hitler cảnh kiếm sống bằng cách vẽ bưu ảnh để bán cho du khách (tổng cộng trước Thế Chiến I, Hitler đã bán được 2000 bưu thiếp). Chẳng bao lâu sau Hitler say mê với những lý thuyết về chủng tộc Aryan, coi người Do Thái là kẻ thù của người Aryan và phải chịu trách nhiệm về những khủng hoảng trong nền kinh tế Đức.
Đến những năm 1920s, khi trở thành lãnh tụ đảng quốc xã, Hitler thấy đảng này cần phải có một lá cờ và biểu tượng riêng của nó.
Năm 1923, Hitler bị phạt tù 5 năm vì một hành động chống chính phủ. Trong tù, Hitler viết tác phẩm “Mein Kampf” (Cuộc chiến đấu của tôi), trong đó viết: “Lá cờ mới phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của chúng ta, đồng thời có hiệu quả cao như một áp-phích tuyên truyền”. Không những thế, vốn xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể của lá cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa trên một hình tròn mầu trắng. Hắn viết trong Mein Kampf: “Mầu trắng thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng Sawstika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự chiến thắng của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”.
Chẳng bao lâu sau, Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng quốc xã, chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa quốc xã, bao gồm cả những kỹ thuật tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là chiếm lĩnh châu Âu.
4- Kết
Như đọc giả đã thấy, đich thân Hitler đã chọn Swastika của người Aryan làm biểu tượng cho đảng quốc xã. Từ năm 1933, khi đảng quốc xã thắng cử ở Đức, Hitler trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III, thì Swastika trở thành biểu tượng của cả nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã. Kể từ đó, Swastika bị coi là biểu tượng của quỷ dữ. Sau Thế Chiến II, Swastika bị cấm phô bầy tại rất nhiều nước Âu châu.
Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, khi sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các quốc gia, các sắc tộc, các vùng địa lý, các truyền thống văn hoá khác nhau ngày một phát triển, thì hai nhận thức khác nhau về Swastika đã gây nên những hiểu lầm và va chạm rất đáng tiếc, thậm chí có nơi đã xẩy ra xung đột.
Một đằng, Swastika là biểu tượng của cái Thiện. Đó là Swastika của Ấn Độ giáo, của Phật giáo. Đó là ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika. Một đằng, Swastika là biểu tượng của quỷ dữ từ khi nó rơi vào tay Đức quốc xã.
Chỉ có một cách duy nhất thanh toán sự hiểu lầm và xung đột này là mọi người phải biết rõ lịch sử của Swastika, để có thể phân biệt được đâu là Swastika của cái Thiện, đâu là Swastika của quỷ dữ.
Trước khi kết thúc, bài viết này xin lưu ý:
Có những người cố gắng chứng minh rằng chữ Vạn của Phật giáo và chữ thập ngoặc của phát xít Đức có hình thức khác nhau. Cụ thể: Chiều quay khác nhau, và tư thế khách nhau: chữ Vạn thẳng đứng, chữ thập ngoặc đổ nghiêng.
Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Văn nghệ ngày 15-06-2002, tôi đã chứng minh cả hai nhận xét đó đều sai. Xin khẳng định lại, về hình thức bề ngoài, Swastika của Phật giáo và Swastika của người Aryan mà Đức quốc xã đã lợi dụng, hoàn toàn giống nhau. Xin cung cấp thêm bằng chứng:
a• Ngay trên 2 cánh cổng chùa Pháp Hoa, Q 3, TP HCM, bạn có thể thấy 2 chữ Vạn có chiều quay trái ngược nhau, đối xứng với nhau (Hình 2-1). Điều đó có nghĩa là trong Phật giáo, chữ Vạn có thể có cả 2 chiều quay, một trong 2 chiều quay này trùng với chiều quay của Swastika của Đức quốc xã. Do đó không thể căn cứ vào chiều quay để phân biệt chữ Vạn với chữ thập ngoặc.

b• Trong Hình 2-2, hình ảnh Hitler đang được tiền hô hậu ủng thời mới lên cầm quyền, có thể thấy chữ thập ngoặc thẳng đứng, không đổ nghiêng. Điều đó có nghĩa là không thể phân biệt Swastika của Phật giáo với Swastika của Đức quốc xã bởi tư thế thẳng đứng hoặc đổ nghiêng.
Chỉ có thể phân biệt các Swastika bằng cách hiểu rõ ý nghĩa lịch sử của nó. Vì thế, lịch sử là một khoa học rất cần thiết đối với nhận thức nói chung.

Chitto
20-02-2009, 22:33
Giá mà bác tóm tắt lại, và viết theo cách bác hiểu, thì tốt hơn nhiều.

Chứ còn copy & paste kiểu này, thì thà bác đưa cái link cho nó nhanh.