PDA

View Full Version : [Lịch sử] Kể chuyện Thăng Long - Hà Nội



Pages : [1] 2

Chitto
15-03-2010, 01:20
Năm nay, 2010, Một nghìn năm cái tên Thăng Long. Một nghìn năm từ Thăng Long đến Hà Nội.

Người ta nói quá nhiều, và tôi cũng đã dự định viết topic này từ lâu, nhưng giờ mới bắt tay vào thực hiện, như là một phần chia sẻ của mình với nơi tôi đã sinh ra và lớn lên.

Tôi không định cắt dán các bài viết dài dằng dặc trên khắp các báo, trên mạng, mà viết những gì tôi biết, tôi hiểu về mảnh đất này. Nếu ai muốn chia sẻ cùng tôi, xin hãy cũng như vậy.

Topic này có thể sẽ rất khô khan, cũng có thể sẽ rất thú vị, tuỳ theo cách nhìn của mỗi người.

Chitto
15-03-2010, 01:41
Mặc dù người ta nói Thăng Long nghìn năm, nhưng đô thành này có cội nguồn lịch sử xa xưa hơn thế.

Khi người Việt - Mường từ vùng trung du của các vua Hùng xuôi xuống đồng bằng, An Dương Vương đã
định đô ở Cổ Loa. Hai Bà Trưng khởi nghĩa, định đô ở Mê Linh. Bắc thuộc nghìn năm, trị sở xứ
này đầu tiên đặt tại Luy Lâu, gắn liền với tên của thái thú Sĩ Nhiếp. Sau đó dời về Mê Linh, rồi sang
Long Uyên - Long Biên. Những đô thành này nằm ở phía Đông sông Hồng, từng bị giặc Chà Và từ
biển đánh vào, giặc Nam Chiếu từ tận Vân Nam đánh xuống.

Đến năm 824, người Tàu cai trị đã đắp thành ở bờ Tây sông Hồng địa phận huyện Tống Bình, và
đến năm 866 thì Tiết độ sứ Cao Biền đắp lại thành Đại La với quy mô lớn. Đây là cơ sở để
năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về và đặt cái tên oai hùng: THĂNG LONG.

Truyền thuyết nói rằng Cao Biền là người rất giỏi phong thuỷ, thấy địa thế Đại La cực tốt, nơi hội tụ đủ cả
sông núi, long mạch linh huyệt của đất Giao Châu, nên vừa là đắp thành trấn giữ, vừa tìm cách triệt hạ
long mạch, nhưng không thành.

Và Thăng Long có được long mạch nội tại của "Nùng sơn chính khí, Tô Lịch giang thần" (Cái khí
thiêng của núi Nùng, cái thần của sông Tô). Bên ngoài có long mạch của Tam Giang, Tam Đảo, Tản Viên
hội tụ, xa hơn nữa là các mạch núi của cả vùng Bắc Bộ.

https://static.panoramio.com/photos/original/33240960.jpg

Chitto
15-03-2010, 02:11
Nhìn vào bản đồ trên, có thể thấy ba dòng sông Hồng, sông Đà, sông Lô tụ tại ngã ba Bạch Hạc, dồn về
Thăng Long. Từ phía Bắc, mạch núi Tam Đảo hùng dũng chầu về, mà điểm cuối cùng là núi Sóc Sơn. Thế
núi đó rất mạnh, nhưng đã cách dòng nước sông Cái, và Thăng Long nằm bên trong chỗ sông Cái đổi
hướng, tránh được cái hướng lực đạo quá mạnh của núi sông như Long Biên, Luy Lâu, mà vẫn đón được
sinh lực của long mạch.

Tuy nhiên, long mạch quan trọng nhất của Thăng Long lại chính là núi Tản Viên (Ba Vì) ở phía Tây.
Đây là án lớn nơi để Thăng Long dựa vào mà trông ra phía Đông của sông và biển.

Tản Viên Sơn - núi Ba Vì - tuy không thật cao, nhưng đứng ở vị trí rất hiểm sát sông Đà, và được coi là
Núi Tổ của tất cả các núi ở trời Nam. Vị thần của núi ấy - Tản Viên Sơn Thánh - được gọi là
Nam Thiên Thần tổ, vị tổ của tất cả các Thần nước Nam, là vị đứng đầu Tứ Bất Tử. Vào những ngày trời
trong, đứng ở Hà Nội dễ dàng thấy núi Tản Viên. Trục Tản Viên - Hồ Tây là trục thần đạo của Hà Nội.

Tương tự, núi Sóc Sơn thiêng liêng ở phía Bắc là nơi vị Thánh Bất tử thứ hai - Phù Đổng thiên vương
- lên trời. Từ Hà Nội cũng có thể thấy Sóc Sơn. Phía Đông Nam Thăng Long là nơi của vị Thánh Bất tử thứ
ba - Chử Đồng Tử.

Có thể nói thời Cao Biền, chắc là không thể quan sát được long mạch của các dãy núi quá xa, nhưng địa
thế của Tản Viên và Sóc Sơn thì rất dễ nhận ra, lại thêm cái thế của Tam giang cũng không phải khó thấy,
nên Cao Biền mới quyết tâm trấn đất này.


Núi Tản Viên - Ba Vì nhìn từ hồ Tây, khoảng cách gần 50km. đây là trục Thần đạo của cả vùng.

https://static.panoramio.com/photos/original/33240972.jpg

sang30tet
15-03-2010, 13:49
Bạn quả là người nghiên cứu rất kỹ về lịch sử và truyền thuyết của Đất Việt ta; Lúc bé tôi hay đọc truyện của tác giả "Nguyễn Đổng Chi dịch và sưu tầm", cũng thấy nhắc đến Cao Biền trấn thủ Giao Châu, làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ. Cao Biền một thầy địa lý rất giỏi thời Đường Trung Hoa, Cao Biền đã đi khắp nước Việt ta để trấn và triệt phá Long mạch, đặc biệt trong truyền thuyết "Trâu vàng, Đoài hồ", theo dân gian ông cũng là người đã đắp đê bao xung quanh thành Đại La. Nghe các cụ kể chuyện lại từ thời các Vua, Chúa phong kiến nước ta cũng phái nhiều Thầy địa lý giỏi đi phá những nơi Cao Biền đã trấn...??? "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" :)

Chitto
15-03-2010, 15:05
Truyện về Cao Biền trên mạng có rất nhiều, nhưng tôi muốn kể cả về những dấu tích trước thời đó, thời kì trước khi có Đại La.

Các vị thánh thần đất Việt đã có trên vùng đất này từ xa xưa, mà truyền thuyết còn lưu truyền mãi trong dân gian. Có các bậc Thần sau: (1) Nhiên thần là thần của tự nhiên sông núi, trường tồn với non sông (2) Thiên thần là thần từ trời giáng sinh rồi trở về trời (3) Nhân thần là người, rồi hiển thánh hoá thần (4) Thú thần là loài thú tu luyện thành thần như hổ báo rắn thuồng luồng (5) Quỷ thần là yêu quỷ thành thần. Ba bậc đầu thường được tôn làm Thánh.

Hãy thử xem các vị Thánh bất tử của người Việt ngự ở đâu quanh Thăng Long?

Thánh Tản Viên, vị Thần tổ, là Nhiên thần, ngự trên đỉnh Tản Viên. Người Mường cũng tôn kính gọi là Thánh Cả Ba Vì. Có 4 đền chính gọi là bốn Cung thờ Thánh, mà lớn nhất là Đông cung - Đền Và ở Sơn Tây. Tản Viên đã từng nhổ nước bọt khinh bỉ khi Cao Biền định yểm núi này.
Thánh Tản Viên là biểu tượng Chinh phục thiên nhiên của người Việt.

Thánh Gióng, Phù Đổng thiên vương là Thiên thần, quê ở Phù Đổng phía Đông Thăng Long, nhưng lại thăng thiên hoá thánh ở phía Bắc, trên đỉnh Sóc Sơn.
Thánh Gióng là biểu tượng chống ngoại xâm của người Việt.

Thánh Chử Đồng Tử, Chử Đạo tổ, là Nhân thần, ở Đa Hoà, gặp Tiên Dung trên bãi Tự Nhiên phía Nam thành Thăng Long, dạy dân buôn bán, tu hành rồi hoá thánh lên trời tại đầm Dạ Trạch.
Thánh Chử là biểu tượng của hôn nhân, cuộc sống sung túc.

Các đền thờ của ba vị Bất Tử trên đã bao bọc mảnh đất này từ trước khi Cao Biền xây thành.

Đến đời Lý, dân gian đã tôn thêm một vị nữa cho thành Tứ Bất tử, đó là Từ Đạo Hạnh, biểu tượng của tu hành, của Phật giáo. Từ Đạo Hạnh là người Thăng Long, nơi thờ chính là chùa Láng và chùa Thầy. Mãi đến đời Lê, người ta mới thay Thánh mẫu Liễu Hạnh vào chỗ của Từ Đạo Hạnh.

Như vậy, thành Thăng Long đã được các Thánh Bất tử của tâm linh người Việt bảo hộ từ bốn phía trong cả nghìn năm.


https://static.panoramio.com/photos/original/33259505.jpg

Chitto
15-03-2010, 17:53
Vậy phải chăng Thăng Long chỉ trông cậy vào thần thiêng của các vị Thánh bên ngoài, mà không có Thần của riêng mình? Không phải, Thăng Long có vị Thần chủ, đó là Thần Long Đỗ.

Long Đỗ nghĩa là Rốn rồng, sông Cái chỗ này uốn cong như bụng rồng, và đất này chính là Rốn rồng. Thần Long Đỗ là vị Nhiên thần cai quản Núi Nùng sông Tô, tụ hội linh khí của cả hai. Núi Long Đỗ truyền thuyết, hay là núi Nùng, là núi đất cao lên giữa thành, bên cạnh có vực sâu ăn thông vào lòng đất. Sông Tô Lịch bao quanh thành tạo thành long mạch thiêng.

Núi Long Đỗ ở đâu? Nếu như cho rằng các triều Lý, Trần, Lê đều dựng điện chính trên núi Nùng, thì ngày nay đó chính là thềm điện Kính Thiên trong khu di tích hoàng thành, và đã thấp đi rất nhiều so với nghìn năm trước.

Sông Tô ngày xưa là sông nào? Tô Lịch giang xưa kia chạy vòng quanh thành từ bắc sang tây xuống nam. Từ nơi nối với sông Hồng là Giang Khẩu, Tô Lịch chảy phía dưới hồ Tây, nối với hồ Tây tại Hồ Khẩu (nay vẫn còn làng Hồ Khẩu), gặp sông Thiên Phù ở Bưởi rồi chảy xuống phía nam. Sau lời nguyền của ông Dầu bà Dầu, dòng Thiên Phù bị lấp từ đời Lý. Phần phía Bắc Tô Lịch bị lấp dần vào đời Nguyễn, mới chỉ hơn trăm năm trước, ngày nay chỉ còn dòng nước thải đen ngòm thay cho:

"Nước sông Tô vừa trong vừa mát
"Em đỗ thuyền ghé sát thuyền anh...


https://static.panoramio.com/photos/original/33264890.jpg

zanghoang
15-03-2010, 17:58
em thấy hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về thời đại đầu tiên đóng đô trên đất Hà Nội - thời đại An Dương Vương.

có nhiều ý kiến cho rằng thực tế không có thời đại này vì trong chính sử không thấy ghi chép về thời đại này, phần nhiều những gì ta biết về thời đại này toàn do truyền thuyết

tất nhiên ý kiến này chỉ là thiểu số thôi, nhưng nếu nói về Hà Nội - Thăng Long thì cũng không thể bỏ qua được thời đại vua An

em thì không có chính kiến, bác Chít to có ý kiến gì về vấn đề này không ạ.

Chitto
15-03-2010, 22:40
em thấy hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về thời đại đầu tiên đóng đô trên đất Hà Nội - thời đại An Dương Vương.

Hai năm trước tôi có đi chơi qua Cổ Loa. Sau khi rời khu trung tâm đi lên phía đền Sái, được khoảng hơn một cây số thì gặp một đoạn bờ đất cao, phía dưới có một khu đào vào chân bờ đất sâu đến hơn 2m. Tôi hiểu đây là dấu vết vòng thành Cổ Loa, và người ta đang đào khảo cổ.

Tôi dừng lại xem, và có nói chuyện sơ qua với một người đàn ông ngồi ở đó. Tôi không có chuyên môn gì nên nhìn vào lớp đất bị cắt chỉ cảm thấy có vài lớp hơi khác với chỗ khác,.. Còn người đàn ông kia nói rằng với chuyên môn khảo cổ thì có thể thấy tường thành này đã được đắp rất lâu, có thể từ hai nghìn năm trước.

Nếu đúng như ông ấy nói, thì thành Cổ Loa có thể đã được đắp từ thời đầu Công nguyên. Và thời đó dù người ra lệnh đắp thành có thực tên là An Dương Vương không, thì đó cũng phải là người có quyền hành lớn mới có thể sai người đắp một vòng thành rộng đến vậy (và còn nhiều vòng thành nữa). Dù sau này có thể là Ngô Quyền định đô ở đây như sử ghi, có cho đắp thêm, thì sự tồn tại một chính quyền tại đây vào đầu Công nguyên có thể chứng minh bởi bằng chứng vật thể khảo cổ được, chứ không phải chỉ là chuyện ghi chép trong chính sử hay dã sử, huyền sử.

Chitto
15-03-2010, 23:03
Tiếp tục quay lại chuyện vị Thần chủ của Thăng Long.

Truyện Lĩnh Nam chính quái và Việt Điện U linh chép rằng (vắn tắt) khi Cao Biền đi thuyền trên sông Tô Lịch thì thấy một vị thần hiện ra trên sông, rồi làm phép khiến sóng gió mù mịt mà biến mất. Lại lần nữa khi đang xây thành Đại La, Cao Biền đi ra phía đông thành, bỗng nhiên thấy mây khói mù mịt, trong đó có vị thần đang ngự, xung quanh âm nhạc nổi lên, Cao Biền kinh hãi ngã lăn. Đêm đó vị thần hiện ra báo mộng, xưng là "Long Đỗ chính khí Thần quân" của đất này đến xem xây thành, không việc gì phải sợ.

Vốn hay trấn yểm các quỷ thần, long mạch, Cao Biền dựng ngôi đền, làm tượng thần, lấy nghìn cân sắt để trấn yểm chỗ thần hiện ra. Bỗng nhiên trời nổi cuồng phong sấm, sét đánh nghìn cân sắt vụn ra thành tro bụi. Cao Biền kinh sợ lập đền thờ thần Long Đỗ và nói rằng "Ta phải về Bắc thôi". Sau này Biền bị vua nhà Đường gọi về và xử tội chết.

Thần Long Đỗ của Núi Nùng và thần sông Tô Lịch là một hay là hai? Đến nay đa số đều cho rằng chỉ là một vị, là Thần chủ của đất này; nhưng cũng có thuyết cho là hai vị thần.

Đến khi Lý Thái Tổ dời đô, tương truyền xây thành bị đổ mãi, bèn đến cầu ở đền thần Long Đỗ có từ thời Cao Biền, thì có con ngựa trắng chạy ra, xây thành theo vết chân ngựa thì mới không đổ. Bởi thế vua tôn là thần Bạch Mã. Hiện nay đền ở phố Hàng Buồm, là đền Trấn Đông nổi tiếng của Thăng Long.

Và Thần chủ Long Đỗ trở thành Thành hoàng của thành Thăng Long. Thần có rất nhiều tôn hiệu qua các triều đại:

- Quảng Lợi Bạch Mã Tối linh Thượng đẳng thần

- Quảng Lợi Thánh hựu Uy tế Phu ứng đại vương

- Long Đỗ Thần quân Bạch Mã Hựu chính Đại vương

- Đô phủ Thành hoàng Thần quân

- Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc đô Thăng Long Thành hoàng đại vương

Chitto
15-03-2010, 23:12
Lại có thuyết cho rằng cái tên Long Đỗ là tên của một làng Việt cổ đã có tại đây từ rất lâu trước khi lập thành Đại La, và Tô Lịch là tên của người có công lập làng từ xa xưa. Như thế Thần Long Đỗ - Tô Lịch là một vị Nhân thần.

Còn nếu không theo thuyết đó, thì Thần Long Đỗ là vị Nhiên thần. Cá nhân tôi thích đó là một vị Nhiên thần trường tồn với sông núi hơn!

Bên cạnh đó, hình tượng Bạch Mã không phải chỉ là Ngựa trắng đơn thuần, Ngựa tượng trưng cho khí Dương, màu Trắng tượng trưng sự khởi đầu, và Bạch Mã còn là hình tượng của Mặt Trời mọc, đại diện cho hướng Đông.

Nếu có con ngựa trắng chạy ra từ đền, thì đó cũng chỉ là do Thần Long Đỗ sai khiến, chứ đó không phải là thần.

Do đó, đến thăm đền Bạch Mã, thì khấn Long Đỗ Thần quân, chứ đừng cầu xin gì ở con ngựa trắng cả.


https://static.panoramio.com/photos/original/33262880.jpg

Miên Nữ
16-03-2010, 14:55
Hãy thử xem các vị Thánh bất tử của người Việt ngự ở đâu quanh Thăng Long?

... Đến đời Lý, dân gian đã tôn thêm một vị nữa cho thành Tứ Bất tử, đó là Từ Đạo Hạnh, biểu tượng của tu hành, của Phật giáo. Từ Đạo Hạnh là người Thăng Long, nơi tờ chính là chùa Láng và chùa Thầy. Mãi đến đời Lê, người ta mới thay Thánh mẫu Liễu Hạnh vào chỗ của Từ Đạo Hạnh.

Như vậy, thành Thăng Long đã được các Thánh Bất tử của tâm linh người Việt bảo hộ từ bốn phía trong cả nghìn năm.



@ anh Chitto: Nguyễn Minh Không có được chính thức tính vào trong Tứ Bất Tử không ạ? Hay chỉ Từ Đạo Hạnh thôi và sau đó thay bằng Đức Mẫu Liễu. Thanks anh!

Tommy_ngo
16-03-2010, 18:47
Mình thấy ở chùa Bái Đính có thờ Quốc Sư Nguyễn Minh Không

Chitto
16-03-2010, 19:24
@ anh Chitto: Nguyễn Minh Không có được chính thức tính vào trong Tứ Bất Tử không ạ? Hay chỉ Từ Đạo Hạnh thôi và sau đó thay bằng Đức Mẫu Liễu. Thanks anh!

:), tôi cũng chờ câu hỏi này, giờ mới có Miên Nữ hỏi.

Nếu nói là "chính thức" thì không có ai cả, mà Tứ Bất tử chỉ là lưu truyền dân gian. Chỉ khi có sắc phong từ Triều đình thì mới là chính thức không thay đổi. Còn Tứ Bất tử là do tín ngưỡng dân gian, nên ai vào ai ra, ai có ai không rất thoáng, tuỳ thời gian và địa điểm.

Tôi cũng từng viết trong topic "Chùa đất Việt" là Quốc sư Minh Không cũng được xếp vào trong Tứ Bất tử, tương tự như Từ Đạo Hạnh, và tuỳ vào vùng miền nào tôn sùng vị Thánh tổ nào mà sẽ lấy vị đó.

Về Quốc sư Minh Không, sách cổ và cả lưu truyền dân gian rất hỗn độn giữa các danh: Nguyễn Minh Không, Khổng Minh Không, Dương Không Lộ, Không Lộ thiền sư... Có thuyết nói là hai người, có thuyết nói là một mà mang các tên khác nhau. Có thuyết đề cập Minh Không là Quốc sư chữa bệnh cho vua, lại cũng có thể là ông tổ nghề đúc đồng, dùng thần thông lấy đồng từ Trung Quốc về, lại cũng có thể là ông tổ của một loạt chùa vùng Nam Định - Thái Bình.

Dù trong thuyết nào thì Minh Không - Không Lộ cũng có tên tuổi và năm sinh năm mất tương đối rõ ràng.

Còn Từ Đạo Hạnh không bị nhầm lẫn với ai, và cá nhân tôi cảm thấy tính "huyền bí" của Từ Đạo Hạnh mạnh hơn. Đặc biệt là về huyền thoại Hoá thân của ông. Ông không chết, mà chỉ hoá từ kiếp Thánh sang kiếp Vua, và người ta tin rằng khi kiếp Vua hết, ông lại hoá trở về kiếp Phật. Vì thế trong chùa Thầy thờ cả ba kiếp của ông, với kiếp Phật ở giữa, là kiếp quan trọng nhất và cũng là kiếp trường tồn.

Như thế, với tâm linh dân gian, tôi thấy tính Bất tử của Từ Đạo Hạnh rõ ràng hơn. Vì vậy tôi đã chọn Từ Đạo Hạnh khi xét đến các vị Thánh hộ trì Thăng Long trong bài viết này.

Chitto
16-03-2010, 21:28
Hồng Hà - Tản Viên, long mạch của đất Thăng Long


https://static.panoramio.com/photos/original/33258983.jpg

Chitto
16-03-2010, 21:38
Người ta nói rất nhiều về truyền thuyết Lý Thái Tổ khi đi thuyền từ Hoa Lư (theo sông Hoàng Long, nối sang sông Đáy, Châu Giang ra sông Hồng rồi ngược lên Đại La), đã thấy Rồng hiện lên, mà đặt tên thành là Thăng Long.

Khi viết bài này, tôi có ý nghĩ thêm một chút.

Vùng đất này gắn với chữ Long từ lâu đời rồi. Trước đó bên kia sông là Long Uyên, tức vực rồng, (có thể do kiêng huý Đường Thái Tổ là Lý Uyên) rồi đổi sang Long Biên, nghĩa là rồng lượn xung quanh, và đất Long Đỗ là rốn rồng trên núi Nùng.

Như thế, trong hàng trăm năm, con Rồng đó vẫn bị giam hãm. Đầu tiên là nằm dưới vực sâu, sau lượn trên sông, cuối cùng lên đến núi là hết. Nhưng ngay cả khi là Long Đỗ, thì cũng bị Cao Biền xây cái thành Đại La - nghĩa là cái Lưới lớn - vây bọc xung quanh giam giữ. Con rồng thiêng ấy bao thế kỉ phải nằm yên.

Đến khi Lý Thái Tổ dời đô, đã phá bỏ cái lưới kia, mà cho con rồng bay lên, mà lên trời thực sự, và có một Thăng Long đến ngày nay.

nav89
16-03-2010, 23:00
Người ta nói rất nhiều về truyền thuyết Lý Thái Tổ khi đi thuyền từ Hoa Lư (theo sông Hoàng Long, nối sang sông Đáy, Châu Giang ra sông Hồng rồi ngược lên Đại La), đã thấy Rồng hiện lên, mà đặt tên thành là Thăng Long.

Khi viết bài này, tôi có ý nghĩ thêm một chút.

Vùng đất này gắn với chữ Long từ lâu đời rồi. Trước đó bên kia sông là Long Uyên, tức vực rồng, (có thể do kiêng huý Đường Thái Tổ là Lý Uyên) rồi đổi sang Long Biên, nghĩa là rồng lượn xung quanh, và đất Long Đỗ là rốn rồng trên núi Nùng.

Như thế, trong hàng trăm năm, con Rồng đó vẫn bị giam hãm. Đầu tiên là nằm dưới vực sâu, sau lượn trên sông, cuối cùng lên đến núi là hết. Nhưng ngay cả khi là Long Đỗ, thì cũng bị Cao Biền xây cái thành Đại La - nghĩa là cái Lưới lớn - vây bọc xung quanh giam giữ. Con rồng thiêng ấy bao thế kỉ phải nằm yên.

Đến khi Lý Thái Tổ dời đô, đã phá bỏ cái lưới kia, mà cho con rồng bay lên, mà lên trời thực sự, và có một Thăng Long đến ngày nay.
một luận điểm khá thú vị, như vậy thì thì Lý Thái Tổ phải là thấy được con rồng bị kiềm hãm mà giải phóng, khiến cho vận nước được khai sáng, đất này được phồn thịnh, phải không bác Chít?

TriMinh
17-03-2010, 00:39
Cụ Chitto ơi cụ kiểm chứng lại cái thuyết này giùm em cái nhé.Hồi cụ Tổ Triều Khúc nhà em còn tại thế cụ có nói với em rằng. Trong khóa cúng xưa ở Tổ Đình Khê Hồi mà cụ là tổ thứ 7 thì chú thích rằng trong điện thần Việt Nam có 58 vị thần chính thức trong đó có tứ bất tử và ngũ bất diệt. Tứ bất tử gồm " Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đạo Tổ và Liễu Hạnh Thánh Mẫu" ngũ bất diệt gồm Nam Thiên Thánh Tổ Không Lộ Thiền Sư, Từ Đạo Hạnh Thiền Sư, Giác Hải Thiền Sư, Trần Triều Hiển Thánh Hưng Đạo Đại Vương và đức Thánh Bối Khê. Tuy nhiên vì tháng 2 năm ngoái cụ viên tịch nên em chưa có dịp hỏi lại và kiểm chứng. Luôn tiện cụ giúp giùm nhé.

Chitto
17-03-2010, 08:59
trong điện thần Việt Nam có 58 vị thần chính thức trong đó có tứ bất tử và ngũ bất diệt.

Tôi chưa được nghe về Ngũ bất diệt bao giờ, nên không dám nói về điều này. Theo tôi nghĩ, khái niệm "điện thần Việt Nam" gồm bao nhiêu vị thần thì cũng tuỳ nơi, tuỳ phong tục. Nếu như thống kê thành hoàng ở đồng bằng Bắc Bộ thì cũng vài trăm vị rồi.

Tứ Bất tử được lưu truyền trong dân gian, và được ghi vào trong cuốn Hội Chân Biên và in ấn từ hơn trăm năm trước, nên trở thành quen thuộc với tất cả mọi người. Cuốn đó viết về các Thần chính của Việt Nam, chỉ có 27 vị thôi (tôi cũng chưa đọc nên không rõ là các vị nào).

Về 5 vị "bất diệt" mà bạn kể, tôi thấy có 3 vị đầu tiên vốn đã được thờ chung với nhau từ lâu, gọi là Lý triều Tam Thánh tổ, tượng thờ được làm thành bộ ba với nhau như chùa Lý Quốc sư, chùa La Cả, chùa Thầy, nghĩa là khá gắn kết. Hai vị đưa thêm, thì có Thánh Bối thuộc đời Trần, dù sao cũng gần gũi với ba vị trên vì cùng là người tu hành theo Phật, lại có màu sắc Đạo giáo, được thờ ở chùa. Riêng việc ghép Thánh Trần vào chỗ của bốn vị sư, cá nhân tôi thấy có hơi gượng ép chăng? Trần Hưng Đạo thì được tôn sùng còn hơn cả bốn vị kia nhiều, nhưng có lẽ không thống nhất lắm. Và tôn phong này có lẽ cũng không phổ biến.

Tuy nhiên, dân gian luôn có lý của dân gian, mà ở đây chắc tôi không thể hiểu hết được.

Chitto
17-03-2010, 09:34
Sách cũ chép rằng Cao Biền đắp thành Đại La dài gần 2000 trượng, tức khoảng 6 km. Như thế thành này rộng khoảng bằng khu phố cổ ngày nay thôi.

Khi Lý Thái Tổ dời đô về, đã đắp lại thành với quy mô rộng hơn rất nhiều. Sách của ta không chép chi tiết về thành, nhưng có thể suy đoán được thông qua chính sử, các dấu tích còn lại ngày nay.

Thời Lý lấy thành cũ của Cao Biền làm trung tâm, mở rộng về phía Tây sát đến sông Tô Lịch, phía Đông sát đến sông Hồng. Có rất nhiều giả thiết, nghiên cứu của nhiều người về tường thành qua các triều đại, tôi không thể viết ra được hết, chỉ là sơ lược thôi.

Giả sử thành Thăng Long đời Lý, Trần, Lê có quy mô giống nhau, thì với các dấu tích còn lại, thành sẽ có hình dáng như bên dưới đây, với căn cứ là bản đồ Hồng Đức đời Lê và cả trên thực địa.

Khu hoàng thành màu vàng, lấy núi Long Đỗ làm trung tâm, phía Bắc sát sông Tô Lịch (cũ), đến ngã ba Tô Lịch - Thiên Phù (Bưởi) vòng xuống đến Cầu Giấy, theo đường Đê La Thành đến ô Chợ Dừa, tiếp đến nút Kim Liên, nối sang cuối Trần Khát Chân ra đên Nguyễn Khoái rồi theo đê sông Hồng lên tận Yên Phụ.

Trong các đoạn thành đó, ngày nay vẫn còn thấy khá rõ hầu hết, chỉ có đoạn phía Nam đã bị san bằng, thành đường Đại Cồ Việt và Trần Khát Chân.

Lại có một đoạn thành chạy dọc Giảng Võ đến Nguyễn Thái Học, vòng phía nam Hoàng thành sang phía đông. Đoạn thành này chỉ còn lại chút dấu tích là sự chênh lệch cốt đường giữa hai nửa của phố Giảng Võ mà thôi.


https://static.panoramio.com/photos/original/33324312.jpg

Chitto
17-03-2010, 21:12
Bản đồ trên lấy Hoàng thành (màu vàng) là Thành Hà Nội đời Nguyễn. Các tài liệu đều cho rằng Hoàng thành thời Lý - Trần - Lê rộng hơn thế về cả ba phía. Trong Hoàng thành, chính giữa là điện Càn Nguyên dựng trên núi Long Đỗ. Hoàng thành mở bốn cửa là Đại Hưng, Tường Phù, Diệu Đức, Quảng Phúc.

Bao quanh Hoàng thành là Kinh thành, hoặc La thành. Trong sử chỉ từng đề cập đến 5 cửa của Kinh thành là: cửa Triều Đông ở chỗ dốc Hoè Nhai bây giờ, cửa Tây Dương là Cầu Giấy bây giờ, cửa Trường Quảng là ô Chợ Dừa bây giờ, cửa Nam là ở nút Kim Liên hoặc cuối Bà Triệu bây giờ, cửa Vạn Xuân ở Đông Mác bây giờ. Nhưng có thể còn nhiều cửa khác nữa, đặc biệt là cửa thông ra sông Hồng.

Từ sông Hồng có sông Tô Lịch chảy xuyên vào thành rồi lại ra khỏi thành ở chỗ hồ Trúc Bạch, lại có lối thông từ sông Hồng vào hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm). Mùa lũ nước sông có thể tràn vào thành gây ngập khắp nơi.


Người ta nói rất nhiều đến Tứ Trấn Thăng Long là bốn ngôi đền ở bốn phía, tuy nhiên chúng không phải chủ ý ban đầu của các vua Lý, mà có lẽ đời sau "nâng tầm" lên:

- Đền Bạch Mã hướng Đông: là ngôi đền cổ do Cao Biền dựng, có từ trước thành Thăng Long.

- Đền Trấn Vũ hướng Bắc: người ta nói là Lý Thái Tổ dựng, nhưng tôi nghi ngờ điều này vì nhiều nguyên nhân sẽ viết sau. Lai lịch ngôi đền này không rõ ràng, năm dựng cũng không rõ, thờ một vị thần rất Tàu.

- Đền Voi Phục hướng Tây: dựng đời Lý Thái Tông hoặc Lý Thánh Tông, cũng không cụ thể.

- Đền Kim Liên hướng Nam: mãi đến đời Lê mới thấy "xuất hiện" trong ghi chép, trước đó không ai biết lai lịch có hay không, như thế nào.

Hơn nữa bốn ngôi đền này quay hướng rất lộn xộn, mỗi cái một kiểu. Đền Trấn Vũ thực ra không phải là đền mà là Đạo quán, lại còn nằm ngoài vòng Kinh thành, cách sông Tô Lịch. Những điều này khiến tôi cho rằng cái truyền thống về Thăng Long tứ trấn chỉ có từ đời Lê, chứ không phải từ đời Lý.

Chitto
18-03-2010, 22:42
Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi, dời đô liền cho xây 8 ngôi chùa ở quê mình tại Cổ Pháp, và hàng loạt chùa ở Thăng Long. Trong suốt đời Lý, những ngôi chùa lớn được dựng lên, song sử sách ghi lại đến hàng chục chùa. Thế nhưng vết tích của các ngôi chùa đó còn lại đến nay không nhiều.

Ngôi chùa cổ nhất của đất Thăng Long là chùa Khai Quốc dựng từ thời Lý Nam Đế, 500 năm trước Lý Thái Tổ, ngoài bãi sông Hồng, cho nên thực tế là ngoài vòng thành Thăng Long. Mãi đến đời Lê mới dời vào vị trí cung Thuý Hoa, là hòn đảo giữa hồ Tây, và đổi là Trấn Quốc

Chùa Chân Giáo dựng năm 1024 là ngôi chùa lớn, gắn liền với sự kiện bi thảm là vua Lý Huệ Tông phải thắt cổ tự tử tại đây khi bị Trần Thủ Độ ép, chấm dứt nhà Lý. Dấu tích không còn gì, chỉ ngờ rằng nằm tại khu phía đường Đội Cấn.

Chùa Diên Hựu với đài Liên Hoa (được gọi là chùa Một Cột) đã quá nổi tiếng, dựng đời Lý Thái Tông năm 1049, ngay bên cạnh Hoàng thành. Vị trí chính xác vẫn không xê dịch, chỉ có chùa xưa không còn gì. Cái chùa Một Cột hiện nay dựng lại năm 1955 tại vị trí chùa cũ.

Chùa Báo Thiên dựng năm 1057, mà tên chính xác là Sùng Khánh Báo Thiên, ngôi Quốc tự lớn nhất trong triều Lý - Trần, với ngọn bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên được coi là công trình đồ sộ và cao nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam, đã đi vào huyền thoại. Ngày nay đó là vị trí nơi khu vực đặt Nhà thờ Lớn.

Chùa Hoè Nhai nằm gần bến sông, đến nay vẫn còn nguyên. Đây cũng là dấu tích của Đông Bộ Đầu với chiến thắng lịch sử triều Trần.

Chùa Láng gắn liền với Từ Đạo Hạnh, dựng thời Lý Anh Tông, ngày nay vẫn là ngôi chùa rất đẹp, đặc biệt là giữ nguyên được khuôn viên chùa rộng vào bậc nhất Hà Nội.

Chỉ riêng trong triều Lý Thái Tổ, tại Thăng Long đã dựng lên các chùa: Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Đức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Chân Giáo, Đại Giáo. Ngày nay chẳng ngôi nào còn dấu tích.


https://static.panoramio.com/photos/original/33446653.jpg

sang30tet
19-03-2010, 20:14
Hà nội vừa giới thiệu Trang WEB mới 1000 Years Thang Long, các bạn thử tham khảo xem thế nào; Thông tin hơi ít và chung chung ...! :)

http://hanoi.vietnamplus.vn/

Chitto
20-03-2010, 00:48
Lý Thái Tổ xuất thân từ chùa nên lên ngôi là dựng chùa, chứ không dựng các đền đài Nho giáo, Đạo giáo kiểu Trung Quốc. Có điều làm tất cả các sử gia đời sau đều phân vân là trong sử ghi rõ Lý Thái Tổ tôn phong cho cha mình làm Hiển Khánh Vương, chú làm Vũ Đạo Vương, rồi lại phong bà nội làm Thái Hậu, trong khi không ai biết cha của ông là ai ! Người ta chỉ biết mẹ đẻ là bà Phạm Thị, còn cha ruột thì chính sử, dã sử đều chịu chết !

Sử thì ghi Lý Thái Tổ là con "người thần", có thuyết thì nói là con sư Lý Khánh Văn, hoặc con Lý Vạn Hạnh, nhưng đều không đủ chứng cứ. Vậy Hiển Khánh Vương, Vũ Đạo Vương là ai ??? Đến giờ vẫn chịu như các cụ xưa từng chịu.

Đến đời con cháu của Lý Thái Tổ, tại Thăng Long mới dựng các công trình thờ cúng quốc gia theo kiểu Trung Hoa: đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, Thái Miếu, Văn Miếu.

Đàn Nam Giao, còn gọi là đàn Viên Khâu (có nghĩa là gò đất tròn) vì đàn đắp bằng đất, hình tròn, dùng để tế Trời, cụ thể là Thiên hoàng Thượng đế. Mãi đến năm 1154, vua Lý Anh Tông mới dựng đàn Nam Giao ở phía Nam thành Thăng Long để khẳng định vị thế Thiên tử sánh ngang với Trung Hoa. Các triều đại sau tiếp tục tế trời ở đó. Triều Lê dựng điện Nam Giao, sau bị Pháp phá xây nhà máy diêm. Rồi nhà máy diêm lại thành Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo - 114 Mai Hắc Đế.

Đến nay nhà máy cơ khí trở thành đất của khu tháp Vincom. Tuy nhiên đến giờ vẫn không thể xác định chính xác vị trí của đàn Nam Giao, mà chỉ áng chừng ở khu vực đó mà thôi.

Chitto
20-03-2010, 00:54
Khi người Pháp phá điện Nam Giao, họ chỉ giữ lại một tấm bia lớn rất đẹp là "Nam Giao điện bi ký" của triều Lê, mang về bảo tàng của viện Viễn Đông Bác Cổ giữ, nay là Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Tấm bia lưu giữ dấu tích của một Tế đàn quan trọng nhất thời phong kiến, nay dầm mưa dãi nắng cùng nhiều di vật khác, mà hoài tưởng về thời huy hoàng trong quá khứ.


https://static.panoramio.com/photos/original/33406765.jpg

Có câu chuyện rằng khi Mỹ nối lại quan hệ chính thức với Việt Nam, đi tìm nơi đặt Đại sứ quán, và họ nhắm cái nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo đó. Tuy nhiên khi tham khảo ý kiến của GS. Trần Quốc Vượng, thì cụ Vượng bảo rằng: Đó là đất đàn Nam Giao, đất thiêng của người Việt, các ông mà làm Sứ quán ở đó thì không được đâu. Và thế là họ chuyển sang Láng Hạ.

Nhưng sau đó, mảnh đất này cũng thuộc về Vincom, nơi xây toà tháp thứ ba.

Chitto
20-03-2010, 09:44
Đàn Nam Giao để tế trời, khẳng định Thiên mệnh. Đàn Xã Tắc để tế thần Xã (Hậu Thổ) là thần Đất, và thần Hậu Tắc là thần Lúa.

Đàn Xã Tắc phải đắp bằng đất, hình vuông, khác với đàn Nam Giao hình tròn (trời tròn đất vuông), lấy đất từ khắp các địa phương trong toàn quốc về đắp, tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Xã Tắc do đó cũng để chỉ đất nước của vua.

Triều Đinh đã lập đàn Xã Tắc tại Hoa Lư rồi, tuy nhiên Lý Thái Tổ không quan tâm đến việc này khi dời đô về Thăng Long. 38 năm sau, đời con của ngài là Lý Thái Tông, năm 1048 mới lập đàn ở phía Tây Nam, sử ghi là ngoài cửa Trường Quảng, tức khu vực phía ngoài Ô Chợ Dừa ngày nay (Tuy nhiên vẫn có người nghi ngờ vị trí này).

Triều Trần phong tôn hiệu ghép chung hai thần là: Thiên tổ Địa chủ Xã Tắc Đế quân

Triều Nguyễn chuyển vào Huế, đàn bị bỏ hoang, không ai thờ cúng nữa.

Ngày nay không rõ chính xác nền đàn Xã Tắc ở đâu, chỉ có địa danh Xã Đàn, gồm cả một làng rộng, một hồ, một chùa, và gần đây nhất là con phố "đắt nhất hành tinh" cũng mang tên Xã Đàn. Chỗ đầu phố mà người ta xôn xao là tìm thấy nền đàn Xã Tắc cũng chỉ là nghi ngờ, chứ chẳng chứng minh được, giờ dựng cục đá rõ to đánh dấu.

Trong chùa Nam Đồng gần đấy, năm 2008 có dựng một bàn thờ, cột đá xà gỗ mái ngói khá đẹp, đề chữ Thiên Tổ Địa chủ Xã Tắc đế quân để thờ vọng, coi như là để khôi phục hương hoả đã bị dứt từ hơn hai trăm năm trước.

Bàn thờ vọng thần Xã Tắc trong chùa Nam Đồng


https://static.panoramio.com/photos/original/33406762.jpg

TriMinh
20-03-2010, 11:38
Cảm ơn bạn nhé, lâu không có gì để tìm tòi, bạn có bài toán này hay quá...
Khê Hồi của bạn nói có phải là cái làng quê Nguyễn Trãi ở Thường Tín không nhỉ?

Dạ không ạ, Làng Khê Hồi thuộc xã Hà Hồi huyện Thường Tín, còn quê cụ Nguyễn Trãi là làng Nhị Khê cũng cũng huyện cách nhau độ 5km gì đó.

Tổ Đình Khê Hồi tức Hoa Lâm viện là một đại chốn tổ nơi phát xuất của 6 Sơn Môn lớn ở miền bắc. 1 Khê Hồi, 2 Bà Đá- Đào Xuyên, 3 Thọ Ngãi, 4 Long Đọi - Tế Xuyên - Vĩnh Nghiêm - Đồng Đội, 5 Đa Bảo - Viên Minh, 6 Hương Tích.
Kế đăng hiện nay là đại đức Thích Thanh Vịnh trưởng pháp tử của Hòa thượng Thanh Chỉnh ở đó còn rất nhiều tượng cổ rất đẹp và ván khắc của nhiều bộ kinh cổ.

Chitto
20-03-2010, 17:35
Công trình mà Lý Thái Tông dựng ngay sau khi lên ngôi không phải chùa như cha mình, mà là đền Đồng Cổ.

Lý Phật Mã khi còn là Thái tử, đi đánh Chiêm Thành qua vùng Thanh Hoá, núi Khả Phong gần sông Mã, núi ấy còn gọi là núi Đồng Cổ (tức Trống đồng), và khúc sông Mã cũng gọi là sông Đồng Cổ. Thái tử nằm mộng thấy vị thần núi Đồng Cổ báo mộng và hứa âm phù, do đó khi về Thăng Long đã dựng miếu nhỏ thờ thần. Có lẽ khi đó vì chỉ là Thái tử, chưa có nhiều quyền, nên miếu phài nằm phía ngoài thành, đúng hơn là ở chân thành.

Ngay khi Lý Thái Tổ vừa mất, ba người em trai của Lý Phật Mã đều làm Vương làm loạn định cướp ngôi của anh. Nhờ Lê Phụng Hiểu sức khoẻ hơn người, chém chết một người, hai người kia bỏ chạy, mà Lý Phật Mã lên ngôi, tức Lý Thái Tông, sau rồi tha tội cho hai em, đời sau gọi là Loạn tam vương. (lịch sử lặp lại: triều Đinh thì Nam Việt vương Đinh Liễn giết em là Đinh Hạng Lang, triều Tiền Lê thì Lê Long Đĩnh giết vua anh để lên làm vua, nên các 3 vương kia cũng định theo lối đó. Lê Phụng Hiểu về sau cũng được phong làm Thần).

Tương truyền đêm trước đó Lý Phật Mã lại nằm mộng thấy thần Đồng Cổ báo trước, nên mới có sự chuẩn bị kịp thời. Vì thế ngay sau khi lên ngôi, Vua cho dựng đền thờ thần Đồng Cổ, coi vị Thần chủ chuyên bảo hộ cho Vua, phong là Thiên Hạ Minh Chủ thần.

Và cứ vào ngày 4/4 âm lịch hàng năm, toàn bộ hoàng gia và triều đình đều phải ra lễ đền, đọc lời thề: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, nếu trái lời thề, thần minh tru diệt". Lệ này đến đời Trần và đầu đời Lê vẫn còn tiếp tục. Đời Trần phong hiệu thêm là Thiên hạ Minh chủ Linh ứng Chiêu cảm Bảo hựu Đại vương.

Thề thì cứ thề, giết vua như Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông tự tử, Hồ Quý Ly giết Trần Thuận Tông dã man, Lê Thái Tổ giết Trần Cảo, thì cứ làm. Ai mạnh hơn, thời cơ cho ai thì Thần cũng phải theo thôi.


Đền Đồng Cổ ngày nay ở phố Thuỵ Khuê, đã bị lấn chiếm rất nhiều. Một lạch nước đen sì chảy ngang qua, là dấu tích của sông Tô Lịch ngày xưa còn lại.



https://static.panoramio.com/photos/original/33406769.jpg

Toà phương đình phía trước điện thờ đang được tu sửa, sẽ treo tấm biển "Đồng Cổ linh từ"


https://static.panoramio.com/photos/original/33429016.jpg

Chitto
20-03-2010, 17:38
Kế đăng hiện nay là đại đức Thích Thanh Vịnh trưởng pháp tử của Hòa thượng Thanh Chỉnh ở đó còn rất nhiều tượng cổ rất đẹp và ván khắc của nhiều bộ kinh cổ.

Cụ Triều Khúc viên tịch năm ngoái, thọ 90 tuổi, thế mà Trưởng tử mới chỉ là Đại đức thôi ! Có phải khoảng cách là quá xa chăng ? Sao cụ nhận đồ đệ muộn thế, hay các pháp tử khác đã đi trước cụ cả rồi ?

Chitto
22-03-2010, 00:09
Có vị thần chủ trông coi cho ngôi vua rồi, năm 1037, Lý Thái Tông lại phong thần cho Phạm Cự Lượng làm vị thần chủ về hình ngục, xử án.

Phạm Cự Lượng làm tướng triều Đinh Tiên Hoàng, rồi theo Lê Đại Hành làm đến Thái Uý, đứng đầu các võ quan. Nay Lý Thái Tông phong làm Đô hộ phủ Ngục Tung Minh chủ Hoằng Thánh đại vương, lập đền ở phía nam hoàng thành để thờ cúng.

Đời Trần gia phong làm Hoằng Thánh Khuông quốc Trung vũ Tá trị Đại vương, đến đời Lê vì kiêng huý mà đổi thành Hồng Thánh. Ngày nay đền Hồng Thánh chính là đình Lương Sử. Như thế có thể đoán phía ấy xưa kia có nhà ngục của triều Lý.

Đình Lương Sử ngày nay, trên đề: Phạm Thái Uý linh từ, nguyên là đền thờ Thần Ngục.


https://static.panoramio.com/photos/original/33482583.jpg

Từ đời Lý Thái Tông trở đi, thỉnh thoảng đánh Chiêm Thành lại bắt người Chiêm mang về, trở thành nô lệ cho riêng vua. Từ đấy các công trình xây dựng thường có dấu tích Champa rất rõ. Con rồng đời Lý nổi tiếng cũng mang nhiều hình ảnh Champa. Phía Tây thành Thăng Long và bên kia sông Hồng trở thành chỗ người Chiêm sinh sống. Có điều giờ không còn gì cả, họ bị đồng hoá hết hoặc tuyệt diệt cả rồi chăng?

KK172
22-03-2010, 02:47
Có nhiều người Việt nam họ Chế, có phải là dòng dõi người Chiêm Thành không nhỉ?

Chitto
22-03-2010, 23:07
Đời Lý Thái Tông để lại một công trình mà người ta còn nhắc mãi đến ngày nay, đó là chùa Một Cột. Cái này thì người ta nói nhiều quá rồi, viết sơ qua chứ không lại nhàm.

Năm 1049, Lý Thái Tông nằm mơ thấy Quan Thế Âm dắt lên đài sen, cảm thấy điềm báo không tốt. Sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa hình đài sen để thờ Quan Âm, dựng chùa lớn để thờ Phật. Thế là chùa Diên Hựu (nghĩa là kéo dài sự phù hộ, kéo dài cõi phúc), và đài Liên Hoa được dựng. Đài Liên hoa chỉ là một bộ phận của chùa, nhưng giờ đây lại thường được gọi là chùa Một Cột.

Tương truyền rằng năm 1954, trước khi rút đi, quân Pháp nổ mìn phá huỷ đài Liên Hoa, và năm 1955 mới dựng lại như thấy ngày nay, nhỏ hơn nguyên bản một chút. Cây cột chính giữa đỡ đài làm bằng đá, phía trên toàn bộ bằng gỗ, lợp ngói, trong để tượng Quan Âm, chỉ một người quỳ là hết chỗ.


Ngôi "chùa" nguyên bản 850 tuổi (??) những năm 1900, và ngôi chùa hiện tại, mới 50 năm tuổi.


https://static.panoramio.com/photos/original/33521111.jpg ....https://static.panoramio.com/photos/original/33520926.jpg

Chitto
22-03-2010, 23:37
Có nhiều người Việt nam họ Chế, có phải là dòng dõi người Chiêm Thành không nhỉ?

Tớ thấy họ Chế từ Nam Trung Bộ trở vào Nam thì nhiều, chứ miền Bắc gần như không có.

KK172
23-03-2010, 11:20
Chùa Một Cột hồi xưa "chân dài" hơn chùa bây giờ nhỉ ;)

Họ Chế miền Bắc có, bạn tớ hồi trước; có điều không biết là bố mẹ, ông bà trong Nam di cư ra, hay đã ở đây lâu rồi, chưa bao giờ hỏi :)

Chitto
23-03-2010, 11:22
Chùa Một Cột hồi xưa "chân dài" hơn chùa bây giờ nhỉ ;)



Chân không dài hơn, mà là nước cạn hơn.

Cái ao mà đài Liên hoa nằm giữa gọi là hồ Linh Chiểu, nghĩa là cái ao tròn linh thiêng. Như thế xưa kia ao là tròn, không biết từ bao giờ mới làm thành hình vuông? Trong đời Lý chùa có quy mô lớn, với các tháp, lầu, toà ngang dọc. Nhưng rồi theo thời gian biến đổi, chẳng còn lại gì, ngoài đài Liên hoa và một nếp chùa nhỏ mà thôi.

Hai người phụ nữ với nón thúng quai thao, áo dài cổ bên "chùa Một Cột" những năm 1900:


https://static.panoramio.com/photos/original/33539891.jpg

TriMinh
23-03-2010, 11:44
Đại đức nhà em cũng 20 Hạ Lạp rồi cụ ạ, Tuy nhiên Tổ cũng có một số vị Pháp tử trước đó nhưng do thời cuộc vị thì cởi cà sa khoác chiến bào, vị thì hoàn tục. Cho nên đến khi đại đức Thanh Vịnh cầu pháp xuất gia thì cụ cũng gần 60 rồi. Thầy Vịnh xuất gia năm đó 13 tuổi được 32 năm rồi.

À họ chế thì nhiều mà hồi xưa lớp em học có cô bé tên Chế Mai Phương chúng tộc đặc Chăm, nhưng khi em hỏi ra thì biết họ Chế nhà cô ấy ở Hà Nội đã lâu lắm rồi. Em đoán có lẽ từ tời Lý thời Trần nhưng do gien di truyền Chăm Pa trội nên vẫn còn mang nhiều nét của người Chăm. Bên Gia Lâm có nhiều làng có họ Chế lắm cụ ạ.

Miên Nữ
23-03-2010, 12:25
Tớ thấy họ Chế từ Nam Trung Bộ trở vào Nam thì nhiều, chứ miền Bắc gần như không có.

Bà ngoại em họ Chế đấy, gốc từ một người Chăm không theo các vua Chiêm Thành di dời dần dần vào Nam Trung Bộ mà ở lại lập nghiệp ở vùng đất gần ngay Phật Viện Đồng Dương. Nhưng truyền đời bằng miệng thì thế thôi, không có gia phả. Nghe "đồn" ở Huế và Quảng Ngãi có tộc Chế có nhà thờ, gia phả bài bản hẳn hoi.

Chitto
24-03-2010, 00:24
Người ta vẫn hay nói đến đền Trấn Bắc của Thăng Long là Quán Thánh, hay đền Trấn Vũ, tương truyền do Lý Thái Tổ dựng.

Tuy nhiên, xét ra điều này có lẽ không được phù hợp. Trước hết Lý Thái Tổ chủ yếu lo dựng chùa, ngay cả đàn Xã Tắc cũng không quan tâm, và ngay cả ngôi đền thờ Long Thần ở phía Nam cũng đổi thành chùa thờ Phật, liệu có thể cho dựng một ngôi đạo quán cho Đạo giáo được chăng?

Trong khi đó Lý Thái Tông dựng khá nhiều đền thờ thần, và sử cũng ghi rằng khi các đạo sĩ xin được hành đạo, vua đã cho dựng Quán Thái Thanh. Cho nên tôi nghĩ có thể đền Quán Thánh (như ta quen gọi) được lập vào thời Lý Thái Tông thì phù hợp hơn. Tuy nhiên thời đó vẫn còn rất nhỏ hẹp, nên không được ghi vào sử.

Thực tế đây là ngôi Đạo quán, mang cả hai tên: Chân Vũ quán, và Trấn Vũ quán. Đây là một điều khá thú vị, khi mà tại Trung Quốc chỉ có tên Chân Vũ, còn Việt Nam đặt chệch thành Trấn Vũ, và dùng cả hai tên. Có lẽ từ Trấn Vũ là ghép của Trấn Thiên Chân Vũ, là vị thần được tôn thờ rất mực trong Đạo giáo (tôi sẽ viết kĩ hơn khi đến bài dành riêng cho ngôi đền / đạo quán này).

Tên của ngôi đạo quán này không được nhắc đến trong bất kì sử sách nào đến mãi đến tận đời Hậu Lê, khi Đạo giáo được khôi phục, và Quán Trấn Vũ được tu sửa to lớn, đúc tượng đồng lớn. Thế là từ ngôi Đạo quán không tên tuổi đời Lý, được tôn sùng như là ngôi đền Trấn phương Bắc của thành Thăng Long, và được gọi là đền Trấn Vũ hay Quán Thánh.


Quán Thánh - Quán Trấn Vũ năm 1929, có thể thấy hồ Tây ra sát đến bốn cột trụ của đền (nay nằm trên vỉa hè).


https://static.panoramio.com/photos/original/33557231.jpg

(Dòng chữ viết: Chùa Phật lớn, phía Nam của hồ Lớn. Người Pháp nhầm đây là chùa, và nhầm tượng đồng Trấn Vũ là tượng Phật. Hồ Lớn - Grand Lac - là hồ Tây, hồ Nhỏ - Petit Lac - là hồ Gươm)

Chitto
24-03-2010, 00:41
Sau thời Lý Thái Tông phong thần, dựng đền, Lý Thánh Tông nối ngôi cũng cho xây dựng nhiều công trình, mà vang danh đến nghìn năm sau là Văn Miếu (1070).

Lý Thánh Tông dù sùng Phật giáo, nhưng cũng chuyển hướng trong cai trị sang trọng dụng Nho học. Không chỉ thờ Phật như ông nội, thờ thêm các Thần linh mang màu sắc Đạo giáo như cha, vua chính thức tôn thờ vị Thánh triết của Trung Hoa là Khổng Tử, đặt tại phía Nam của hoàng thành.

Cũng tại khu vực Văn Miếu, học theo Trung Quốc, đến đời sau là Lý Nhân Tông đã lập Quốc Tử Giám (1076), để ngày nay khắp mọi nơi tung hô là Đại học đầu tiên của nước ta. Đại học chuyên giảng dạy về Văn thơ, Lịch sử Tàu, Triết học Tàu, và hoàn toàn bằng chữ của Tàu. Bốn trăm năm sau, những tấm bia Tiến sĩ được dựng lên tại đây.

Những gì mà Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã có là di sản rất lớn, đến nỗi kể cả khi triều Nguyễn dời đô vào Huế, và cố tình triệt hạ tầm vóc của Thăng Long, thì Văn Miếu Huế cũng vẫn rất tầm thường nhỏ bé, kém xa so với Văn Miếu Thăng Long.

(Viết về Văn Miếu, lại phải có những bài viết riêng, đầy đặn hơn, công phu hơn. Ở đây chỉ là liệt kê một số dấu thời Lý Thánh Tông với Thăng Long mà thôi.)

Cổng Văn Miếu những năm 1900, chỉ riêng toà cổng này đã thể hiện tầm vóc lớn hơn Văn Miếu Huế, Văn Miếu Hưng Yên, Mao Điền.



https://static.panoramio.com/photos/original/33557243.jpg

Chitto
24-03-2010, 13:43
Đời Lý Thánh Tông xây dựng một công trình để lại nhiều huyền thoại nhất, thậm chí còn liên quan đến cả một số sự kiện chính trị - xã hội gần đây, đó là Chùa - tháp Báo Thiên.

Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1056, Lý Thánh Tông cho dựng ngôi chùa lớn nhất của Thăng Long, và cũng là lớn nhất toàn quốc: chùa Sùng Khánh Báo Thiên, đúc chuông nặng 1,2 vạn cân (chắc khoảng hơn 4 tấn) đặt trong chùa. Sang năm sau lại cho xây tháp Đại Thắng Tư Thiên 12 tầng, cao "vài chục trượng". Về sau để ngắn gọn hay gọi tắt là chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên.

Tháp chính xác cao bao nhiêu không rõ. Cứ coi như hai chục trượng, thì cũng hơn 60m rồi, gần gấp đôi Cột cờ Hà Nội ngày nay. Tầng trên cùng của tháp được dát đồng có ba chữ Đáo lý thiên (đến tận trời). Nhiều chỗ viết đúc bằng đồng, tôi nghĩ không thể làm được ở độ cao thế. Do đó tháp (hay đỉnh tháp?) được coi là một trong An Nam tứ đại khí, bốn báu vật lớn của nước Nam: gồm Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh. Bốn thứ đều to lớn làm bằng đồng, tuy nhiên không phải cùng lúc, mà từ cái đầu đến cái cuối cách nhau hơn một trăm năm.

Chùa và tháp Báo Thiên là chùa lớn nhất cho đến hết triều Trần. Khi giặc Minh xâm lược đã phá tháp Báo Thiên (và cả tứ đại khí). Đến triều Lê và đầu Nguyễn vẫn còn chùa, nhưng khi Hà Nội thất thủ, binh lửa tràn lan thì chùa bị bỏ hoang, cho nên khi Pháp vào thì dùng đất đó xây Nhà thờ Lớn Hà Nội.

Ngày nay, tất cả những gì còn lại của chùa Báo Thiên xa xưa chỉ còn lại một chiếc miệng giếng bằng đá nay để trước hang đá sau Nhà thờ Lớn. Miệng giếng gồm hai thớt đá liền khối lớn tạc hoa văn có lẽ của triều Lê, trên miệng còn nhiều vết hằn của dây gàu qua hàng trăm năm. Giếng xưa đã bị lấp lâu rồi, chỉ còn miệng giếng người ta mang bỏ sang đây.


https://static.panoramio.com/photos/original/33574386.jpg

Chitto
24-03-2010, 22:53
Ngôi đền Trấn Tây - Voi Phục có một lai lịch không rõ ràng, và vị thần được thờ trong đó cũng vậy. Người ta đều viết đền thờ thần Linh Lang, nhưng Linh Lang là ai? mỗi chỗ viết một kiểu.

- Linh Lang là hoàng tử Hoằng Chân, sống tại vùng Thủ Lệ.
- Linh Lang con của Lý Thái Tông, hoặc Lý Thánh Tông (?).
- Đền thờ do Lý Thái Tông hoặc Lý Thánh Tông sai dựng (?)
- Hoàng tử Hoằng Chân có công đánh giặc Tống, trở về Thủ Lệ hoá thành thuồng luồng lặn xuống hồ; hoặc là hi sinh trên sông Như Nguyệt (?), nên được phong làm thần.

Thoáng qua đã thấy vô lý: không lẽ cha dựng đền thờ con? Hơn nữa trận chiến chống Tống (1075 - 1076) xảy ra vào đời Lý Nhân Tông, khi đó cả Thái Tông, Thánh Tông đều đã chết rồi, thế thì làm sao Hoằng Chân đã chết trận mà dựng đền thờ được?

Có nhiều người đã cố giải thích chuyện này. Linh Lang thực ra là vị Thuỷ thần vùng sông nước suốt một dải đồng bằng sông Hồng, được cư dân ven sông tôn thờ từ rất lâu đời. Đến đời Lý Thái Tông hoặc Thánh Tông dựng đền thờ ở phía Tây, khu vực nhiều đầm hồ, lại thông với hồ Tây.

Hoàng tử Hoằng Chân là con của Lý Thái Tông, em Lý Thánh Tông từng sống ở đây, là một tướng giỏi về đánh thuỷ chiến, cùng Chiêu Văn thống lĩnh cánh quân thuỷ trong trận chiến với quân Tống trên sông Như Nguyệt. Hoằng Chân hi sinh, được người dân tôn thờ và đồng nhất với thần Linh Lang, coi Hoằng Chân là một hoá thân của Linh Lang. Các truyền thuyết kì quái về Hoằng Chân được dựng lên sau đó để thần thánh hoá.

Đền thờ Linh Lang có suốt một dải đến tận Hải Phòng. Khu vực nhà cũ của Hoằng Chân - Linh Lang được gọi là Thủ Lệ, nghĩa là nơi giữ gìn lệ cũ thờ thần Linh Lang.


Đền thờ thần có hai con voi chầu ở hai bên, nên dân gian goi là đền Voi Phục, được coi là Trấn Tây của Thăng Long, ảnh chụp từ năm 1883.

(Cũng nói thêm là ở Thuỵ Khuê cũng có một đền Voi Phục, thờ Uy Linh Lang, lại là vị thần đời Trần, chứ không phải Linh Lang)


https://static.panoramio.com/photos/original/33574383.jpg

Chitto
25-03-2010, 14:06
Lý Thánh Tông sau khi đánh Chiêm Thành đã đem về Thăng Long một vị thần rất mới với người Việt: đó là vị nữ thần Chămpa.

Sử sách chép rằng vua khi đi đánh Chiêm Thành, qua cửa biển sóng to gió lớn, đêm được vị nữ thần báo mộng, xưng là chủ của đất này. Vua thờ cúng nữ thần đó thì sóng yên gió lặng. Đánh thắng, bắt được vua Chiêm là Chế Củ, Lý Thánh Tông lấy sạch kho tàng Chiêm Thành, lại bắt thêm 5 vạn người Champa về làm nô lệ riêng cho hoàng gia. Vua về Thăng Long bèn lập đền thờ vị nữ thần Chămpa đó, đầu tiên gọi là Hậu Thổ Phu nhân, còn gọi là Nam Quốc Chủ đại Địa thần. Chữ Nam quốc là để chỉ nước phía Nam của Đại Việt, tức Chiêm Thành. Đền thờ ở làng Yên Lãng cạnh sông Tô Lịch, phía Nam, ngoại thành.

Đến đời Trần tôn phong là Ứng thiên Hoá dục Nguyên trung Hậu Thổ Địa kỳ Nguyên quân.

Nhiều người cho rằng vị Nữ thần này chính là Bà mẹ xứ sở Ponagar của người Chăm. Lý Thánh Tông đem về lập đền thờ là một kiểu xâm lấn tâm linh, tất cả các thần của các vùng đất đều phải về cùng chỗ với vua.

Ngày nay đền đó trở thành đình Ứng Thiên, cuối phố Láng Hạ. Và cũng vì Nữ thần là Thần đất, cho nên khi tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển, thì Nữ thần này cũng được coi là Mẫu Địa.


https://static.panoramio.com/photos/original/33482575.jpg

Chitto
30-03-2010, 23:35
Những người Chiêm Thành bị bắt về Thăng Long được giao cho việc thổ mộc, xây dựng các công trình cho Hoàng gia. Chính những người thợ tài hoa này đã khéo léo kết hợp giữa nghệ thuật điêu khắc Champa và Đại Việt, để tạo nên những tác phẩm rất đẹp, rất riêng cho triều Lý, không đâu có và cũng không lặp lại ở các triều đại sau.

Hình tượng con rồng đời Lý độc đáo rất riêng chỉ có từ sau đời Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông, và là một biểu tượng đẹp. Cho đến về sau này, khi con rồng của Việt Nam có dáng vẻ dần giống rồng Trung Hoa (triều Nguyễn thì y hệt, chả khác gì), thì mới thấy con rồng đời Lý thật độc đáo.

Không chỉ con rồng, mà con phượng, con sư tử, sóc đá đời Lý cũng độc đáo, là tác phẩm kết hợp giữa văn hoá Trung - Việt - Chăm. Ngày nay các tác phẩm đó không còn nhiều, nhưng cũng vẫn là những đỉnh cao nghệ thuật tạo hình. Hai chữ Thăng Long có lẽ gắn liền với con rồng đời Lý hơn là bất cứ con rồng nào khác.


Con rồng đời Lý nguyên bản trên cột đá chùa Dạm


https://static.panoramio.com/photos/original/33803948.jpg


Và hình tượng con rồng đời Lý trên con đường gốm sứ, vị trí cầu Chương Dương


https://static.panoramio.com/photos/original/33804469.jpg

Chitto
31-03-2010, 18:35
Lần đầu tiên trong lịch sử Thăng Long có người phụ nữ nắm quyền tối cao, là bà Ỷ Lan. Sự tích về bà phần nào giống như truyện cổ tích.

Năm 1063, Vua Lý Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi mà không có con trai, đi chùa Dâu để cầu tự. Dọc đường, ngang làng Thổ Lỗi (nay là làng Siêu Loại, Gia Lâm, Hà Nội) đã gặp người con gái đẹp hái dâu, đứng tựa gốc lan, vua thấy lạ rước về cung, và gọi là Ỷ Lan để ngụ ý đứng tựa gốc lan. Tuy nhiên Ỷ Lan không được vào hoàng cung ngay mà phải bên ngoài, sát hoàng cung, chỗ chùa Kim Cổ bây giờ.

Ba năm sau, 1066, Ỷ Lan phu nhân sinh con trai, nên được phong làm Thần Phi, rồi Nguyên phi, đưa vào hoàng cung. Con trai bà đặt tên là Lý Càn Đức (cái đức của Trời), chưa được 1 tuổi đã phong làm Thái tử. Sau đó bà còn sinh một con trai nữa được phong là Sùng Hiền Hầu. Dù xuất thân dân dã nhưng bà tích cực học hỏi chính sự, tỏ rõ tài năng trong việc quản lý quốc gia.

Khi Càn Đức 3 tuổi, Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1069). Thường vua đi chinh chiến thì giao Thái tử giám quốc, nhưng Càn Đức còn nhỏ, mà Ỷ Lan lại có tài, nên vua giao cho bà làm Nhiếp chính, chứ không tin cậy vào hoàng hậu, khi đó bà mới khoảng 25 tuổi. Lần nhiếp chính này của Ỷ Lan thành công đến nỗi vua đánh không thắng, chán nản kéo quân về, thì nghe dân gian ca ngợi Nguyên phi Nhiếp chính là Phật bà Quan Âm. Thấy thế vua xấu hổ quyết tâm quay lại. Trận ấy thắng Chiêm Thành, bắt Chế Củ, cướp về của cải nô lệ rất nhiều, lại càng sủng ái Ỷ Lan.

Ba năm sau nữa, 1072, Lý Thánh Tông mất, khi đó Ỷ Lan 28 tuổi, làm Hoàng thái phi. Càn Đức lên ngôi, bà hoàng hậu vợ chính trở thành Thượng Dương hoàng thái hậu, liên kết với thái sư Lý Đạo Thành buông rèm nhiếp chính. Nhưng Ỷ Lan cao tay hơn, liên kết với Lý Thường Kiệt, và lại có con trai làm vua mới có 7 tuổi, nên đã lật ngược lại thế cục. Trước hết bà được phong Linh Nhân hoàng thái hậu, sau đó bắt giam Thượng Dương hoàng thái hậu, rồi bỏ chết đói cùng hơn 70 cung nữ (hoặc bắt tự tử để chôn theo Thánh Tông).

Sau khi loại bỏ Thượng Dương một cách khá tàn nhẫn, Ỷ Lan nhiếp chính lần thứ hai cho đến khi con trai đủ lớn để nắm quyền, thì lui về tìm hiểu Phật giáo. Cuối đời bà sám hối vì tội lỗi giết hoàng hậu trước kia, cho xây dựng hơn trăm ngôi chùa khắp nơi và thường xuyên tu ở chùa.

Ỷ Lan được coi là người phụ nữ không chỉ có sắc đẹp mà còn có tài và uyên bác bậc nhất của nước Việt, xuất thân bình dân nên khi ở ngôi cao cực phẩm vẫn hiểu dân chúng. Tuy có thủ đoạn trong chính trị nhưng công vẫn gấp hơn nhiều lần.

Chitto
31-03-2010, 18:42
Ỷ Lan được thờ ở nhiều nơi. Trong nội thành là ở đình Yên Thái ngõ Yên Thái.

Đền chính của Thái hậu Ỷ Lan tại quê bà, nằm ở ngoại thành Thăng Long xưa, nay thuộc huyện Gia Lâm. Đền tuy bằng gạch đơn sơ nhưng khá đẹp. Cạnh đền là chùa, nơi xưa kia bà Ỷ Lan đã cho xây dựng để sám hối.


https://static.panoramio.com/photos/original/33821955.jpg

Chitto
31-03-2010, 18:46
Trong khu vực đền - chùa, còn lại ba di vật từ thời Lý, cùng thời với Ỷ Lan. Đó là đôi sư tử đá và một bệ thành bậc bằng đá chạm con sóc, với con phượng ở thành. Nét điêu khắc mang đậm dấu ấn kết hợp Việt - Champa.


https://static.panoramio.com/photos/original/33821949.jpg

https://static.panoramio.com/photos/original/33821943.jpg

Chitto
31-03-2010, 22:41
Hầu hết những con sóc (hay sấu) đá ở thành bệ đều bị vỡ mất phần đầu. Chỉ còn lại duy nhất 1 con còn nguyên vẹn, đào được tại khu Bách Thảo ngày nay. Có thể đó là khu vực cung điện phía Tây hoàng cung.

Có thể thấy điêu khắc bệ tượng hoa sen, thành bậc đá... đã được đặt thành chuẩn mực. Các thành bậc còn lại đều giống hệt nhau về trang trí, hình con sóc, chim phượng, hoa cúc dây. Nghệ thuật đời Lý không những rất độc đáo mà còn được chuẩn hoá rõ nét.



https://static.panoramio.com/photos/original/33804020.jpg

Chitto
01-04-2010, 12:22
Chuyện cầu con của Lý Thánh Tông còn liên quan đến hai ngôi chùa trên đất Hà Nội (nhưng là ngoại thành Thăng Long).

Khi có Ỷ Lan rồi, Lý Thánh Tông vẫn chưa có con, thường đi cầu tự ở ngôi chùa phía Tây thành Thăng Long. Khi không đến được thì vua sai nội thị là Nguyễn Bông thường xuyên đến đó khẩn cầu. Truyền thuyết kể rằng có pháp sư là Đại Điên bảo với Bông là có thể làm thuật để Bông thoát xác đầu thai làm con vua. Việc bị lộ, Nguyễn Bông bị chém đầu ở ngoài cổng chùa, còn Đại Điên thì không thấy nói đến nữa, nhưng lại xuất hiện trong truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh sau này.

Đến khi Ỷ Lan sinh được con trai, vua mừng rỡ sai đổi tên chùa thành Thánh Chúa, dọc đường từ chùa Thánh Chúa về hoàng thành lại cho dựng chùa Thánh Đức, ngụ ý mong cho con mình sẽ thành vị vua tài giỏi và đức độ. Điều mong ước đó trở thành hiện thực, thái tử Càn Đức sau này là vua Lý Nhân Tông là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, là vị vua tài giỏi anh minh bậc nhất.

Ngày nay chùa Thánh Chúa nằm lọt trong khuôn viên trường ĐH Sư Phạm. Còn chùa Thánh Đức thì chính là chùa Hà nổi tiếng về cầu duyên, nằm cuối phố Chùa Hà.


Cổng chùa Thánh Chúa



https://static.panoramio.com/photos/original/33821961.jpg


Và chùa Thánh Đức (chùa Hà)


https://static.panoramio.com/photos/original/33832247.jpg

(Có truyền thuyết khác nữa về chùa Hà, nhưng riêng tôi thấy truyền thuyết này hợp lý, lại cũng thật hay)

Chitto
02-04-2010, 11:39
Lý Nhân Tông nối ngôi, là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Việt Nam, 56 năm.

Thời đầu, Thái hậu Ỷ Lan cùng Thái uý Lý Thường Kiệt nắm quyền, Đại Việt hùng mạnh đã mang quân sang đánh nhà Tống, phá Ung Châu, Khâm Châu, làm cỏ cả thành Ung Châu. Quân Tống sang đánh nhưng bị chặn lại tại Như Nguyệt rồi rút về. Thăng Long không hề bị thương tổn nào. Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập ở phía nam Thăng Long. Về Văn, đời Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám là trường học quốc gia đầu tiên.

Có truyền thuyết rằng con gái Lý Nhân Tông đi thuyền trên sông Đuống, bị chết đuối. Có người làng Lệ Mật vớt được xác, Lý Nhân Tông ban thưởng bằng cách cho người dân Lệ Mật vào lập 13 trại tại phía Tây của Thăng Long, khi đó còn ít người sinh sống, chỉ có một số quan, lính. Từ đó hình thành nên tên gọi Thập tam trại.

Thập tam trại chính xác gồm những nơi nào không rõ, ngày nay về lễ đình Lệ Mật thì gồm các nơi: Vĩnh Phúc, Liễu Giai, Cống Vị, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Kim Mã, Xuân Biểu, Thủ Lệ, Vạn Phúc, Ngọc Khánh, Đại Yên, Giảng Võ, Cống Yên.

Đình Lệ Mật, nơi thờ thành hoàng làng, cũng là người có công lập ra Thập tam trại.



https://static.panoramio.com/photos/original/33821958.jpg

Chitto
05-04-2010, 00:28
Một trong những người Thăng Long nổi tiếng nhất là Lý Thường Kiệt, vị tướng giỏi nhất triều Lý. Ông tên thật là Ngô Tuấn, quê ngay tại khu vực phía Nam thành Thăng Long. Khi Lý Thái Tổ dời đô thì một phần làng quê ông thuộc về kinh thành.

Sinh ra dưới thời Lý Thái Tông, ông là nội thị (hoạn quan) của Lý Thái Tông, nhưng do có tài nên đến thời Lý Thánh Tông thì được nắm giữ quân đội. Sang đến triều Lý Nhân Tông, ông được phong Thái Uý, đứng đầu hàng Võ, thống lĩnh toàn bộ quân đội. Ông liên kết với Thái hậu Ỷ Lan, đã thắng phe của Thái hậu Thượng Dương và Thái sư Lý Đạo Thành năm 1069.

Cùng Thái hậu Ỷ Lan nắm quyền, trước tin nhà Tống định đánh chiếm Đại Việt, ông quyết định chủ động đánh trước. Và trận đánh năm 1075 đó là lần duy nhất người Việt chính thức đánh Trung Quốc, phá tan Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu, làm cỏ thành Ung Châu (Nam Ninh ngày nay) giết 58 nghìn người trong thành đó. Tổng cộng giết quân và dân Hán gần 100 nghìn, rồi rút về nước.

Nhà Tống đem quân sang báo thù, ông lập phòng tuyến Như Nguyệt, giằng co, cuối cùng quân Tống phải rút về. Tại phòng tuyến này đã vang lên bài thơ bất hủ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Lý Thường Kiệt từ họ Ngô được ban họ Lý, gia phong rất nhiều tước, có thể nói là thuộc loại bậc nhất trong các quan lại triều Lý: Thượng trụ quốc, Phụ Quốc Thái phó Thượng tướng quân, tước Khai Quốc công.
(Tước từ cao xuống thấp có Công - Hầu - Bá - Tử - Nam, hoàng tử thời Lý Thánh Tông cũng chỉ phong tước Hầu, mà ông tước Công, thì còn cao hơn).

Ông mất khi 87 tuổi, được truy phong Việt Quốc Công, là tước Quốc Công cao nhất có thể có.

Chitto
05-04-2010, 00:39
Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập tại quê nhà ông là làng An Xá, sau là Cơ Xá, nay thuộc khu vực gần viện Pasteur. Đền gọi là đền Cơ Xá, nằm đầu phố Nguyễn Huy Tự


https://static.panoramio.com/photos/original/33981395.jpg

Tương truyền khi mất Lý Thường Kiệt được chôn ngay trong thành Thăng Long, khu vực đất làng Nam Đồng ngày nay, nơi đó nay là đình Nam Đồng, trên phố Nguyễn Lương Bằng.


https://static.panoramio.com/photos/original/33981389.jpg

Ngoài ra còn đình Phúc Xá, đền Tiên Thiên cũng thờ Lý Thường Kiệt.

DUNG_BTT
05-04-2010, 09:51
Trời ạ, em xin tôn bác Chitto làm thần tượng nhá nhá. Em theo chân bác từ những loạt bài về chùa Đất Việt cơ. Phải nói bác phải rất yêu Hà Nội đồng thời có sự tìm tòi, nguyên cứu cực sâu về Văn Hóa, Lịch sử và cả văn hóa tín ngưỡng của Người Việt mới có thể ra đời được những bài viết chất lượng như thế được.
Em cũng yêu Sì Gòn của em lắm cơ, nhưng không có khả năng và kiến thức viết được như bác. Ngày 9-13/4/2010 em có mặt tại HN, mong rằng có dịp nào gặp bác cũng như giao "lu" với các phượt miền Bắc.

Thân ái
P.S Bấm Thanks nhưng vẫn muốn nói thêm lời cám ơn về những bài viết "chất" của bác.:))

KK172
05-04-2010, 10:19
Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập tại quê nhà ông là làng An Xá, sau là Cơ Xá, nay thuộc khu vực gần viện Pasteur.

Ồ, có vẻ Lý Thường Kiệt là một trong số hiếm hoi người Hà nội gốc (à quên, Thăng long gốc) ở lại quê nhà lập nghiệp nhỉ ;)

linhnam
05-04-2010, 13:14
Tương truyền rằng năm 1954, trước khi rút đi, quân Pháp nổ mìn phá huỷ đài Liên Hoa, và năm 1955 mới dựng lại như thấy ngày nay, nhỏ hơn nguyên bản một chút. Cây cột chính giữa đỡ đài làm bằng đá, phía trên toàn bộ bằng gỗ, lợp ngói, trong để tượng Quan Âm, chỉ một người quỳ là hết chỗ.


sao lại là tương truyền hả bác?

Chitto
05-04-2010, 14:31
sao lại là tương truyền hả bác?

Là vì bên cạnh hầu hết các tài liệu đều ghi là quân Pháp phá huỷ chùa Một Cột, vẫn có nguồn tin cho rằng không phải thế. Điều nghi ngờ đó cũng có thể có lý, khi mà tôi thấy rằng người Pháp rất cẩn thận lưu giữ các công trình kiến trúc cổ Việt Nam, đặc biệt tại Hà Nội. Trong thư viện của họ còn giữ bản vẽ chi tiết các ngôi chùa ở HN, thiết kế, cấu trúc... một cách tỉ mỉ. Tất cả các tấm bia đều được họ làm bản dập lưu trữ, những việc đó người Việt mình còn không làm nổi. Nhất là phải nhớ lại giai đoạn chính chúng ta đã tiêu huỷ vô số công trình văn hoá của mình thế nào.

Cho đến nay các nguồn tài liệu đều chỉ ghi chung chung là "quân Pháp nổ mìn phá huỷ chùa Một Cột", nhưng phá khi nào, lúc nào, có bằng chứng gì, có ai chứng kiến ... thì hoàn toàn không. Vì vậy tôi cũng không thể khẳng định điều đó (như các báo chí khác) được.

@DUNG_BTT: Cảm ơn bạn, tôi cũng chỉ làm điều gì mình thích, và viết ra những điều mình biết để chia sẻ với mọi người, kẻo rồi chính mình lại quên đi thôi. Gặp tôi ngoài đời thì là một người chán ngắt ấy mà.

Chitto
05-04-2010, 14:51
Nhân nói đến phần mộ Lý Thường Kiệt được cho rằng nằm trong khu vực đất đình Nam Đồng, không thể bỏ qua một lăng mộ khác cũng nằm giữa Thăng Long, là mộ của Bố Cái Đại vương Phùng Hưng.

Phùng Hưng người làng Đường Lâm, mảnh đất sau này còn có vua Ngô Quyền. Nổi dậy chống lại nhà Đường đô hộ trong khoảng 766 - 790, ông đã có nhiều thành công, vây được quân nhà Đường đóng ở huyện Tống Bình (khu vực Thăng Long sau này), đuổi được quân Đường sang bên kia sông. Sự nghiệp chưa thành thì Phùng Hưng qua đời năm 791, khi mới ngoài 40 tuổi.

Đến nay, có một lăng mộ được nhân dân ngàn năm tôn thờ là mộ của Phùng Hưng, nằm ngay giữa thành Thăng Long. Thực tế là có thể chỉ là lăng thờ tượng trưng, vì sau khi Phùng Hưng mất, quân Đường chiếm lại đất Tống Bình, mà sự trả thù của người Tàu đều không đơn giản, liệu mộ Phùng Hưng nếu chôn ở đây có thể nguyên vẹn được không?

Ngày nay, lăng Phùng Hưng nằm ngay phía sau bến xe Kim Mã, đường vào trên đoạn cuối của phố Giảng Võ.


https://static.panoramio.com/photos/original/33981402.jpg

https://static.panoramio.com/photos/original/33981411.jpg

TriMinh
05-04-2010, 21:34
Cụ Chitto xin phép cho em chen ngang tý, cụ làm ơn post cho em xin cái lịch lễ hội truyền thống của Hà Nội và Hà Tây cũ từ nay cho đến 15 tháng 3 âm lịch đi.

Chitto
05-04-2010, 23:34
Tôi cũng không biết và nhớ nổi các lịch lễ hội đâu. Bạn chịu khó tìm trên mạng vậy. Có cái link này không biết có ích gì không

http://www.vietnamtourism.com/v_pages/tourist/festival.asp

Chitto
06-04-2010, 02:15
Về Võ, chíến dịch đánh Tống và chống Tống thể hiện sức mạnh triều Lý. Về Văn, triều Lý Nhân Tông được đánh dấu bởi việc mở Quốc Tử Giám, trường học Quốc gia đầu tiên. Có một điều thú vị là thời Thánh Tông, năm 1069 đánh thắng Chiêm Thành liền sau đó, năm 1070 lập Văn Miếu; thời Nhân Tông, năm 1075 đánh thắng Tống thì liền sau đó năm 1076 lập Quốc Tử Giám.

Lịch sử ghi công này cho Lý Nhân Tông, nhưng thực ra khi đó vua mới chỉ có 11 tuổi, nào đã biết gì về Võ hay Văn, mà đó là công của Thái hậu nhiếp chính Ỷ Lan, và thái sư Lý Đạo Thành. Trước kia Lý Đạo Thành theo phe Thượng Dương, bị dời vào trấn thủ Nghệ An, nhưng Thái hậu Ỷ Lan bỏ qua chuyện cũ, lại mời ông ra làm Thái sư như cũ. Có thể cho rằng chính ông là người đã hậu thuẫn cho việc mở trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Triều đại mà Võ thì có Lý Thường Kiệt, Văn thì có Lý Đạo Thành, lại có bà Thái hậu uyên bác quyết đoán, thì dù là vua bé vẫn cứ hưng thịnh, và Thăng Long ngày càng được xây dựng hoàn thiện, to đẹp.


https://static.panoramio.com/photos/original/34034938.jpg

Chitto
06-04-2010, 12:03
Triều Lý Nhân Tông có vụ án nổi tiếng liên quan đến hồ Tây, tức là vụ án Dâm Đàm.

Ngay từ khi định đô trên đất này, hồ Tây đã là một phần không thể tách rời của thành Thăng Long. Tên hồ đời Lý là Dâm Đàm, tức là đầm mù sương. Ngày nay mỗi ngày có sương, thì cảnh sắc hồ Tây cũng vẫn rất huyền ảo. Hồ lại có tên là đầm Xác cáo, do truyền thuyết xưa đây là nơi Hồ ly tinh đào hang sống, Lạc Long Quân đã giết cáo tinh rồi vứt xác ở đây. Lại còn gọi là hồ Kim Ngưu - Trâu Vàng, theo truyền thuyết Khổng lồ đúc chuông (sẽ nói sau). Đến đời Lê mới gọi là Tây hồ, có lẽ để đối ứng với tên gọi Đông Đô chăng, vì hồ đâu có nằm ở phía Tây của Thăng Long, mà ở phía Bắc.

Với Thăng Long, hồ Tây là thắng cảnh đệ nhất. Nếu sông Cái - Nhĩ Hà là con đường giao thông, lưu thương buôn bán, là cái hào tự nhiên vĩ đại ngăn giặc Bắc, thì hồ Tây là nơi thưởng ngoạn tuyệt vời. Vì thế tại hòn đảo Kim Ngư (Cá vàng) giữa hồ, nhà Lý cho dựng cung Thuý Hoa, bờ bắc còn làm cung Từ Hoa, là nơi vui chơi nghỉ ngơi của các vua Lý. Lúc này con đê chia đôi hồ chưa có, nên đảo Kim Ngư chơi vơi giữa mênh mông sóng nước, bình minh hay hoàng hôn đều rực rỡ cả, chắc hẳn là rất đẹp.

Tại Dâm Đàm, từ đời Lý đã có các địa danh Hồ Khẩu (cửa sông Tô Lịch nối với hồ), Giang Tân (bến sông), Lãng Bạc (bến sóng), Trích Sài (hái củi), Võng Thị (chợ bán lưới)... rồi Nghi Tàm, Nhật Tân,..., những cái tên còn đến ngày hôm nay. Vua chúa từ thời đó đã thường thích đi thuyền trên hồ ngắm cảnh, xem dân gian buôn bán, đánh cá.

Và cũng từ một lần vua đi xem đánh cá mà có vụ án Dâm Đàm.


https://static.panoramio.com/photos/original/23205118.jpg

Chitto
06-04-2010, 13:06
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông (thực ra là Thái hậu Ỷ Lan) mở khoa thi đầu tiên của nước Việt, Lê Văn Thịnh đỗ đầu, thời ấy chưa gọi là Trạng Nguyên, nhưng có thể coi ông là Trạng Nguyên đầu tiên của nước ta. Ông khi đó 37 tuổi, được vào cung dạy dỗ cho ông vua bé 11 tuổi.

Mười năm sau, 1085, ông đi sứ Trung Quốc, bằng tài ngoại giao của mình đã lấy lại được tất cả phần đất mà nhà Tống chiếm chưa chịu trả, nên khi về triều được phong Thái sư, vừa là thầy học của vua, vừa là vị quan đầu triều.

Sử chép năm 1096, vua Lý Nhân Tông (30 tuổi) đi chơi Dâm Đàm xem dân đánh cá, Thái sư khi đó 58 tuổi, đi theo hầu. Bỗng sương mù bao phủ, trong thuyền bỗng xuất hiện con hổ định vồ vua. Người đánh cá là Mục Thận vội quăng lưới lên con hổ, vua cũng lấy giáo đâm. Sương tan thì thấy trong lưới chính là Thái sư Lê Văn Thịnh. Ông bị kết tội hoá hổ để giết vua, bị đày đi Thao Giang đến chết.

Chuyện này là vụ án chính trị, có lẽ vì những bất đồng của Thái sư già và vua trẻ, và có thể cả thế lực khác nữa, nên mới đặt ra chuyện huyễn hoặc này. Chứ theo luật của mọi triều đại, thì giết vua là chắc chắn phải chết, không có chuyện chỉ bị đi đày.

Nỗi oan của Lê Văn Thịnh được người dân đời sau thấu hiểu, nên lập đền thờ ông tại quê, và tạc hình con rồng đá cắn vào thân, chân cào vào bụng đầy uất ức.

Còn ông Mục Thận "có công cứu vua" là người làng Võng Thị, cũng được lập đền thờ, và là thành hoàng làng. Ngày nay đình Võng Thị thờ ông này.


Cổng chùa Võng Thị, ngay sát với đình Võng Thị (đình này thì tu sửa mới toe rồi)


https://static.panoramio.com/photos/original/34051034.jpg

DUNG_BTT
06-04-2010, 14:16
....Nỗi oan của Lê Văn Thịnh được người dân đời sau thấu hiểu, nên lập đền thờ ông tại quê, và tạc hình con rồng đá cắn vào thân, chân cào vào bụng đầy uất ức....


Thế nhưng theo em được biết thì con Rồng Đá này lại tượng trưng cho nhà vua vì nghe lời xiểm nịnh nên bức hại trung thần, sau đó dằn vặt bản thân vì "...một tai thông, một tai đặc..." thể hiện rõ nét trên tượng. Đặc điểm khác nữa là con rồng này có năm móng, tượng trưng cho Vua mà thôi.
Bác Chitto giảng giải hộ cái...

Chitto
06-04-2010, 18:34
Theo tôi thì đó không phải tượng trưng cho vua vì:

1. Trước hết, đó không phải con rồng (!). Con vật đó có thân rắn, có vẩy, có chân, nhưng không có các đặc điểm để làm rồng: không sừng, không bờm, không râu. Nó giống con rắn có chân hơn, hay còn gọi là loài 'Ly long'. Nếu không phải là rồng thì nó cũng không tượng trưng cho vua.

2. Lý Nhân Tông là ông vua giỏi được lịch sử công nhận, trong sử sách cũng không ghi điều gì về việc vua nghe xiểm nịnh. Dù người làng quê Lê Văn Thịnh ghét vua thế nào cũng không thể bất kính đến mức biến con Rồng - Vua thành con vật khác.

3. Thực sự mối quan hệ giữa vua và Lê Văn Thịnh thế nào, Lê Văn Thịnh đã làm được gì trong 10 năm trước đó, có công và tội gì (sau việc đi sứ TQ) thì hoàn toàn không có sử liệu gì. Vậy cũng chẳng thể nói ông hoàn toàn vô tội trong vụ việc đó. Ông có làm gì trái với chức phận, trái với ý vua, Thái hậu (khi đó Ỷ Lan vẫn còn sống), với quốc gia... hay không, chúng ta hiện nay không một ai biết.
Chỉ có câu chuyện hoá hổ là bày đặt ra để có lý do đày ông đi, còn nguyên nhân sâu xa, có lẽ chỉ có ông biết, vua biết, mà cả hai đều đã chết rồi.

Sự thực về thâm ý con Rồng - rắn đá đó thế nào, đến giờ người ta cũng không rõ nổi, vì vậy bàn luận cũng chỉ là cho vui thôi. Hơn nữa topic này tôi chủ yếu nói về Thăng Long, do đó những sự việc quá xa ra ngoài như thế cũng sẽ không bàn luận tới, cũng vì thế tôi không đưa ảnh con rồng - rắn đá đó vào topic này, trong khi đưa ảnh cổng chùa Võng Thị, vì nó nằm ở Hà Nội.

Nhân nói chuyện ngoài, có bạn gửi tôi link của một bài viết trong đó đề cập chuyện nhà viết kịch Tào Mạt viết về Lê Văn Thịnh là phản thần. Và tác giả viết ý rằng sau đó Tào Mạt và con trai ông phải chết thảm, cũng là do Tào Mạt đã xúc phạm nên bị "thánh vật". Tôi hết sức coi thường cái tư tưởng mê tín kiểu "thánh vật" của tác giả đó. Nếu thực sự có cái hồn của Lê Văn Thịnh làm việc đó, thì đó là một con quỷ, một thứ yêu ma quái quỷ tởm lợm đáng khinh bỉ.

Chitto
06-04-2010, 20:29
Thời Lý Nhân Tông, Thái hậu dựng trên trăm ngôi chùa khắp nơi, tại Thăng Long vua cũng dựng thêm đến năm bảy ngôi chùa, lại tu sửa và mở rộng chùa Diên Hựu, dựng thêm các tháp, làm cầu, đào hồ.

Thái hậu Ỷ Lan lại cho đúc quả chuông gọi là Giác Thế Chung (chuông để thức tỉnh thế gian), nặng 1 vạn 2 nghìn cân (khoảng 6 tấn) để treo ở chùa Diên Hựu. Nhưng do đúc không tốt nên khi đánh chuông không kêu, có lẽ bị rạn trong quá trình đúc. Chuông không treo lên nữa, mà bỏ ở ruộng ngoài chùa, có nhiều rùa sống tại đó nên gọi là chuông Quy Điền. Chuông trở thành Đại khí thứ hai của Đại Việt, làm sau cái thứ nhất là Tháp Báo Thiên hơn 50 năm. Về sau giặc Minh đã phá huỷ chuông.

Về chuông Quy Điền, dân gian lưu truyền câu truyện về Khổng Minh Không. Ông có phép lạ, sang Trung Quốc xin đồng về đúc chuông, vua Tàu coi thường bảo vào kho thích lấy bao nhiêu thì lấy. Chẳng ngờ ông lấy tất cả đồng trong kho bỏ vào cái đãy, lại lật ngửa nón tu lờ ra để chèo qua sông, mang về đúc chuông. Khi chuông đánh lên, tiếng vang tận sang Tàu, ở cửa kho có con trâu vàng nghe tiếng chuông liền vùng chạy sang, chạy quanh Thăng Long tạo thành sông Kim Ngưu, rồi không chịu rời đi. Khổng Minh Không thấy thế ném chuông xuống hồ Tây, trâu vàng lao xuống theo, nên hồ cũng có tên hồ Kim Ngưu.


Trâu vàng đang ẩn náu nơi nào dưới đáy hồ này ???


https://static.panoramio.com/photos/original/23205096.jpg

Chitto
06-04-2010, 23:10
Lý Nhân Tông trị vì lâu, nhưng dù lập đến ba bà Hoàng hậu, mà vẫn không có con, phải lấy con trai của em ruột làm Thái tử. Vị thái tử này lại liên quan đến một câu chuyện huyền hoặc nữa tại đất Thăng Long.

Chuyện kể là ở làng Láng, sát ngoài thành Thăng Long, có ông Từ Vinh, vì có hiềm khích, Diên Thành hầu nhờ pháp sư Đại Điên dùng phép giết Từ Vinh (lại là ông Đại Điên trong giai thoại Nguyễn Bông muốn đầu thai). Con trai Từ Vinh là Từ Đạo Hạnh quyết tâm đi học pháp thuật để báo thù.

Từ Đạo Hạnh đi học theo Mật tông của Phật giáo, niệm chú điều khiển chư thiên, đánh chết được Đại Điên. Trả thù xong, Từ Đạo Hạnh quay về tu hành tại Sài Sơn, dựng chùa Thiên Phúc (tức là chùa Thầy ngày nay). Bấy giờ Sùng Hiền hầu là em Lý Nhân Tông cũng hiếm muộn, đến cầu con. Từ Đạo Hạnh bèn trút xác tại hang Thánh Hoá ở Sài Sơn, đầu thai vào làm con trai Sùng Hiền hầu, sau lên ngôi là Lý Thần Tông.

Bởi huyền tích này mà Lý Anh Tông, con của Thần Tông cho xây lại chùa Chiêu Thiền (tức chùa Láng) tại nơi Từ Đạo Hạnh tu đầu tiên, chùa Đản Cơ (tức chùa Nền) tại nền nhà Từ Vinh, chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) tại Sài Sơn. Ngày nay trong chùa Thầy vẫn còn một toà sen đời Lý, và hai cây cột gỗ được cho là có từ thời Từ Đạo Hạnh. Trong chùa Láng thờ tượng Từ Đạo Hạnh và tượng Lý Thần Tông.

Điều tôi thấy thú vị nhất là hiện nay bên này Tô Lịch có 2 chùa thờ Từ Đạo Hạnh là chùa Láng và chùa Nền, thì bên kia sông Tô Lịch có chùa Duệ thờ Đại Điên !!! Đại Điên có công lao gì mà nghìn năm vẫn được thờ phụng, thì tôi chưa tìm hiểu được. Phải chăng đây là sự "cạnh tranh" tâm linh của hai làng ở hai bên bờ sông ???

Chùa Láng, cụ Võ An Ninh chụp năm 1941


https://static.panoramio.com/photos/original/33883475.jpg

Chitto
07-04-2010, 13:44
Lý Thần Tông lên ngôi năm 11 tuổi, đến 20 tuổi thì bị bệnh, các thái y đều bó tay. Sau có sư Nguyễn Minh Không (tên thật là Nguyễn Chí Thành, người Ninh Bình) chữa được bệnh cho vua, được phong là Quốc sư. Tuy nhiên vua cũng chỉ sống được đến 23 tuổi thôi, chính sử cũng không ghi là bệnh gì. Do đó Minh Không được tôn là vị thánh chữa bệnh.

Theo truyền thuyết thì khi trước Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải ba người đi học đạo cùng nhau, Từ Đạo Hạnh đã hoá hổ để trêu hai người, nên khi đầu thai làm Lý Thần Tông thì cũng bị bệnh hoá hổ, lông lá mọc ra, gào rống như hổ (lại chuyện hoá hổ và đầu thai !!!). Chỉ có Minh Không là người đã từng học đạo cùng mới chữa được. Minh Không có nhiều tài phép, được tôn là ông tổ nghề đúc, và gắn với ông Khổng Minh Không trong truyền thuyết chuông đồng trâu vàng. Sau Minh Không còn được gắn với Không Lộ, tạo thành một hình tượng vừa thiêng liêng vừa hoà trộn lộn xộn khó phân biệt.

Có thể thấy triều Lý với thuyết Tam giáo Đồng nguyên (ba tôn giáo là Nho - Phật - Đạo cùng được trọng) nên các truyền thuyết đều hoà quyện. Những người như Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Đại Điên vừa được coi là các Thiền sư Phật giáo, vừa là Pháp sư Đạo giáo, lại có tước vị thế quyền Nho giáo.

Khi Minh Không mất, rất nhều nơi từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, Thái Bình đều tôn thờ làm Thánh tổ của các ngôi chùa. Tại Thăng Long, vua cho lập đền thờ, gọi là đền Lý triều Quốc sư ngay cạnh chùa Báo Thiên. Sau đền chuyển thành chùa, tức là chùa Lý Quốc Sư trên phố Lý Quốc Sư bây giờ.


Ba pho tượng Lý triều Tam Thánh Tổ (sau tượng Phật), với Quốc sư Minh Không ngồi giữa, hai bên là Từ Đạo Hạnh và Giác Hải tại chùa Lý Quốc Sư.


https://static.panoramio.com/photos/original/34068359.jpg

Chitto
07-04-2010, 19:18
Có hôm ngồi xem lại các ngôi chùa quanh Hà Nội, tôi nhận thấy có bốn ngôi chùa đều rất cổ ở ngoài Thăng Long, gần như chính xác bốn phương Đông Tây Nam Bắc, cách trung tâm Thăng Long khoảng 20km. Có thể coi đây như bốn ngôi Trấn Tự từ xa cho Thăng Long chăng?

Đầu tiên, ở phía chính Đông của Thăng Long, là chùa Dâu (Pháp Vân) ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được dựng từ thời Sĩ Nhiếp, thế kỉ 3. Nhiều lần các vua Lý, Trần, Lê đều về đây rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa.

Ở phía chính Nam của Thăng Long, cách là chùa Đậu (Thành Đạo) cũng là ngôi chùa rất cổ, được dựng cũng trong thời Sĩ Nhiếp, rất linh thiêng với các lễ hội cầu đảo, và đến triều Lê thì có hai vị Thiền sư để lại tượng Nhục thân nổi tiếng.

Ở phía chính Bắc của Thăng Long là chùa Non (Sóc Thiên Vương), là chùa do Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu lập từ thế kỉ 10, tức là còn trước cả khi có Thăng Long. Chùa nằm ngay tại lưng ngọn núi mà Phù Đổng Thiên Vương lên trời. Khuông Việt đại sư là Quốc sư của ba triều: Đinh, Tiền Lê, Lý, cũng là sư trụ trì chùa Khai Quốc.

Và cuối cùng, phía chính Tây của Thăng Long là chùa Thầy (Thiên Phúc), có muộn nhất, thế kỉ 12, do Thiền sư Thánh tổ Từ Đạo Hạnh dựng, nép vào chân núi Sài Sơn.

Bốn ngôi chùa này có lịch sử ngắn thì 900 năm, dài thì 1800 năm, đã ở đó như những chứng nhân, lúc hưng thịnh, lúc suy tàn. Tất cả đều không phải là nguyên bản, nhưng vẫn mang cái hồn đó, gắn liền với lịch sử thăng trầm, và có lẽ sẽ cùng với Thăng Long trường tồn.


https://static.panoramio.com/photos/original/34089350.jpg

KK172
08-04-2010, 13:57
Có hôm ngồi xem lại các ngôi chùa quanh Hà Nội, tôi nhận thấy có bốn ngôi chùa đều rất cổ ở ngoài Thăng Long, gần như chính xác bốn phương Đông Tây Nam Bắc, cách trung tâm Thăng Long khoảng 20km. Có thể coi đây như bốn ngôi Trấn Tự từ xa cho Thăng Long chăng?


Chưa đi 2 chùa, phải mau đi mới được.

"Chùa Sóc" nghe lạ quá, hay đây chính là đền Sóc thờ Phù Đổng thiên vương?

Chitto
08-04-2010, 23:31
Thần Tông mất quá trẻ, mới 23 tuổi, con mới 3 tuổi lên ngôi là Lý Anh Tông. Trong những năm đầu Thái hậu nhiếp chính, tình nhân của Thái hậu cũng coi chính sự, nhưng cũng không có ý làm phản. Rồi đến khi Tô Hiến Thành nắm quyền, củng cố chính sự, chấn hưng lại đất nước.

Đến thời Anh Tông thì Trung Quốc mới phong làm An Nam Quốc vương, trước đó chỉ chịu phong là Giao Chỉ Quận vương. Quốc vương là công nhận là Vua một Quốc gia độc lập hoàn toàn, còn Quận vương thì tức là vẫn cố tình coi là một Quận thuộc Trung Quốc. Tuy nhiên với Đại Việt thì cũng không quan trọng vì độc lập tự chủ lâu rồi.

Lý Anh Tông là vua đã cho lập đàn Nam Giao tại phía Nam thành Thăng Long, cầu mưa và cầu tạnh mưa cũng ở đó. Rồi hàng loạt chùa chiền cũng được xây dựng tại Thăng Long, như chùa Thắng Nghiêm Thánh Thọ, Bảo Thiên, Trừng Minh, Quảng Giáo, Quảng Hiếu, Phụng từ; nhưng đồng thời cũng có các quán của Đạo giáo như Thái Thanh, Cảnh Linh, Ngũ Nhạc !

Vua mở hội đèn Quảng Chiếu cúng Phật trong 7 ngày đêm, là hội lớn nhất thời bấy giờ. Hội đèn đó như thế nào không còn tài liệu chi tiết, chỉ được ghi rất sơ sài tại văn bia chùa Đọi. Gần đây một số người, nhất là bên Phật giáo đang muốn phục dựng lại hội đèn này, tuy nhiên nếu có làm thì đa phần cũng chỉ là “sáng tạo” và dễ bị là “bịa ra” vì không có tư liệu gì cả.

Bia chùa Long Đọi, tấm bia cổ đời Lý cuối cùng còn sót lại, trong đó có nhiều ghi chép về Thăng Long thời Lý Anh Tông.



https://static.panoramio.com/photos/original/18023680.jpg

Chitto
09-04-2010, 23:59
Lý Anh Tông là vị vua anh minh cuối cùng của triều Lý. Con trai cả của vua thì tồi bại nên bị phế làm dân thường, con thứ hai được lập làm vua, là Lý Cao Tông khi mới 3 tuổi. Tô Hiến Thành mất đi rồi, vua lớn lên không làm được gì cho Đại Việt, chỉ chuyên chơi bời hoang phí, xây dựng cung thất đền đài, triều đình cũng suy đồi, nên trộm giặc nổi lên khắp nơi.

Năm 1209, Lý Cao Tông bắt giam vị tướng có công là Bỉnh Di, bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đánh vào kinh thành để cứu chủ. Thật thảm hại là Thăng Long thất thủ, vua bỏ mặc vợ con chạy tuốt lên mạn ngược, còn Hoàng hậu và Thái tử chạy té xuống phía biển !!! Sau 200 năm, lần đầu tiên Thăng Long rơi vào tay họ khác.

Có lẽ Thăng Long đã yên bình quá lâu, lần cuối cùng bị quân giặc đe doạ là quân Tống cách cũng đã 130 năm, mà cũng chưa phạm đến gần kinh đô, còn thì toàn giặc giã ở ngoài biên, nên triều đình không thể phản ứng và chống cự dù chỉ một cuộc tấn công nhỏ. Vua thì hèn và bất tài chỉ biết chạy.

Thái tử thì chạy về Hưng Hà, Thái Bình, nương nhờ gia tộc họ Trần. Tại đây vị thái tử mới 16 tuổi khi gặp cô gái Trần Thị Dung đã lấy luôn làm vợ, và từ bấy họ Trần bước vào lịch sử Việt Nam. Anh ruột Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh và cậu là Tô Trung Từ mộ quân về lấy lại Thăng Long, đưa Cao Tông về, nhưng khắp nơi đã loạn cả, mỗi địa phương có các hào trưởng cát cứ đánh nhau.

Cao Tông về Thăng Long chỉ được một năm thì chết, truyền ngôi cho Thái tử, tức là Lý Huệ Tông, vị vua thứ 8 của triều Lý.

Chitto
10-04-2010, 01:00
Lý Huệ Tông 17 tuổi làm vua, không có quyền hành gì cả. Vua không tin họ Trần, muốn nhờ thế lực khác diệt họ này (nhưng vẫn yêu Trần Thị Dung hết sức), nên lại lần nữa bỏ chạy khỏi Thăng Long. Trần Tự Khánh là anh ruột Trần Thị Dung đem quân vào Thăng Long, đốt phá cung điện, cướp sạch kho tàng, ngày càng mạnh hơn, thậm chí lập một vua khác thay cho Huệ Tông. Sau hơn 200 năm hưng thịnh, Thăng Long lần đầu bị đốt phá tan hoang.

Huệ Tông chạy khắp nơi, nhờ các thế lực khác, nhưng ai cũng thua họ Trần. Bất đắc dĩ lại phải quay về nhờ vào họ này. Trần Tự Khánh phế vị vua tạm kia đi, lại tôn Huệ Tông, Trần Thị Dung thành Hoàng hậu. Họ Trần chia nhau quyền lực trong triều. Trần Tự Khánh chết thì anh trai là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ nắm hết quyền bính.

Huệ Tông chỉ sinh 2 con gái, lại nửa tỉnh nửa mê, năm 1224, vua 31 tuổi, Trần Thủ Độ ép nhường ngôi cho con gái bé là công chúa Chiêu Thánh, tức Lý Chiêu Hoàng, rồi phải vào chùa Bút Tháp mà tu. Nhưng thỉnh thoảng Huệ Tông vẫn ra ngoài chùa, người dân nhớ ơn nhà Lý nhìn thấy đi theo khóc lóc. Thấy thế Thủ Độ đem vua vào chùa Chân Giáo không cho đi đâu nữa. Năm sau (1225) Trần Thủ Độ cướp ngôi nhà Lý, thì Lý Huệ Tông vẫn còn đó.

Một ngày năm 1226, Trần Thủ Độ vào thấy cựu hoàng nhà Lý, Thái thượng hoàng Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ, bèn nói: Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ.

Huệ Tông bảo: Lời ngươi ta hiểu rồi, rồi thắt cổ mà chết, mới có 33 tuổi.

Tương truyền trước khi chết, Huệ Tông nguyền rằng: Thiên hạ của nhà ta ngươi đã cướp rồi, nay ngươi lại còn ép ta chết, ngày sau con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế. Lời nguyền ấy về sau ứng nghiệm khi họ Hồ cướp ngôi và giết 2 vua họ Trần.


Chùa Bát Tháp ở phố Đội Cấn ngày nay, có người cho là chính là chùa Bút Tháp đời Lý, có người cho là chùa Chân Giáo. Vậy thì dù thế nào, đây cũng có thể là nơi ghi dấu những ngày cuối đời của ông vua bất hạnh nhất triều Lý.


Chùa Bát Tháp ngày nay, phải chăng xưa kia sau vườn chùa này Lý Huệ Tông đã thắt cổ tự tử ???


https://static.panoramio.com/photos/original/34180537.jpg

Chitto
11-04-2010, 01:08
Năm 1225, Thăng Long chứng kiến sự kết thúc của triều Lý sau 215 năm.

Lý Chiêu Hoàng (8 tuổi) trong sự bất lực của cha, sự hoan hỉ ngấm ngầm của mẹ, sự lạnh lùng mưu mô của ông cậu gian hùng, đã lấy người anh họ Trần Cảnh (7 tuổi), rồi sau đó nhường ngôi cho chồng. Nữ hoàng không được họ Lý công nhận, do đó chỉ tính Lý Bát đế, tương ứng với 8 ngôi chùa mà Thái Tổ đã dựng xưa kia ở quê. Ngoài ra còn 2 vua Lý nữa không được công nhận chính thức, được lập tại Thăng Long khi Cao Tông và Huệ Tông bỏ chạy.

Thời kỳ 200 năm bình yên, hưng thịnh của nhà Lý cũng là thời kỳ Thăng Long được yên ổn lâu dài nhất trong lịch sử của nó. Về sau không bao giờ Thăng Long được bình an lâu đến thế.

Trong số 9 vua chính thức, 2 vua không chính thức của nhà Lý, chỉ có mỗi một vua được đặt tên phố tại Hà Nội ngày nay là Lý Thái Tổ, con phố đẹp cách phía Đông hồ Gươm một chút.

Một số đại thần nhà Lý cũng được đặt tên phố: Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành, Tôn Đản, Lý Đạo Thành, có lẽ hơi quá ít cho một triều đại đặt nền móng rất vững chắc cho Thăng Long và Đại Việt.

Chitto
11-04-2010, 01:29
Cuộc chuyển giao từ Lý sang Trần hoàn toàn nằm dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, một bậc gian hùng hết lòng vì sự vững chắc của dòng họ, mà sẵn sàng nhẫn tâm tàn bạo với triều vua trước, và lạnh lùng cả những người cháu mà chính mình dựng lên làm hoàng đế, làm vương. Bên cạnh đó là bà chị họ của ông, về sau cũng là vợ của ông, Trần Thị Dung, bỏ mặc nhà chồng, bỏ mặc con gái để củng cố cho gia tộc họ Trần của mình. Cũng nhờ đó mà nhà Trần vững mạnh và oai hùng bậc nhất trong lịch sử.

Trần Thủ Độ được phong là Thái sư, Thượng phụ, Thống quốc, quyền trên cả vua. Tuy nhiên đến khi mất rồi mới được truy phong tước Vương (Trung Vũ đại vương).

Còn Trần Thị Dung là người phụ nữ trải qua nhiều tước vị nhất trong lịch sử. Từ con gái một gia đình dân thường, thành Vương phi của Thái tử, rồi Nguyên phi của Hoàng đế, bị giáng làm Ngự nữ, nâng lên Phu nhân, rồi lập làm Hoàng hậu. Chồng nhường ngôi rồi thì làm Thái thượng hoàng hậu, chồng bị ép chết thì thành Hoàng thái hậu triều Lý, nhưng chỉ là Công chúa triều Trần, ở bậc Hoàng cô nên còn gọi là Thái trưởng công chúa. Rồi không lâu sau lại lấy Trần Thủ Độ, thành phu nhân của Thái sư.

Với vua Trần Thái Tông, bà Trần Thị Dung vừa là cô ruột, vừa là mẹ vợ (mẹ của cả hai bà vợ), lại vừa là bà thím. Do đó gọi luôn là Quốc mẫu: Linh Từ Quốc mẫu.

Tại Thăng Long sau này không có đền thờ các vua Trần, nhưng lại có một nơi thờ Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung, là chùa Cầu Đông trên phố Hàng Đường. Tương truyền hai người đã cho trùng tu ngôi chùa này, nên chùa lập tượng để thờ. Đó cũng là một di tích rất đặc biệt, vì đây là nơi duy nhất lập tượng hai người được để cạnh nhau với tư cách hai vợ chồng.

Tượng vợ chồng Trần Thủ Độ - Trần Thị Dung tại chùa Cầu Đông


https://static.panoramio.com/photos/original/34217358.jpg

Chitto
11-04-2010, 23:53
Trần Cảnh làm vua Thái Tông ở Thăng Long, thì anh trai là Trần Liễu ở quê, lấy được công chúa nhà Lý là Thuận Thiên nên cũng yên lòng. Nhưng rồi cũng lên Thăng Long cùng em và cha.

Nhà Trần xuất thân dân dã, nên thời đầu lễ nghi khá tự do không câu nệ. Em trai làm hoàng đế, tôn cha làm Thượng hoàng rồi, thì cũng gọi ông anh trai là Hiển hoàng, nghĩa là cũng có tước hoàng đế nốt. Điều này cũng khiến Trần Liễu (mới ngoài 20 tuổi) có hi vọng ngôi về mình.

Thời Lý chưa đắp đê dọc sông Cái, chỉ đắp đê quanh Thăng Long. Năm ấy đê vỡ, nước tràn cả vào thành, Trần Liễu 25 tuổi bơi thuyền vào Hoàng cung, thấy cô cung nữ của vua Lý cũ vén áo lội nước, liền cưỡng bức luôn. Chuyện lộ ra, Trần Liễu mất cái tước "Hoàng", lại làm Vương, Trần Thủ Độ ghét đứa cháu phóng túng lắm.

Năm sau, thấy Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng mãi mà không có con (hai người mới 19 tuổi chứ mấy), trong khi cô chị Thuận Thiên 21 tuổi đã kịp sinh một con trai, lại đang có mang người thứ hai với Trần Liễu, nên Trần Thủ Độ lạnh lùng bắt Trần Cảnh bỏ Chiêu Hoàng, bắt Thuận Thiên đang là vợ anh sang làm vợ em, để có gì thì còn có người nối dõi. Trần Cảnh kinh sợ mưu mô trái đạo của ông chú gian hùng, bỏ trốn khỏi Thăng Long lên Yên Tử. Trần Liễu cũng đem quân làm loạn.

Thế là lần đầu tiên trong triều Trần, vua bỏ trốn khỏi Thăng Long.

Thủ Độ đón vua về xong, ép được vợ anh sang làm vợ em, muốn giết Trần Liễu nhưng Trần Cảnh ngăn được. Thế là Trần Liễu phải rời Thăng Long, về đất Yên Sinh làm Yên Sinh Vương, ở đó đến khi chết không về kinh. Thuận Thiên thì sinh được hai trai nữa với Trần Cảnh, khiến Thủ Độ khỏi lo.

Trần Thái Tông cũng là người sai dựng các ngôi Đình trên khắp đất nước để làm chỗ nghỉ chân cho vua quan khi kinh lý, đặt tượng Phật để thờ. Các ngôi đình làng ra đời từ đó.

Cũng sau vài lần vỡ đê nước ngập Thăng Long, nhà Trần mới cho đắp đê dọc sông Cái, tạo thành hệ thống đê cho đến nay.

Chitto
12-04-2010, 16:22
Thời Trần Thái Tông, Đại Việt có được khoảng 30 năm bình yên. Nhà Trần sau khi dẹp xong các thế lực, củng cố vương quyền, đắp đê ngăn lũ, tu sửa cung điện tại Thăng Long, lại lập cung điện tại quê và phủ Thiên Trường.

Bấy giờ tại phương Bắc, Mông Cổ hùng mạnh đã thôn tính hàng loạt nước, một cánh quân của Ngột Luơng Hợp Thai đánh thẳng xuống nước Đại Lý (Vân Nam), rồi định vòng từ phía Nam lên để làm hai gọng kìm tiêu diệt nhà Tống.

Năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai sai sứ giả sang Thăng Long yêu cầu hàng phục để lấy đường diệt Tống. Có lẽ lúc đó nhà Trần chưa nắm chắc được sức mạnh quân Mông Cổ, nên bắt giam 3 sứ giả, rồi cho quân lên chặn. Ngột Lương Hợp Thai tức giận xua 3 vạn quân xuôi sông Hồng, phá vỡ các phòng tuyến. Vua Trần đích thân cầm quân cũng không chống nổi, vội vàng bỏ cả Thăng Long chạy về mạn biển. Các vương hầu chạy theo vua, còn đám phụ nữ chậm chân, may có Linh Từ Quốc mẫu bình tĩnh, nên sơ tán được hết cả sang bên kia sông Hồng, bỏ chạy.

Thành Thăng Long lần đầu gặp đội quân tấn công mạnh, thất thủ gần như ngay lập tức. Ngột Luơng Hợp Thai vào thành, thấy ba sứ giả còn bị trói ở đó, một người chết, tức giận sai tàn sát tất cả dân trong thành chưa kịp chạy. Lần đầu Thăng Long rơi vào tay giặc từ phương Bắc.

Vua Thái Tông (40 tuổi), lo lắng hỏi Trần Thủ Độ. Vị Thái sư 64 tuổi khảng khái trả lời bằng một câu nổi tiếng: Đầu thần hãy còn, bệ hạ đừng lo !

Thế là, 10 ngày sau khi thất thủ, nhà Trần đem thuyền ngược sông Cái tiến đánh ở Đông Bộ Đầu, quân Nguyên cũng không có kế hoạch chiếm đóng lâu, nê lập tức rút lui. Chiến thắng Đông Bộ Đầu đã kết thúc cuộc chiến chống Nguyên lần 1, cuộc chiến chỉ trong vòng nửa tháng.


Đông Bộ Đầu là đây ! Ai có thể nghĩ rằng cái bãi sông Hồng mùa nước cạn, với bãi bồi giữa sông này 750 năm trước lại là nơi đi vào lịch sử! Trăm năm biến đổi, xoá hết dấu tích xưa rồi !


https://static.panoramio.com/photos/original/34278917.jpg

Chitto
12-04-2010, 23:56
27 năm sau trận chiến Đông Bộ Đầu, năm 1285 quân Nguyên quay lại lần 2, và năm 1288 quay lại lần 3. Giai đoạn lịch sử này nổi tiếng quá rồi, không dám viết lại nữa.

Tại Thăng Long, sự kiện lịch sử diễn ra cuối năm 1284 là Hội nghị Diên Hồng, khi Thượng hoàng Thánh Tông triệu tập các bô lão tại thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi hoà hay đánh, thì tất cả đồng thanh ĐÁNH. Đây là chiến lược lấy lòng dân đồng thời truyền chính kiến của triều đình rất hiệu quả.

Năm 1285, nhà Trần rút khỏi Thăng Long, nhưng khác trước, đã có sự chuẩn bị từ trước nên khi quân Thoát Hoan vào, Thăng Long trống rỗng không người, không lương, không kho tàng. Do đó Thoát Hoan không ở lại đây mà đóng bản doanh bên kia sông, chỉ để quân giữ thành. Bốn tháng sau, sau trận Chương Dương, Hàm Tử, Trần Quang Khải lấy lại Thăng Long, rồi rước hai vua về. Ông đã làm bài thơ nổi tiếng:


Tụng giá hoàn kinh sư (Theo vua về kinh đô)
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu.

Năm 1288, Thoát Hoan lần nữa chiếm được một Thăng Long rỗng không, rồi hai tháng sau phải rút chạy. Trước khi rút, quân giặc đốt cung điện, phố xá. Nhà Trần sau khi hoà bình phải xây dựng lại từ đầu.

Sau 3 lần thất thủ trước quân Nguyên Mông, Thăng Long được yên ổn hơn 80 năm, cho đến khi lại bị thất thủ trước quân Chiêm Thành 4 lần nữa.

Chitto
13-04-2010, 00:37
Ba lần chống Nguyên anh hùng là thế, các vương hầu, tướng lĩnh có công về sau được lập đền thờ ở rất nhiều nơi, tại Thăng Long cũng có nhiều, nhưng đến nay còn lại thì rất ít.

Quốc công Tiết chế, Thượng phụ, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn là người được người dân tôn thờ nhiều nhất, tôn là Đức Thánh Trần, được phối thờ ở nhiều ngôi đền, chùa. Cách gọi Họ + tước là Trần Hưng Đạo vốn là cách gọi dành riêng cho vua, trong lịch sử chỉ duy nhất Trần Quốc Tuấn không phải vua mà được dùng cách gọi này. (chỉ có vua mới dùng Họ + Miếu hiệu: Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông; người khác dùng Tước + tên: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải).

Xưa kia ở phía đông hồ Lục Thuỷ (tức là hồ Gươm) có đền Hựu Linh thờ Trần Hưng Đạo, nhưng sau Pháp phá đi, thì dân đã chuyển tượng thờ vào đền Ngọc Sơn.

Và đến nay, ngôi đền địa thế đẹp nhất Hà Nội có gian Thượng điện dành để thờ vị Võ Thánh của người Việt. Pho tượng thờ có khuôn mặt màu đỏ thể hiện tấm lòng son sắt với vua, với dân, với nước của ông. Tôi đã thăm một số nơi có tượng cổ thờ Trần Hưng Đạo, nhưng cảm thấy pho tượng trong đền Ngọc Sơn là đẹp nhất, có thần nhất, sống động, oai nghiêm mà lại cũng gần gũi.


https://static.panoramio.com/photos/original/34278922.jpg

Chitto
13-04-2010, 11:57
Tại Thăng Long còn tôn thờ thần Uy Linh Lang từ đời Trần (lưu ý, không phải Linh Lang đời Lý).

Truyền thuyết kể rằng Uy Linh Lang là con vua Trần Thánh Tông và bà Chính Cung Minh Đức hoàng hậu, có tên Trần Văn Lang. Ông chiêu tập được cả vạn binh mã, đặt tên là Thiên tử quân cùng chống giặc Nguyên. Sau khi dẹp yên giặc, ông không bệnh mà mất ở phủ tại khu vực Nhật Tân. Vua Trần thương tiếc sai dựng điện Nhật Chiêu để thờ, đến nay là đình Nhật Tân trên đường Âu Cơ.

Tuy nhiên trong sử thì vua Trần Thánh Tông không có bà vợ nào là Minh Đức cả, mà cũng không có con trai nào tên như thế, hoặc có hiệu như thế. Dân gian đã sáng tạo nên hình tượng vị thần có phần mang màu sắc Thuỷ thần, gán vào làm con vua, có công đánh giặc rồi thành thần.

Uy Linh Lang đời Trần như thế rất giống với Linh Lang đời Lý, cùng có truyền thuyết là con vua, cùng chống giặc, cùng gắn với sông hồ, cùng mơ hồ như nhau. Phải chăng cả hai là một, nhưng được thần thánh hoá vào hai triều đại khác nhau ?


Đình Nhật Tân, theo truyền thuyết thì nguyên là điện Nhật Chiêu, nơi thờ Uy Linh Lang


https://static.panoramio.com/photos/original/34278927.jpg

Chitto
13-04-2010, 13:31
Quanh hồ Tây còn vài nơi thờ Uy Linh Lang. Có ngôi đền trên phố Thuỵ Khuê thờ Uy Linh Lang, ngoài cửa cũng có hai con voi, nên cũng có tên là đền Voi Phục, khiến có người nhầm lẫn.

Một số báo chí cũng không phân biệt được vị thần ở đền Voi Phục Thuỵ Khuê là thần Linh Lang của Voi Phục Thủ Lệ, vì chỉ khác nhau chữ Uy mà thôi (hồi trước tôi cũng thế). Cũng vì vậy có bài báo nói những cây cổ thụ trong đền Voi Phục Thuỵ Khuê là có từ nghìn năm trước, như bài báo này (nhấn vào link để xem) (http://giadinh.net.vn/home/20091203090113366p0c1000/vuon-cay-nghin-nam-tuoi-giua-ha-noi.htm)


Đền Voi Phục Thuỵ Khuê, thờ Uy Linh Lang là vị nhân thần đời Trần.


https://static.panoramio.com/photos/original/34278937.jpg

Chitto
14-04-2010, 02:14
Dẹp xong giặc Nguyên, Trần Nhân Tông đi tu ở Yên Tử, truyền ngôi cho Trần Anh Tông, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, trờ thành dòng chính thống chủ đạo. Từ Yên Tử, Đông Triều, Hải Dương, Nam Định có hàng loạt ngôi chùa mới dựng theo thiền phái. Tuy nhiên tại Thăng Long thì sử dụng chùa Chân Giáo, chứ triều Trần không dựng thêm chùa mới.

Sau chiến tranh, dân cư lại tập trung đông đúc về Thăng Long, khu phố chợ bên ngoài hoàng thành chắc cũng đông vui lắm, nên vua Anh Tông đến buổi tối là trốn ra khỏi hoàng cung để đi chơi, có lần còn bị ném đá vỡ cả đầu.

Bấy giờ các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Ai Lao cũng giao thiệp thường xuyên, nên đã có khu Quán Sứ để đón tiếp sứ giả các nước. Quán Sứ đời Trần có nằm ở vị trí Quán Sứ đời Lê và chùa Quán Sứ hiện nay không thì không dám chắc.

Trong hai triều Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, đất nước yên ổn, Thăng Long lấy lại sự huy hoàng xưa, và có lẽ còn đẹp đẽ hơn trước.

Nhưng cũng chỉ được vài chục năm...


Hình con rồng đầu đời Trần, mạnh mẽ oai phong


https://static.panoramio.com/photos/original/34278941.jpg

Chitto
14-04-2010, 21:54
Hào quang anh hùng của cha ông qua đi, con cháu nhà Trần được sống trong nhung lụa dần quay sang thối nát, còn tệ hơn cuối triều Lý trước kia. Trần Minh Tông mất rồi, Dụ Tông bắt đầu tàn phá cơ nghiệp họ Trần từ năm 1358.

Chu Văn An, người Thanh Trì, Hà Nội hiện nay, là nhà nho danh tiếng bậc nhất bấy giờ, làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 kẻ gian thần, nhưng vua không nghe, nên về Chí Linh ở ẩn. Đời sau tôn ông là Văn Thánh của Đại Việt, coi là Thiên Nam sư biểu, cùng với Võ Thánh Trần Hưng Đạo, là hai bậc thánh nhân của triều Trần.

Ngày nay, tại nhà Thái Học mới làm lại phía sau Văn Miếu, chính điện thờ tượng của ông, là vị thầy tiêu biểu cho Chính học trời Nam, cũng là cho nền Học thuật nước nhà.


Tượng Chu Văn An trong nhà Thái Học


https://static.panoramio.com/photos/original/34355828.jpg

Chitto
14-04-2010, 22:12
Hết thời Dụ Tông u tối lại đến loạn Dương Nhật Lễ. Em trai vua lấy người con hát làm thiếp, khi đó người này đã có mang với một người họ Dương, sinh ra đứa con là Dương Nhật Lễ, ai cũng biết là không phải họ Trần. Thế mà bà Hoàng thái hậu lại nhất quyết lập đứa cháu nhận vơ để làm vua, để rồi bị chính Dương Nhật Lễ giết chết luôn ! Trần Nghệ Tông giành lại ngôi thì trong nước loạn rồi.

Nhân thấy nhà Trần loạn, năm 1371, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân ngược sông đánh vào Thăng Long. Vua Trần vội bỏ chạy. Quân Chiêm tha hồ cướp bóc của cải, bắt người, kho tàng cái gì cướp được thì cướp, không thì đốt sạch. Nhiều sách cổ, sổ sách của Đại Việt cũng ra tro.

Năm sau, vua Trần Duệ Tông đem quân đi rửa hận, mắc mưu Chế Bồng Nga, bị giết tại Đồ Bàn. Lần đầu tiên Đại Việt có một vị vua chết trận.

Thấy nhà Trần yếu lắm rồi, quân Chiêm liên tục tấn công, và đánh chiếm Thăng Long liên tiếp vào các năm 1377, 1378, 1388. Trong 17 năm mà Thăng Long thất thủ và bị cướp đến 4 lần, vua Trần chỉ lo mang của cải đi chôn dấu và bỏ chạy, làm hổ mặt là hậu duệ của Đức Thánh Trần.

Thế là sau 3 lần thất thủ trước quân Nguyên Mông hùng mạnh từ phía Bắc, 80 năm sau, Thăng Long lại 4 lần thất thủ trước quân Chiêm Thành từ phía Nam. Dường như là điềm báo cho thời kỳ đen tối nhất của Thăng Long sắp đến.


Cái con rồng đời Trần đầy vẻ thoả mãn này sắp giãy chết...


https://static.panoramio.com/photos/original/34278951.jpg

Chitto
15-04-2010, 22:18
Trần Nghệ Tông u tối, đem cơ nghiệp đặt cả vào tay người anh họ ngoại là Hồ Quý Ly, lại gả bà chị ruột nữa.

Hồ Quý Ly xây thành Tây Giai ở Thanh Hoá, gọi là Tây Đô, năm 1396, dời cả triều đình về đó. Thăng Long mang tên là Đông Đô, nhưng không còn là kinh đô nữa. Năm 1400, Quý Ly phế ông vua triều Trần cuối cùng (cũng là cháu ngoại mình), lên làm vua. Trong thời thuộc Minh, có hai vị tôn thất nổi dậy xưng đế, nhưng không giành được độc lập, cho nên coi như nhà Trần kết thúc năm 1400 này.

Nhà Trần kết thúc sau 175 năm với 12 đời vua, trong đó chỉ có 2 vua được đặt tên phố tại Hà Nội ngày nay, là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. (năm 2010 đặt thêm phố Trần Thái Tông)

Các danh nhân họ Trần dười triều Trần có tên phố: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư, Trần khát Chân.

Các danh nhân khác: Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi, Đặng Dung, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Trương Hán Siêu, Hàn Thuyên, Nguyễn Biểu.

Chitto
16-04-2010, 13:55
Có một truyền thuyết về Hồ Quý Ly, rằng khi còn hàn vi, có lần ông đọc được trên bờ sông dòng chữ ai đó viết trên bờ cát "Quảng Hàn cung lý nhất chi mai" (Cung Quảng Hàn có một cành mai), thấy hay nên nhớ trong lòng.

Đến khi làm quan nhà Trần, một lần theo vua Trần đi chơi điện Thanh Thử, vua thấy có nhiều gốc quế đẹp quá, ra câu đối: "Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế" (Điện Thanh Thử phía trước có nghìn cây quế), Hồ Quý Ly bỗng nhớ câu thuở xưa trên bờ cát, đối lại, thành ra một đôi câu đối rất hoàn chỉnh:

Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai

Điều đặc biệt là vua Trần có cô công chúa tên là Nhất Chi Mai rất được yêu chiều, sống tại một cung mà vua thường hay gọi là Quảng Hàn (cũng là tên cung của Hằng Nga trên cung Trăng). Vua hỏi sao nghĩ ra câu đó thì Hồ Quý Ly cứ thành thực mà trả lời. Vua cho rằng có duyên nên gả công chúa Nhất Chi Mai cho Hồ Quý Ly, từ đó ông ngày càng vinh hiển.

Câu truyện trên là một truyền thuyết đẹp, tuy nhiên điện Thanh Thử ở đâu, cung Quảng Hàn là cung nào, công chúa Nhất Chi Mai là ai thì trên thực tế không rõ ràng.

Sự thực lịch sử là Hồ Quý Ly có hai bà cô đều làm phi của vua Minh Tông, một bà sinh ra vua Nghệ Tông, một bà sinh ra vua Duệ Tông. Nghệ Tông có bà chị là công chúa Huy Ninh, goá chồng, nên vua làm mai cho Hồ Quý Ly luôn, thành ra Hồ Quý Ly vừa là anh đằng mẹ, vừa là anh rể. Rồi lại cưới con gái Hồ Quý Ly cho con trai vua, thành ra lại còn là thông gia. Lằng nhằng thế nên quyền về tay Quý Ly hết.

Vị vua cuối cùng triều Trần bị Hồ Quý Ly phế bỏ cũng chính là cháu gọi ông ta bằng ông ngoại.

Chitto
16-04-2010, 14:08
Họ Hồ dời đô vào thành Tây Đô, và giặc Minh sang xâm lược, năm 1407 Thăng Long thất thủ, Hồ Quý Ly bị bắt sang Tàu, đi đày làm lính, gia tộc họ Hồ và quan lại bị bắt về Minh. Đại Việt mất về tay giặc Minh.

Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên bị Tàu bắt, lại sợ chết không dám tự tử, chịu nhục nhã để sống đời lao dịch ở Tàu. Hai con của ông thì đi theo làm quan cho Tàu.

Hồ Nguyên Trừng nổi tiếng về chế tạo súng thần công nên nhà Minh trọng dụng. Người ta vẫn ca ngợi đó trí tuệ người Việt, riêng tôi thấy chả hay ho chút nào. Trí tuệ đó không giúp nước, giúp vua cha, mà sau lại đi giúp quân giặc, làm quan cho giặc. Bao nhiêu khẩu súng thần công nhà Minh chĩa bắn vào người dân Việt đều có phần của Nguyên Trừng đó !!!

Trong thời loạn, có hai tôn thất nhà Trần nổi lên làm vua, xưng đế là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Trần Ngỗi thì bị giêt trong chiến trận, còn Trần Quý Khoáng bị giặc bắt giải về Bắc, đã nhảy xuống biển tự tử, chứ không chịu nhục như Hồ Quý Ly để cầu sống. Các tướng lĩnh của ông cũng oanh liệt tử tiết chứ không chịu nhục để bị giải về Tàu. Con cháu nhà Trần như thế vẫn còn giữ được khí tiết oai hùng của cha ông.

Từ đây bắt đầu giai đoạn 20 năm đau thương khi giặc Minh đô hộ Đại Việt, trị sở đóng tại Thăng Long, nhưng bị đổi thành Đông Quan.


Con rồng triều Hồ, một con rồng đã mất đầu. Cái oai của nó chỉ còn nằm khoe với ruộng lúa mà thôi. Cái tội để cho đất nước rơi vào tay giặc, đều được quy cho Hồ Quý Ly, vì quá tham quyền vị mà để mất lòng dân, làm tan tác tinh thần đoàn kết của người Việt.


https://static.panoramio.com/photos/original/34403316.jpg

homeless man
16-04-2010, 14:22
Chắc bác chụp con rồng này lâu rồi chứ. Năm ngoái tôi đi, hai con rồng đá, đã bị chặt mất đầu rồi, giờ lại còn bị đóng cũi tre sơn trắng đỏ nữa bác ạ. Trông tang thương lắm:(



https://i1029.photobucket.com/albums/y354/nathinh1/TH%20NA%2007%2009/IMG_5003.jpg


https://i1029.photobucket.com/albums/y354/nathinh1/TH%20NA%2007%2009/IMG_5004.jpg

Chitto
17-04-2010, 13:37
20 năm Thăng Long dưới thời Vương Thông cai trị chịu nhiều tàn phá thâm độc nhất, đặc biệt về mặt văn hoá. Triều đình nhà Minh hạ lệnh: Ngoại trừ kinh Phật, Lão, Nho, tất cả các sách vở của An Nam cái gì mang được về Tàu thì mang hết, còn không thì phải huỷ cho bằng sạch, kể cả sách cho trẻ con.

Sự tàn phá không chỉ dừng lại ở cung điện, kho tàng như khi Chiêm Thành chiếm, mà còn ở tất cả các nơi. Tất cả sách vở, tư liệu của triều Lý, Trần đều bị cướp hoặc đốt sạch. Ngay cả các ngôi chùa, đền là nơi Chiêm Thành không dám phạm, thì triều Minh cũng không tha. Các tấm bia - những nguồn tài liệu vô giá - cũng bị đập sạch.

Sau đó, khi bị Lê Lợi vây hãm, Vương Thông còn phá huỷ tất cả các đồ đồng trong Thăng Long. Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên bị phá trong thời gian này. Trước đó thì các sách đồng, sau thì các chuông chùa, đồ tế khí... đều bị nấu chảy.

Có thể nói bên cạnh sự vơ vét của cải vật chất, sự tàn phá về văn hoá dưới thời Minh đô hộ là vô cùng thảm khốc. Chính vì thế cho đến nay, trong phạm vi Thăng Long, không còn bất kỳ một tấm bia, một quả chuông, một mảnh công trình kiến trúc lớn nguyên vẹn nào còn lại từ trước thời Lê. Trong khi tại các vùng khác thì vẫn còn rải rác nhiều di vật bằng đá và cả gỗ thời Lý Trần, thì chính tại Thăng Long lại sạch sành sanh.

Những mất mát này vô cùng đau xót, chúng ta ngày nay không thể biết được các bộ Luật, các chế định của đời Lý Trần, Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo, các bài sách thuốc xưa... ra sao. Các đền chùa ở Hà Nội ngày nay thì các tấm bia cũng từ đời Lê về sau, nên thường cũng khuyết phần lịch sử trước đó. Những lỗ hổng tư liệu đó không bao giờ bù đắp được.

Tội của các vị vua, không gì lớn bằng tạo điều kiện để quân ngoại bang vào cai trị đất nước.

TYYT
17-04-2010, 17:53
20 năm Thăng Long dưới thời Vương Thông cai trị chịu nhiều tàn phá thâm độc nhất, đặc biệt về mặt văn hoá. Triều đình nhà Minh hạ lệnh: Ngoại trừ kinh Phật, Lão, Nho, tất cả các sách vở của An Nam cái gì mang được về Tàu thì mang hết, còn không thì phải huỷ cho bằng sạch, kể cả sách cho trẻ con.

Sự tàn phá không chỉ dừng lại ở cung điện, kho tàng như khi Chiêm Thành chiếm, mà còn ở tất cả các nơi. Tất cả sách vở, tư liệu của triều Lý, Trần đều bị cướp hoặc đốt sạch. Ngay cả các ngôi chùa, đền là nơi Chiêm Thành không dám phạm, thì triều Minh cũng không tha. Các tấm bia - những nguồn tài liệu vô giá - cũng bị đập sạch.

Sau đó, khi bị Lê Lợi vây hãm, Vương Thông còn phá huỷ tất cả các đồ đồng trong Thăng Long. Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên bị phá trong thời gian này. Trước đó thì các sách đồng, sau thì các chuông chùa, đồ tế khí... đều bị nấu chảy.

Có thể nói bên cạnh sự vơ vét của cải vật chất, sự tàn phá về văn hoá dưới thời Minh đô hộ là vô cùng thảm khốc. Chính vì thế cho đến nay, trong phạm vi Thăng Long, không còn bất kỳ một tấm bia, một quả chuông, một mảnh công trình kiến trúc lớn nguyên vẹn nào còn lại từ trước thời Lê. Trong khi tại các vùng khác thì vẫn còn rải rác nhiều di vật bằng đá và cả gỗ thời Lý Trần, thì chính tại Thăng Long lại sạch sành sanh.

Những mất mát này vô cùng đau xót, chúng ta ngày nay không thể biết được các bộ Luật, các chế định của đời Lý Trần, Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo, các bài sách thuốc xưa... ra sao. Các đền chùa ở Hà Nội ngày nay thì các tấm bia cũng từ đời Lê về sau, nên thường cũng khuyết phần lịch sử trước đó. Những lỗ hổng tư liệu đó không bao giờ bù đắp được.

Tội của các vị vua, không gì lớn bằng tạo điều kiện để quân ngoại bang vào cai trị đất nước.

Thảo nào ngày trước bác bảo bọn tàu nó "cưỡng hiếp" văn hóa các dân tộc khác. thế mấy bộ binh thư yếu lược bán ngoài hàng là fake hả bác?

Chitto
18-04-2010, 01:35
Thảo nào ngày trước bác bảo bọn tàu nó "cưỡng hiếp" văn hóa các dân tộc khác. thế mấy bộ binh thư yếu lược bán ngoài hàng là fake hả bác?

Theo tôi biết thì mấy quyển Binh thư yếu lược bán ngoài hàng đó là gần đây bịa ra, lý do tại sao thì tôi không dám chắc.

Theo Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú liệt kê hàng chục bộ sách của Đại Việt thời Lý Trần, gồm các sách Hình luật, Điển chế, Thông lễ, Thực lục, Thi tập, Tuỳ bút, Đại điển... của các triều, các vua và các học giả Đại Việt, trong đó có sách của Trần Hưng Đạo đem về Kim Lăng (Nam Kinh).

Một số sách như Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, vì được khắc bản in ra nhiều và lưu trữ ở nhiều nơi, nên còn giữ được. Một số thi tập của Chu Văn An, vua Trần,..., còn lưu giữ là vì để ở nơi khác. Sách thiền của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cũng vậy. Nhưng cũng nhiều thi tập khác đã mất mãi mãi.

Ngược lại, Tàu đem tống sang Đại Việt rất nhiều sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách Tu thần luyện đan của Đạo giáo. Phải chăng vì thế mà sang đời Lê thì Đạo giáo lại hưng thịnh trở lại, và rồi Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng mang màu sắc Đạo giáo lại phát triển ?

Cái ý "cưỡng hiếp văn hoá" là của ông nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Chitto
18-04-2010, 01:48
Nhà Minh cai trị 20 năm, nhưng liên tục gặp khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa cuối cùng để giành lại giang sơn của Lê Lợi từ Lam Sơn năm 1418, sau gần mười năm gian khổ đã tiến ra vây thành Đông Quan.

Đại quân của Lê Lợi đóng ở bến Bồ Đề tại Gia Lâm, nay là khu vực chùa Bồ Đề, có lẽ vì thời đó có trồng nhiều cây này. Từ đây, Bình Định vương Lê Lợi lên lầu nhìn về cố đô trong tay giặc. Còn giặc thì chờ đợi tiếp viện.


Từ bến Bồ Đề nhìn qua sông Hồng về Hà Nội ngày nay. Gần 600 năm trước Lê Lợi cũng nhìn về Thăng Long như thế này chăng ?



https://static.panoramio.com/photos/original/34449853.jpg

Chitto
18-04-2010, 13:35
Năm 1428, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi sau khi vị vua giả tạm là Trần Cảo đã (bị bức) chết. Công của nhà Lê giành lại giang sơn người dân Việt không bao giờ quên, kể cả sau này khi con cháu họ Lê suy đồi thì người dân vẫn vì ơn trước mà luôn ủng hộ.

Truyền thuyết ý nghĩa nhất về Lê Lợi là huyền thoại trả gươm, mà mỗi người dân Việt đều biết. Dưới thời Lý Trần, khu vực Đông của Thăng Long không được chú trọng nhiều, và hồ nước ở đó gọi là hồ Lục Thuỷ, thông với sông Hồng. Hồ có tên đó do màu nước xanh đặc biệt. Vua Lê đi thuyền từ sông Hồng có thể vào hồ, từ đây lên chùa Báo Thiên. Tại đây Lê Lợi đã trả lại gươm thần Thuận Thiên cho rùa vàng, gửi lại Long Quân. Từ đó hồ có tên là Hoàn Kiếm.

Trong hầu hết tài liệu ghi nguồn gốc tên hồ đều viết: "Sau đó hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm", điều này không phù hợp, bởi cái tên hồ Tả Vọng mãi đến mấy trăm năm sau Lê Lợi mới có !

Cũng không rõ truyền thuyết trên xuất hiện ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi hay không, vì sử sách đời Lê vẫn ghi tên hồ là Lục Thuỷ, hoặc Thuỷ Quân, sau đời Chúa Trịnh lại có tên là Tả Vọng, chứ không ghi tên Hoàn Kiếm. Có vẻ như cái tên Hoàn Kiếm được trở thành phổ biến và chính thức từ cuối Lê đầu Nguyễn.

Ngày nay, bên phía Tây hồ Hoàn Kiếm, phố Lê Thái Tổ, có đền thờ Lê Lợi, và bức tượng đồng của vua đứng cầm gươm chĩa xuống hồ, đứng trên một cây cột đá. Tượng được dựng năm 1888, cây cột được làm theo kiểu phương Tây. Không nhiều người để ý đến di tích này.



https://static.panoramio.com/photos/original/34450622.jpg

Chitto
18-04-2010, 13:44
Hồ Hoàn Kiếm, nơi vẫn còn cụ rùa thiêng mà mấy năm nay ngoi lên mặt nước hơi bị nhiều.

Phải chăng chính Lê Lợi đã mang giống rùa (đúng ra là con giải, mai mềm) đến thả vào đây từ gần 600 năm trước? Hay giống giải đó bơi từ sông Hồng vào và tìm thấy nơi trú ngụ lâu dài tại đây? Bí mật đó chưa ai giải thích được.

Gò nhỏ giữa hồ gọi là gò Rùa, khi hồ còn thông với sông Hồng, nước lên thì gò chỉ còn lại rất bé, hàng trăm năm vẫn bỏ hoang. Có tài liệu nói vua Lê, chúa Trịnh dựng đài câu cá, lầu vọng cảnh ở đây, nhưng có lẽ nhầm với đảo Ngọc Sơn.

Chỉ đến cuối thế kỷ 19 ông bá hộ Kim mới dựng một cái lầu nửa Tây nửa Ta không có giá trị lịch sử gì. Thế nhưng cái lầu đó - được gọi là Tháp Rùa - lại trở nên một hình ảnh quen thuộc với người dân đến nỗi dù gần như không ai biết nguồn gốc ý nghĩa của nó, mọi người vẫn coi đó là một hình ảnh biểu tượng của Hà Nội, và giận sôi lên khi có lần người ta trát vữa lại làm mới nó.

Và đến giờ, chính sự thân quen của Tháp Rùa đã trở thành giá trị văn hoá tinh thần vô giá, không gì thay thế được, bất khả xâm phạm với Hà Nội.


https://static.panoramio.com/photos/original/22385416.jpg

Gia lang
19-04-2010, 11:45
Bạn Chitto cho mình hỏi một chút, thế rốt cục ở Hà Nội thì đền nào là đền chính ( đền của các đền) ý. Vì mình thấy các làng đều có chùa hoặc đền thờ quan trọng nhất.

Chitto
19-04-2010, 13:24
Bạn Chitto cho mình hỏi một chút, thế rốt cục ở Hà Nội thì đền nào là đền chính ( đền của các đền) ý. Vì mình thấy các làng đều có chùa hoặc đền thờ quan trọng nhất.

Ngay ở làng đôi khi cũng có nhiều nơi thờ: Chùa, đình, đền, văn chỉ. Kinh đô không giống như các làng, mà có tầm cỡ quốc gia, nên không đơn giản như ở làng được. Nếu như ở các nước có duy nhất một Quốc giáo, thì đền thờ lớn nhất của Quốc giáo đó là đền chính, ví dụ như Thái Lan, Lào theo Phật giáo thì đền chính là chùa Phật Ngọc, là That Luang; hay với nước theo Thiên Chúa giáo thì nhà thờ lớn là đền thờ chính. Nhưng người Việt lại theo nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng hoà trộn, cho nên không thể xác định nơi nào là chính nhất.

Tương đương với Đình ở làng thì ở Hà Nội là đền Bạch Mã, thờ vị Thành hoàng của Thăng Long, vị thần giữ cho vùng đất này.

Cấp cao nhất của các Văn chỉ thì là Văn Miếu: vị Thánh tối cao của Nho giáo.

Với Hoàng tộc, thì nơi thờ quan trọng nhất là Thái Miếu thờ tổ tiên: ở Hà Nội không còn.

Tầm cao nhất là đàn Nam Giao thờ Trời và đàn Xã Tắc thờ Đất đều không còn.

Với Đạo giáo thì không có đền nào thờ Thượng đế tối cao Tam Thanh, nên đền Trấn Vũ thành đền chính.

Với người theo Tín ngưỡng Mẫu thì đền chính là Phủ Tây Hồ.

Với người theo Thiên Chúa giáo thì đền chính là Nhà thờ Lớn.

Với Phật giáo thì chùa Báo Thiên là chính, nhưng đã không còn; về lịch sử lâu dài thì chùa Trấn Quốc là dài nhất. Còn về hành chính thì chùa Quán Sứ.

Như thế, không thể nói nơi nào là Chính nhất ở Hà Nội được.

Có nơi quan trọng nhất về mặt chính trị trong lịch sử, nhưng không phải là đền thờ, đó là điện Kính Thiên.

Chitto
19-04-2010, 14:07
Triều Lê tiếp quản một Đông Quan đổ nát, được gọi lại là Đông Đô, nhưng vẫn song song với tên Thăng Long.

Hàng chục ngôi chùa, đền, đạo quán triều Lý Trần được nhắc đến trong sử, từ đời Lê về sau không còn thấy tên nữa, có lẽ đã bị phá huỷ hết rồi. Những chùa như Chân Giáo, Đại Giáo, Hưng Thiên, Vạn Tuế, Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Thọ, Linh Quang, Sùng Nghi, Tư Thánh, Thiên Minh, Thiên Thành, các đạo quán Thái Thanh, Cảnh Linh, Linh Tiên, Ngũ Nhạc... đều mất dấu.

Ngọn tháp Báo Thiên bị phá đổ rồi, nhưng chùa vẫn còn, vẫn là chùa lớn nhất Thăng Long.

Hoàng cung cũng tan hoang. Vì vậy triều Lê phải dựng lại gần như toàn bộ. Tại nơi trung tâm, thiêng liêng nhất của Thăng Long, khi xưa là điện Càn Nguyên đời Lý, sau đổi là Thiên An, cũng bị phá huỷ. Lê Thái Tổ đã dựng lại điện chính của triều đình tại đây, đổi là điện Kính Thiên, là toà điện quan trọng nhất của Hoàng cung.


Chín bậc đá thềm điện Kính Thiên đời Lê, trải hơn năm trăm năm biến đổi...
(So với thềm điện Thái Hoà ở Huế sau này, bậc thềm này đẹp hơn rất nhiều. Thăng Long cũng không sử dụng những tên gọi rập khuôn bắt chước y sì Trung Quốc kiểu Ngọ môn, Ngũ Phụng, Thái Hoà như triều Nguyến dùng ở Huế)



https://static.panoramio.com/photos/original/34506675.jpg

Chitto
19-04-2010, 14:17
Con rồng đầu đời Lê đầy sức mạnh, hùng dũng oai hùng, thể hiện khí phách của một thuở Bình Ngô !

Phía sau đầu rồng vẫn là lớp bờm dài uốn sóng giống triều Lý, Trần, Hồ, chân cuộn cơ bắp, sừng dài uy lực. Những con rồng đẹp mạnh mẽ thế này về sau không còn nữa. Rồng đời sau mang đầy vẻ tròn trịa hiền hoà, và càng ngày càng giống rồng Trung Quốc. Đặc biệt rồng đời Nguyễn thì y hệt rồng Tàu, không còn mang được dáng vẻ nào riêng cả.

(Chòm râu dưới cằm rồng được chân trước nắm chặt, nay đã bị vỡ mất)


https://static.panoramio.com/photos/original/34449877.jpg

Gia lang
20-04-2010, 08:45
Cảm ơn bạn Chitto. Bạn thật am hiểu về lĩnh vực này.

Chitto
20-04-2010, 13:48
Hoàng thành thời Lê chia làm ba khu chính: Khu phía Đông làm Thái Miếu và Đông cung (cho Thái tử ở), ở giữa thì phía Nam là khu dành cho các toà trụ sở các Bộ, nơi tổ chức thi Đình, làm các lễ mang tính cộng đồng. Khu phía trong là Chính điện và nơi ở của Hoàng gia.

Giữa khu ngoài và khu trong là cửa lớn Đoan Môn, Đoan nghĩa là Chính giữa, chính thống. Cửa này xây đời Lê, bên dưới toàn bằng đá, trổ 5 cửa. Cửa giữa cho vua, hai bên cho quan và hoàng tộc, hai bên nữa cho lính, bên trên có lầu. Cửa hình chữ U, với hai cánh quay vào trong phía điện Kính Thiên.

Triều Nguyễn, gần 400 năm sau cũng làm Ngọ Môn theo kiến trúc tương tự, nhưng với kích thước lớn hơn, sử dụng chủ yếu là gạch, và hướng của hai cánh hai bên quay ra ngoài. Lúc đầu cửa ở Huế cũng gọi là Đoan Môn, sau đó mới đổi là Ngọ Môn cho nó ... giống Tàu. Cửa Đoan Môn ở Thăng Long chỉ là cửa nằm giữa, phân tách nửa ngoài Hoàng thành với Cấm thành, còn cửa Ngọ Môn ở Huế là cửa vào Hoàng thành.

Vì Đoan Môn nằm giữa Hoàng thành, nên từ trên có thể nhìn bao quát cả Hoàng thành, với các cơ quan ở phía Nam, Thái Miếu phía Đông, Cấm thành phía Bắc.


Góc chụp này quá hẹp do bên trái có cái nhà của quân đội choán mất. Nay cái nhà ấy đang được phá đi, hi vọng sửa sang xong, có thể thoải mái chụp trực diện.


https://static.panoramio.com/photos/original/34522648.jpg

home
20-04-2010, 21:53
@Anh chito: em tìm được cái này trên mạng anh ạ, hôm nào rảnh anh làm một bài về cái này được không ạ, em thấy cũng rất hay và tò mò.
https://www.doisongphapluat.com.vn/Uploaded/thudspl/CT1/P1090289.jpg
Địa đạo bí hiểm chưa từng biết đến dưới lòng Hà Nội

Địa đạo đình Quán La tuy chưa từng được công bố rộng rãi nhưng với những người dân địa phương thì địa đạo trên không còn xa lạ. Cửa địa đạo nằm ngay sát bên hông hậu cung của đình Quán La. Với một cửa chính và 3 ngách nhỏ, địa đạo chạy sâu dưới nền ngôi đình.
Một ngách khác của địa đạo

Nằm ngay dưới nền khu di tích đình Quán La (Xuân La - Tây Hồ), cửa của địa đạo được xem là có tuổi thọ lên tới cả ngàn năm này được rất ít người biết tới. Nhiều người phán đoán địa đạo đặc biệt này dài hàng chục km và được nối từ Xuân La tới tận nội thành Hà Nội. Xung quanh địa đạo này cũng có nhiều câu huyền tích ly kỳ được người dân truyền miệng.
https://www.doisongphapluat.com.vn/Uploaded/thudspl/CT1/P1090269.jpg
đọc thêm (http://thoibaoviet.com/tintuc.psks.40351.tbv)

Chitto
20-04-2010, 22:10
Trong các ngôi chùa ở Thăng Long, chùa Huy Văn chỉ là chùa nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất đặc biệt, là nơi ra đời của vị vua được coi là văn võ toàn tài bậc nhất Việt Nam.

Lê Thái Tổ mất rồi, con là Thái Tông nối ngôi, khi 16 tuổi đã có con trai đầu, năm sau có con thứ hai, và năm 19 tuổi thì bà phi Ngọc Dao có mang. Cùng lúc đó bà phi được sủng ái là Nguyễn Thị Anh cũng có mang, dèm với vua xin đem bà Ngọc Dao giết đi. May nhờ Nguyễn Trãi xin giúp mới đổi từ án tử sang bị giam ở chùa Huy Văn. Tại đây, bà Ngọc Dao đã sinh ra hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.

Thái Tông mất khi 20 tuổi tại Lệ Chi Viên, trở thành vụ thảm án oan khốc nhất lịch sử, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Vua Nhân Tông nối ngôi, rồi lại bị anh cả giết chết. Các đại thần lại giết luôn ông vua mới cướp ngôi, mà đưa Lê Tư Thành lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.

(Lê Thánh Tông giết nốt ông anh trai còn lại, thế là 3/4 con trai của Thái Tông đều bị giết; bản thân Thái Tông cũng đã từng giam anh ruột đến chết, mà chính Thái Tông cũng chết mờ ám, có thể do bị giết. Những vua đầu triều Lê tàn hại nhau như thế...).

Lê Thánh Tông lên ngôi rồi, nhớ đến nơi mình sinh ra là chùa Huy Văn, nên cho dựng điện Dục Khánh ở đó. Sau bà Ngọc Dao mất thì chuyển điện thành đền thờ bà.

Trong chùa ngày nay thờ cả Lê Thái Tông, hoàng hậu vợ Lê Thái Tổ (mẹ Thái Tông, bà nội Thánh Tông), Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ.

Ngày nay điện Dục Khánh chùa Huy Văn thờ vua Thánh Tông, bà Thái hậu Ngọc Dao, và bà hoàng hậu Trường Lạc. Pho tượng Lê Thánh Tông này cũng có lai lịch chìm nổi, nguyên là ở chùa Khán Sơn trên Khán Sơn, đến đời Tây Sơn thì chùa này bị phá nên mới đem về chùa Huy Văn để thờ. Tượng Thái hậu Quang Thục (tức bà Ngọc Dao) trước để ở chính giữa điện, đến lúc đó lại để sang bên cạnh.


https://static.panoramio.com/photos/original/34449884.jpg

Dawn
20-04-2010, 22:54
Điện Dục khánh ở đâu thế bác?

Chitto
20-04-2010, 23:16
Điện Dục khánh ở đâu thế bác?

Ngay trong khuôn viên chùa Huy Văn (như tôi viết ở trên). Chùa Huy Văn nằm trong một ngách nhỏ là ngách Chùa Huy Văn, trong ngõ Văn Chương. Cái cổng nhỏ xập xệ đến nỗi nếu không có lá cờ Phật giáo treo bên trên thì dù đã từng đi vào rồi, tôi vẫn không tìm lại ngay được. Đối diện có Văn chỉ của làng, hay gọi là đền Văn Chương, nhưng cũng bị nhà dân lấn hết rồi.

Bức ảnh dưới đây chụp từ ngách vào Văn chỉ sang bên ngách vào chùa Huy Văn; ở giữa là ngõ Văn Chương.


https://static.panoramio.com/photos/original/34555550.jpg

@home: Khi nào có thời gian đi lên phía đó tôi sẽ thử tìm hiểu xem. Có nhiều bài báo cho biết những điều rất hay, nhưng cũng có nhiều bài hay nói quá.

Chitto
22-04-2010, 00:12
Mặc dù nhà Lý đã tổ chức các khoa thi từ năm 1075, nhưng đến Lê Thánh Tông mới cho dựng các bia tiến sỹ, ghi danh những người đỗ đại khoa, đặt ở trong Văn Miếu để vinh danh.

Tấm bia đầu tiên được dựng năm 1484, cách đây hơn 500 năm, ghi danh các tiến sỹ đỗ năm 1442, trước đó hơn 40 năm. Truyền thống dựng bia tiến sỹ đó được tiếp tục cho đến cuối triều Lê, triều Nguyễn dời vào Huế. Chính xác có bao nhiêu tấm bia không rõ, chỉ biết đến nay còn lại 82 bia, là di sản văn hoá đặc biệt của quốc gia.

Công của Lê Thánh Tông với nền nho học rất lớn, do đó hiện nay tượng của ông được thờ cùng Lý Thái Tông (người lập Văn Miếu), Lý Thánh Tông (người lập Quốc Tử Giám) trong nhà Thái học.

Lê Thánh Tông rất thích văn thơ, lập hội Tao Đàn và tự mình làm Đàn chủ, để lại nhiều bài thơ. Bên cạnh đó, ông cũng tham gia chinh chiến đánh dẹp, mà chiến công lớn nhất là dẹp yên Chiêm Thành, tiến đến tận Bình Định. Hơn thế nữa, ông đã dùng chính sách "chia để trị", chia ba nước Chiêm Thành, lập ba vua để họ đánh lẫn nhau. Từ đó Chiêm Thành suy yếu, không bao giờ hồi phục được nữa, và cũng không bao giờ là mối đe doạ với Đại Việt như thời triều Trần nữa.

Lê Thánh Tông được tôn vinh là vị vua văn võ toàn tài, tài giỏi bậc nhất trong lịch sử Việt Nam.


https://static.panoramio.com/photos/original/34449892.jpg

Chitto
22-04-2010, 00:34
Thời Lê Thánh Tông còn để lại cho hậu thế một số tài liệu quý giá nữa, đó là luật Hồng Đức và Hồng Đức bản đồ, ghi lại các địa danh toàn quốc. Trong đó, bản đồ Thăng Long lần đầu tiên được vẽ lại cụ thể, với các địa danh lớn được xác định chi tiết.

Căn cứ vào bản đồ Hồng Đức, đối chiếu với các di tích còn lại, có thể xác định khá chính xác thành Thăng Long đời Lê.

Dưới đây là bản đồ (vẽ lại từ bản đồ Hồng Đức) và tôi đối chiếu các địa danh xưa với vị trí của chúng ngày nay trên bản đồ Google Earth.


https://static.panoramio.com/photos/original/34591404.jpg

https://static.panoramio.com/photos/original/34591410.jpg

Chitto
22-04-2010, 00:51
Bản đồ cổ cho thấy sông Tô Lịch chảy vòng phía Bắc, ngay sát hồ Tây, đổ vào sông Hồng ở quãng phố Chợ Gạo, gần chợ Đồng Xuân ngày nay. Thành Thăng Long dựa vào sông mà đắp sang phía Tây.

Ba ngôi đền Bạch Mã, Trấn Vũ, Linh Lang vẫn còn đó, nhưng bản đồ cổ không có đền Kim Liên, chứng tỏ thời đó chưa có hoặc không quan trọng, tức là cũng chưa có cái gọi là "Tứ Trấn" như về sau tôn vinh.

Trong vòng Kinh Thành (Long Thành, vẽ hình tường gạch) gồm Hoàng thành, và phía Tây là một hồ nước lớn, nay còn dấu tích là hồ Thủ Lệ, là nơi luyện tập quân thuỷ. Địa danh Khán Sơn ở phía Bắc khu Núi Bò (phố Núi Trúc) ngày nay. Khu Giảng Võ để luyện tập quân đội, có hồ nước nữa, dấu tích còn lại là hồ Giảng Võ. Gần đó là nơi tổ chức thi của triều đình.

Cửa Đông Hoàng thành và Kinh Thành trùng nhau, nằm ra đến tận phố Hàng Gà, Hàng Cót bây giờ. Cửa Nam ra đến ngã tư Cửa Nam bây giờ, là đầu của con đường Thiên lý đi vào Nam.

Vòng Kinh Thành này là phủ Phụng Thiên. Bên ngoài, trong vòng La Thành chạy vòng phía Nam, có hai huyện Quảng Đức và Thọ Xương. La Thành đắp bằng đất, được vẽ bởi hai nét cách nhau.

Phía Nam của thành có một vùng hồ nước mênh mông, gọi là Đại Hồ, bao quanh cả Quốc Tử Giám và đài Khâm Thiên Giám. Dấu tích còn lại là các hồ Bảy Mẫu, Ba Mẫu, Thiền Quang, Linh Quang, Xã Đàn.

Ở phía Nam là đàn Nam Giao, thuộc huyện Thọ Xương. Hồ Hoàn Kiếm còn thông với sông Hồng, bên cạnh là chùa Báo Thiên. Gần đó là Trị sở của Phủ Doãn phủ Phụng Thiên (tức là quan trông coi Kinh đô, như ông thị trưởng ngày nay), nay vẫn còn lại với tên phố Phủ Doãn.

Bên ngoài La Thành, phía Tây cũng có một vùng hồ nước nữa, mà dấu tích còn lại là hồ Đống Đa, Thành Công (hồ Thành Công là hồ đào thêm cho sâu sau này)

Đối chiếu bản đồ xưa với địa thế nay, tìm lại dấu tích của năm trăm - một nghìn năm trước, thật rất thú vị.

Chitto
23-04-2010, 00:01
Lê Thánh Tông không chỉ là vị vua văn võ toàn tài, mà còn là bậc quân tử đa tình, đã được gặp tiên.

Truyện rằng ở phía Nam hoàng thành, gần Quốc Tử Giám có chùa Ngọc Hồ là ngôi chùa đẹp, Lê Thánh Tông ngự thăm chùa. Tại đây vua gặp một người đẹp ngâm thơ, cùng đối thơ xướng hoạ, rất lấy làm hợp ý. Vua muốn đón nàng về cung, nhưng khi kiệu đi đến Cửa Nam thì cô gái biến mất. Lúc bấy giờ mới biết là gặp tiên nữ, vùa bèn cho xây một cái lầu ngoài Cửa Nam, gọi là lầu Vọng Tiên để trông ngóng.

Lầu Vọng Tiên đã bị phá lâu rồi, nhưng chùa Ngọc Hồ ngày nay vẫn còn đó, trên phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến). Khuôn viên đã bị thu hẹp rất nhiều, cảnh trí khác xưa nhiều lắm, nhưng vẫn còn đó câu truyện vua gặp tiên, rồi sau đó là truyện Tú Uyên gặp tiên...


https://static.panoramio.com/photos/original/34555546.jpg

Chitto
25-04-2010, 13:48
Lê Thánh Tông không phải là người duy nhất gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ, mà còn có chàng thư sinh Tú Uyên.

Truyện "Bích Câu kỳ ngộ" kể rằng chàng tú tài tên là Trần Uyên, nên thường gọi là Tú Uyên, văn thơ tao nhã, một lần ra chơi chùa Ngọc Hồ, ngồi nghỉ dưới gốc cây bỗng có chiếc lá đề thơ bay ngang mặt, vội nhặt lên xem, đồng thời nhìn ra thấy có người con gái rất đẹp. Tú Uyên làm quen, nói chuyện văn thơ với cô gái, đi đến tận lầu Quảng Văn thì cô gái biến mất. Tú Uyên về nhà sinh ốm tương tư.

Chàng đến đền Bạch Mã cầu xin, đêm nằm thấy thần bảo sáng ra chợ Cầu Đông mà tìm. Hôm sau ra chợ Cầu Đông, gặp ông già bán tranh, bức tranh Tố nữ vẽ y hệt người đẹp đã gặp, bèn mua về treo trong nhà, ngày ngày trò chuyện, mời cơm. Thế rồi mấy hôm sau về thấy cơm canh đã sẵn, chàng rình thì thấy cô gái từ trong tranh bước ra. Tú Uyên giữ lại, xé tranh đi, hỏi tên thì là tiên Giáng Kiều, hai người nên vợ chồng.

Nhưng có vợ rồi Tú Uyên đâm ra bê tha, chỉ thích rượu chè đàn hát. Giáng Kiều khóc rồi bay về trời. Tú Uyên hối hận đau khổ, định tự tử nên Giáng Kiều quay lại, rồi dạy chồng cách tu tiên. Về sau hai người cưỡi hạc bay về trời.

Nền nhà cũ của Tú Uyên khi xưa, ngày nay thành Bích Câu Đạo quán, là một trong hai ngôi Đạo quán của Thăng Long xưa còn giữ nguyên được, không bị đổi thành chùa.

Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh, xung quanh đã bị lấn chiếm làm nơi buôn bán.



https://static.panoramio.com/photos/original/34711856.jpg

Chitto
26-04-2010, 17:24
Triều Lê trọng Nho mà nhạt Phật. Nhưng Nho giáo thì không có cầu cúng, lễ lạt, kinh sách thì chỉ giới học chữ Hán mới đọc được và hiểu được, còn dân chúng đa số không biết đọc. Cho nên Phật giáo vẫn sống mạnh mẽ trong các làng xã. Tại kinh thành Thăng Long, Phật giáo không được coi trọng như trước, nhưng tại các làng quê, trước kia chỉ có chùa lớn của vua, quan dựng, nay thì các làng cũng dựng chùa cả.

Rồi Đạo giáo cũng phát triển, tại Thăng Long dựng lên các đạo quán mới như Đồng Thiên, Huyền Thiên, thờ cúng kiểu tu tiên luyện thuốc. Câu truyện Lê Thánh Tông, Tú Uyên gặp tiên cũng thể hiện sự khôi phục và hưng thịnh của tư tưởng tu luyện thành tiên.

Bên cạnh đó, xuất hiện tín ngưỡng thờ Liễu Hạnh, xuất phát từ Nam Định, dần phát triển khắp nơi. Tín ngưỡng này về sau sử dụng nhánh Saman của Đạo giáo, lên đồng, cầu đảo. Đạo giáo truyền thống thì đã tàn lụi hoàn toàn ở Việt Nam, nhưng Tín ngưỡng Mẫu và lên đồng thì đến nay ngày càng phát triển.

Chitto
26-04-2010, 17:41
Sau thời Lê Thánh Tông rực rỡ, nhà Lê suy đồi nhanh chóng. Lê Uy Mục lên ngôi liền giết ngay bà nội (là vợ Lê Thánh Tông), làm nhiều điều bạo ngược, đến nỗi bị gọi là Vua quỷ.

Lê Oanh đem quân về giết Uy Mục, tự lên làm vua tức là Lê Tương Dực, bị gọi là Vua Lợn, tham tàn chả kém vua trước. Trong sử ghi rằng Tương Dực cho làm lại thành Thăng Long, đắp thành chắn cả sông Tô Lịch, dựng tòa Cửu trùng đài hùng vĩ, sai Vũ Như Tô làm điện trăm nóc, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, dân tình kêu than.

Do đó khắp nơi lại nổi loạn, quan ngay trong triều giết Tương Dực (khi đó mới 24 tuổi), Thăng Long đại loạn, cướp phá khắp nơi. Của cải triều Lê tích trữ trong trăm năm bị cướp sạch. Chỉ vài năm sau, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, dựng lên nhà Mạc.

Tương truyền Lê Tương Dực khi khởi quân đánh Uy Mục, nằm mộng thấy thần Cao Sơn hứa phù trợ, nên sau khi lên ngôi cho dựng ngôi đền thờ ở phía Nam thành Thăng Long, tức là đền Kim Liên ngày nay (dựng mới hay trên nền ngôi miếu nhỏ cũ của làng thì cũng chưa rõ). Đến lúc này ngôi đền "trấn Nam" của Thăng Long mới được xuất hiện trong sử sách.

Tuy nhiên trong các bản đồ Thăng Long thời Trịnh sau cũng không thấy vẽ đền này, chứng tỏ cũng không phải là quan trọng. Cho nên cái thuyết "Tứ Trấn Thăng Long" có lẽ còn xuất hiện muộn nữa, có khi phải từ cuối Lê đầu Nguyễn mới có.

Đền Trấn Nam - Kim Liên, mới có từ đời Lê Tương Dực (1510)


https://static.panoramio.com/photos/original/34449913.jpg

Chitto
06-05-2010, 22:56
Đúng một trăm năm sau khi Lê Thái Tổ giành lại Thăng Long từ tay giặc Minh, thì con cháu của ngài lại để mất Thăng Long vào tay nhà Mạc.

Mạc Đăng Dung là cháu bảy đời của Mạc Đĩnh Chi, danh thần triều Trần, đã phế vua để lên ngôi. Một số đại thần chạy vào Thanh Hoá lập lên triều Lê Trung Hưng, chia ra Nam Bắc triều đánh nhau liên tục.

Triều Mạc giữ được Thăng Long trong hơn 60 năm, rồi chạy lên Cao Bằng. Điều đặc biệt là dù trong thời gian đó đánh nhau liên miên, nhưng triều Mạc vẫn tu sửa được Thăng Long rất nhiều, tổ chức đều đặn các khoa thi, làm đầy thêm kho bia Tiến sỹ tại Văn Miếu. Những dấu tích thành Đại La còn lại rõ ràng đến nay đều do sự bồi đắp lớn triều Mạc. Thậm chí có giai đoạn nhà Mạc cai trị tốt đến nỗi sử phải ghi là "người đi đường không nhặt đồ rơi, tối đi ngủ không phải đóng cửa".

Trong các công trình cung điện đền đài, nhà Mạc không để lại gì nhiều, có vài ngôi chùa, nhưng chủ yếu ở quê Dương Kinh chứ không phải Thăng Long.

Chitto
07-05-2010, 23:32
Sau hơn 60 năm, triều đình vua Lê - do chúa Trịnh nắm quyền - trở lại Thăng Long (1592).

Có một truyền thuyết lạ về một con ngõ ở Thăng Long, là ngõ Cấm Chỉ.

Truyện rằng khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, giam lỏng vua Lê Chiêu Tông bên ngoài cung, thì có một người con gái hay qua lại, rồi mang thai, Lê Chiêu Tông giao cho chiếc ấn để làm tin. Sau đó Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung giết, người con gái sinh được hoàng tử, nhưng dấu kín tung tích.

Người con trai của Chiêu Tông khi bé gọi tên là Chổm, sống giữa dân chúng ở chợ Đông, suốt ngày ăn nợ các hàng, nhưng hễ ăn hàng nào thì hàng đó hôm ấy đắt khách, nên ai cũng cho nợ, nợ khắp cả chợ cả phố.

Sau Nguyễn Kim tìm hậu duệ nhà Lê, gặp được Chổm, tôn lên làm vua Lê Trang Tông, nên gọi là Chúa Chổm. Khi trở về Thăng Long, kiệu vua đi vào thành thì bao nhiêu con nợ từ trước a lô xô ra đòi, không biết bao nhiêu cho đủ! Vua phải quăng túi tiền ra, rồi tại đó ra lệnh Cấm Chỉ không được đòi nữa.

Từ đấy nơi cấm dân đòi nợ vua gọi là ngõ Cấm Chỉ, ở ngoài Cửa Nam, nay vẫn còn tên đó.

Lại có bài vè rằng:

Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm uống rượu tì tì (vay nợ tì tì)
Chết xuống âm phủ khác gì vua Ngô !!!


Truyện này là truyền thuyết thôi, vì Lê Trang Tông chết ở Thanh Hoá, chưa về khôi phục Thăng Long được. Cái tên Cấm Chỉ có thể là do đây là cửa Đông Nam của hoàng thành, khi vua đi ra đều theo đường này, nên cấm chỉ dân chúng tụ tập buôn bán ở đây.

Chitto
09-05-2010, 23:56
Sau thời nhà Mạc, Thăng Long bước vào triều Lê Trung Hưng với vua Lê chúa Trịnh cùng song song. Những con rồng thời Lê Trung Hưng cũng không còn oai hùng mạnh mẽ dữ tợn như thời Lê Sơ nữa.

Chỉ nhìn con rồng đá thôi, đôi khi cũng có thể cảm nhận được cả về triều đại đã tạo ra nó.

Con rồng phía sau điện Kính Thiên


https://static.panoramio.com/photos/original/35312936.jpg

Con rồng trong Văn Miếu


https://static.panoramio.com/photos/original/35312921.jpg

Chitto
10-05-2010, 00:03
Lúc này tại Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành, một công trình to lớn nữa được dựng lên, là Phủ chúa Trịnh. Hoàng thành vốn rộng lớn nhưng không được tu sửa, vì vua chỉ ngồi làm bù nhìn, làm gì có quyền, có tiền mà sửa sang xây cất. Trong khi đó Phủ chúa thì ngày càng được xây dựng to đẹp, xa hoa đẹp đẽ.

Phủ chúa Trịnh nằm sát phía dưới hồ Gươm, từ cửa phủ nhìn ra hồ Gươm nằm ở bên trái, nên được gọi là hồ Tả Vọng. Quanh hồ, chúa Trịnh cho dựng nhiều công trình để vui chơi, duyệt binh, ngắm cảnh.

Sau này khi họ Trịnh sụp, Lê Chiêu Thống đã đốt sạch Phủ chúa, cháy trong 3 ngày mới tắt, cả khu đất trở thành hoang phế, điêu tàn, rồi người Pháp mới dựng các khu phố Pháp ở đây. Phủ chúa có lẽ nằm ở khu các đường Tràng Thi đến Nguyễn Du ngày nay.

Phủ chúa Trịnh trong bản đồ cổ


https://static.panoramio.com/photos/original/35312958.jpg

Chitto
10-05-2010, 10:34
Diện mạo ngày nay ta còn biết về Thăng Long chủ yếu là từ đời Lê. Hầu hết các con phố cổ ngày nay còn tên được đặt từ thời này.

Thời Lý, Trần, khu mua bán sầm uất của Thăng Long nằm ở phía Tây, bên dưới hồ Tây, tức là ở khu Thụy Khuê, Hoàng Hoa Thám ngày nay, dân cư cũng tập trung ở đó. Phía Đông của Thăng Long còn rất thưa thớt.

Nhưng sau thời Minh đô hộ, khu thị dân đó điêu tàn. Đến khi triều Lê giành lại giang sơn, thì hàng chục làng nghề khắp đất nước tụ hội về phía Đông của hoàng thành, tạo nên khu phố cổ, với hàng chục phố mang chữ "Hàng" rất nổi tiếng, đa số còn giữ được đến nay. Các phố mang chữ Hàng còn trải rộng ra khắp khu vực Thăng Long, chứ không chỉ tập trung ở khu phố cổ quận Hoàn Kiếm.

Một số phố Hàng ở phía Nam, nay đã bị đổi tên:

- Phố Hàng Cỏ (nay là Lê Duẩn): nơi cung cấp cỏ cho voi ngựa
- Phố Hàng Lọng (khúc trên Lê Duẩn):
- Phố Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng)
- Phố Hàng Cơm (nay là Quốc Tử Giám): nơi có nhiều hàng cơm bán cho sĩ tử học tại Quốc Tử Giám
- Phố Hàng Cháo (nay là ngõ Hàng Cháo): cháo nấu từ bột. Bột, Cơm, Cháo đứng gần nhau một cụm
- Phố Hàng Đẫy (nay là đoạn Nguyễn Thái Học gần Trịnh Hoài Đức)
...
Một số đường phố đời Lê vẫn còn giữ được tên đến nay như phố Thợ Nhuộm nơi có nhiều thợ nhuộm vải, phố Khâm Thiên nơi đặt Khâm Thiên giám.

Chitto
10-05-2010, 10:48
Chùa Khai Quốc xưa dựng từ thời Lý Nam Đế ngoài bãi sông Hồng, đến đời Lê Thái Tông đổi tên là chùa An Quốc. Năm 1615, bãi sông lở, nên dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng giữa hồ Tây, đổi tên là chùa Trấn Quốc.

Hòn đảo này xưa kia các vua Lý, Trần đều dựng cung điện để nghỉ ngơi vui chơi, nằm chơi vơi giữa mặt nước mênh mông, bình minh hoàng hôn đều tuyệt đẹp. Nay dời chùa vào đảo, mặt chính chùa quay sang phía Tây, hướng về đất Phật, khi ra chùa phải đi bằng thuyền, cập bến rồi đi lên lễ Phật.

Khoảng năm 1620, để giữ cá ở góc Đông của hồ Tây, dân quanh vùng đắp một con trạch bằng đất ngăn góc hồ lại. Chúa Trịnh thấy thế liền cho đắp con trạch nhỏ đó thành con đê có thể đi ngựa xe được để đi chơi, thành ra con đường Cố Ngự (Cố = con đê, ngự = ngăn ra, chia ra). Con đê này đi gần qua đảo có chùa Trấn Quốc, nên đắp luôn con đường nhỏ nối ra, để không phải đi thuyền. Có điều con đường lại từ phía sau chùa, cho nên làm vòng ra phía trước, xây tường bịt phía sau.

Về sau, đường Cố Ngự bị đọc chệch thành Cổ Ngư, và là đường Thanh Niên ngày nay. Đường vào chùa Trấn Quốc trước kia vòng ra mặt trước, nay cũng bị sửa thành ra chui vào phía sau, mất đi nguyên bản.

Chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng, tu sửa đời Lê


https://static.panoramio.com/photos/original/35331399.jpg


Con đê Cố Ngự phía bên phải, hòn đảo bên trái là phường Ngũ Xã, ảnh từ trăm năm trước


https://static.panoramio.com/photos/original/35312968.jpg

Chitto
10-05-2010, 11:00
Những dấu tích vui chơi của chúa Trịnh vẫn còn lại đến nay qua các địa danh.

Con đường ở phía Tây thành Thăng Long, xưa gọi là Tây Giai (Tây Nhai), lúc này chúa Trịnh cho trồng toàn liễu, nên gọi là Liễu Giai.

Ở phía Đông, một con đường khác được trồng toàn cây hòe, nên gọi là Hòe Giai (Hòe Nhai).

Sát bờ hồ Tây, chúa cho trồng toàn bàng, để khi mùa đông sang, lá bàng đỏ rực trong ánh hoàng hôn, mùa xuân xanh non trong nắng sớm, là cảnh đẹp tuyệt vời.

Trong khu vườn thượng uyển cũ phía Tây, đắp lại gò đất, trồng nhiều cây Sưa để mùa xuân ra hoa trắng, nên gọi là Sưa sơn.

Nay các rặng liễu, hòe, bàng đều không còn, nhưng tên Liễu Giai, Hòe Nhai vẫn còn đó. Núi Sưa nay nằm trong Bách Thảo. Các gốc sưa từ thời đó cũng đã mất, nhưng vẫn có vài cây trồng sau này. Ngọn núi Sưa đó về sau lại bị gọi nhầm là núi Nùng.

Chitto
10-05-2010, 22:49
Dưới triều Lê, một hệ thống tín ngưỡng mới phát triển, là tín ngưỡng thờ Mẫu. Dù truyền thống tôn thờ các vị nữ thần đã có từ rất xa xưa, với việc thờ các nữ thần mưa Tứ Pháp, các nữ thần núi non như Quốc mẫu Tây Thiên, Hậu thổ phu nhân, Tổ mẫu Âu Cơ,... tuy nhiên đến đầu thời Lê mới chính thức thành điện thờ Mẫu.

Bắt đầu từ Nam Định, với huyền thoại Mẫu Liễu Hạnh, tín ngưỡng thờ Mẫu nhanh chóng lan rộng khắp đất nước, hệ thống hoá thành Tam toà Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Minh Không trong Tứ Bất tử, và có nhiều huyền thoại ở khắp nơi.

Tại Thăng Long, phố Hàng Trống trở thành nơi tạo tác một dòng tranh thờ tín ngưỡng Mẫu. Tranh thờ Hàng Trống khác với tranh dân gian Đông Hồ, vì chuyên về các nhân vật thần thánh trong Đạo giáo và thờ Mẫu, màu sắc cũng sặc sỡ hơn, nhiều chi tiết cầu kì hơn.



https://static.panoramio.com/photos/original/35312978.jpg

Một bức tranh thờ Hàng Trống, theo trật tự từ trên xuống:
- Trên cùng là Phật bà Quan Âm, với Kim đồng, Ngọc nữ hầu hai bên
- Tứ Đế của Đạo giáo, bốn vị Đế ở bốn phương
- Tam toà Thánh Mẫu: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải
- Năm vị Quan lớn
- Bốn vị Chầu Bà
- Mười hai chầu

Chitto
10-05-2010, 23:19
Khi nhà Lê Trung Hưng cùng họ Trịnh giành lại được Thăng Long từ nhà Mạc, triều Lê phái trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan sang sứ Trung Quốc.

Giai thoại kể rằng khi trở về từ Trung Quốc, vào khoảng những năm 1598, Phùng Khắc Khoan đã gặp tiên tại Lạng Sơn, mà vị tiên đó chính là Thánh mẫu Liễu Hạnh. Ông bèn cho xây ngôi đền thờ Mẫu tại Lạng Sơn, nay chính là chùa Tiên.

Sau đó, khi về Thăng Long rồi, trong một chuyến du hành chơi vòng quanh hồ Tây, tại một quán nước bên bờ hồ, ông đã gặp lại Tiên chúa Liễu Hạnh, dưới hình dáng người con gái bán nước xinh đẹp. Hai bên làm thơ xướng hoạ rất tương đắc. Mấy hôm sau trạng Bùng quay lại thì không còn gặp ai nữa, nên lập một am nhỏ để tưởng nhớ.

Nơi trạng Bùng gặp Mẫu Liễu Hạnh, được dựng lên thành một ngôi đền thờ lớn, gọi là Phủ Tây Hồ, là nơi thờ Mẫu sớm nhất ở Thăng Long. Ngày nay đây là nơi thờ Mẫu lớn nhất của Hà Nội, cũng là nơi linh thiêng bậc nhất.


https://static.panoramio.com/photos/original/35312990.jpg

wild_cat
11-05-2010, 00:23
Bác Chitto ơi, bác cho em hỏi chút, theo như trong ảnh của bác, thì Hồ Trúc Bạch hình thành là do đê Cố Ngự ngăn Hồ Tây mà ra phải không ạ?

Chitto
11-05-2010, 21:55
theo như trong ảnh của bác, thì Hồ Trúc Bạch hình thành là do đê Cố Ngự ngăn Hồ Tây mà ra phải không ạ?

Đúng thế, ngay cả sau khi đắp đê Cố Ngự rồi, thì phần này vẫn chưa mang tên hồ riêng, vẫn chỉ là một góc hồ Tây.

Sau đó khoảng trăm năm, chúa Trịnh Giang cho dựng một nơi vui chơi ở cạnh hồ (chính xác chỗ nào thì không biết), trồng nhiều trúc, gọi là Trúc Lâm. Sau lại bắt các cung nữ phạm lỗi ra ở nơi đó. Các cung nữ này phải tự dệt lụa để sống, loại lụa họ dệt vì thế gọi là Trúc Bạch (Bạch nghĩa là Lụa, chứ không phải màu trắng). Dần dà người ta quen gọi tên hồ theo tên loại lụa đó, mới có tên hồ Trúc Bạch.

Dân năm làng đúc đồng ở Bắc Ninh dời vào bán đảo của hồ, hình thành nên làng đúc đồng Ngũ Xã, đúc nhiều sản phẩm đồng rất đẹp và tốt, mà nổi tiếng nhất là tượng đồng Trấn Vũ.

Chitto
11-05-2010, 22:04
Ngôi đạo quán của Đạo giáo ở phía Bắc của Hoàng thành có từ đời Lý, nhưng đến thời Lê mới được trùng tu lớn. Khi có đạo sĩ sinh sống thì là Đạo quán, khi không còn đạo sĩ thì có thể coi như ngôi đền.

Đền - Đạo quán thờ vị Huyền Thiên Chân Vũ đại đế của Đạo giáo Trung Quốc. Nhưng sang đến Việt Nam, thì vị thánh này được đặt thêm tên mới là Trấn Vũ, có thể là do gọi tắt của Trấn Thiên Chân Vũ. Trong các vị thánh thần Đạo giáo, vị này là có nhiều danh hiệu nhất, cai quản nhiều mặt nhất, điện thờ chính ở núi Vũ Đang. Thậm chí triều Minh bên Tàu còn tôn Chân Vũ làm vị thần bảo hộ cho cả Triều đại, quốc gia, vì thế đúc tượng đồng thờ ở rất nhiều nơi.

Tại Thăng Long, trong các triều Lý, Trần tôn sùng Phật giáo, đạo quán này không được để ý. Có lẽ khi Vương Thông chiếm giữ Thăng Long cũng đã đến đây cầu khấn nhiều lần, vì đây là vị thần bảo hộ nhà Minh, người Minh.

Đến thời Lê Trung Hưng, năm 1635, với sự bảo trợ của chúa Trịnh, dân Ngũ Xã đã khởi công đúc pho tượng Trấn Vũ bằng đồng, hun đen. Đây là pho tượng đồng lớn nhất thời Phong kiến còn lại, là báu vật của Thăng Long, của quốc gia. Tiếc thay lại là tượng vị thần của phương Bắc chứ không phải thần của người Việt !!


https://static.panoramio.com/photos/original/35313000.jpg

Tượng Trấn Vũ mặc áo giáp của tướng võ bên trong, đạo bào của đạo sĩ bên ngoài, chân đất đầu trần. Tay trái bắt quyết kiểu phù chú của Đạo gia, tay phải chống lên thanh kiếm có con rắn quấn, đầu kiếm chống lên lưng rùa. Rắn và rùa tượng trưng cho sức mạnh và sự trường tồn. Bản thân Rắn + Rùa cũng là con Huyền vũ huyền thoại, linh vật phương Bắc. Thần Trấn Vũ (Chân Vũ) xưa cũng chính là thần Huyền Vũ, cai quản phương Bắc.

Cá nhân tôi thấy pho tượng được đúc rất đẹp, đẹp hơn hẳn pho tượng Chân Vũ mà Ngô Tam Quế cho đúc đặt trong Kim Điện tại Vân Nam (cùng thời với tượng Trấn Vũ này). Còn tượng Chân Vũ tại Kim điện trên đỉnh Vũ Đang thì chưa đến nên chưa biết để mà dám so sánh.

Chitto
12-05-2010, 21:22
Sự khôi phục của Đạo giáo (đã có từ đời Lý) kéo theo sự tôn tạo hoặc dựng mới một số ngôi đạo quán. Ngoài Quán Trấn Vũ là đạo quán lớn nhất, Bích Câu đạo quán vẫn còn gìn giữ đến ngày nay, các ngôi đạo quán khác giờ đều đã thành chùa.

Ở trong khu dân cư đông đúc, phố Hàng Khoai, có ngôi Huyền Thiên đạo quán, giờ thành chùa Huyền Thiên, sát phía Đông của Hoàng thành có ngôi Đồng Thiên đạo quán, giờ cũng thành chùa Kim Cổ.

Lại có một ngôi đạo quán kỳ lạ nữa, là Quán Đế Thích. Đế Thích tức là thần Indra của Ấn Độ, được Phật giáo coi là Vua trời Đao Lợi, cùng với Phạm Thiên là hai vị vua trời hộ vệ Phật giáo. Nhưng sang đến thời Lê Trung Hưng, thì từ vị Trời của Phật giáo, lại được tôn thờ riêng như là một vị thần Đạo giáo. Hoặc có thể giới Đạo sĩ đã chuyển từ ngôi đền thành Đạo quán chăng? Mà xuất hiện ngôi quán Đế Thích.

Quán Đế Thích ngay cạnh ngôi chùa Hưng Khánh, nên đến giờ cả hai được gộp chung trong một khuôn viên gọi là chùa Vua, ở cạnh chợ trời ngày nay. Cũng thú vị, khi Vua Trời Đế Thích giờ được ngự ngay ở Chợ Trời !!!

Quán Huyền Thiên ở cạnh chợ Đồng Xuân


https://static.panoramio.com/photos/original/35426052.jpg

Chùa Vua - Quán Đế Thích ở chợ trời


https://static.panoramio.com/photos/original/35426074.jpg

Chitto
13-05-2010, 22:39
Đầu thời Lê Trung Hưng, Nho giáo được coi trọng, Đạo giáo cũng hưng thịnh, còn Phật giáo thì suy kém. Không có ngôi chùa nào do vua hoặc chúa cho dựng mới vào thời này, ngoại trừ một ngôi chùa khá đặc biệt là chùa Quán Sứ.

Từ thời Trần, đã có khu Quán sứ dành cho các sứ thần các nước Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp đến giao dịch, khu Quán sứ này nằm ở đâu không rõ. Đến thời Lê thì nằm ở khu phố Quán Sứ ngày nay. Khi chúa Trịnh lấy lại Thăng Long từ tay họ Mạc, thì khu Quán Sứ nằm không xa phủ chúa. Lúc này các sứ thần lại đông đúc, mà họ đều đến từ các nước theo Phật giáo, cho nên một ngôi chùa được dựng trong khu này, cũng gọi luôn là chùa Quán Sứ.

Khu Quán Sứ đã không còn dấu tích, chỉ ngôi chùa vẫn còn đó. Trải qua dâu bể, cũng không còn di vật gì của thời xa xưa đó nữa, ngôi chùa mới được dựng lên trên nền chùa cũ, với kiến trúc hiện đại hơn, chỉ còn cái tên lưu lại một thời quá khứ.

Ngày nay chùa Quán Sứ là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, về cấp hành chính thì là chùa quan trọng nhất, và cũng bề thế nhất nội thành Hà Nội, dù rằng so với nhiều chùa khác mới dựng sau này thì rất khiêm tốn nhỏ bé.


https://static.panoramio.com/photos/original/35426069.jpg

Chitto
14-05-2010, 14:16
Có câu chuyện về Phật giáo thời Lê Trung Hưng khá đặc biệt: Vua Lê Hy Tông không thích Phật giáo, đến mức hạ chiếu yêu cầu các sư phải rời khỏi Thăng Long và thành thị, phải vào trong núi mà tu hành. Chiếu chỉ này khiến giới Phật giáo rung động.

Bấy giờ ở chùa Hoè Nhai có thiền sư Tông Diễn, đã làm một cái hộp gỗ rất đẹp, nói là trong có viên ngọc quý dâng lên vua xem. Vua mở ra, thấy bên trong chỉ là một tờ biểu, viết rất khúc chiết về sự cần thiết của Phật giáo cũng như những lợi lạc Phật giáo đem lại. Vua xem xong hối hận, huỷ bỏ lệnh cấm, và sau đó sám hối, dần quay lại với Phật giáo.

Vì vậy, trong chùa Hoè Nhai có một bộ tượng thuộc loại độc đáo nhất Việt Nam: tượng Vua đội Phật.

Bức tượng tạc hình vị vua với mũ áo đầy đủ đang quỳ mọp, hai tay sát đất. Trên lưng tượng có một tấm bồ đoàn, và Phật ngồi trên đó đang thuyết pháp. Bức tượng lấy từ ý trong kinh: vua trời Đế Thích ấy thân làm giường mời Phật thuyết pháp. Tuy nhiên sách nói rằng tượng này mang ý chính là về việc vua Lê Hy Tông sám hối, người đang quỳ kia chính là vua.

Tiếc rằng gần đây, pho tượng độc đáo này đã "được" sơn lại vàng choé loẹ, mất hoàn toàn màu sơn cánh gián truyền thống. Chùa cũng đang dựng lại hoàn toàn.


https://static.panoramio.com/photos/original/35313022.jpg

nangthuytinh
14-05-2010, 18:16
Hihi, đọc topic của anh Chit mà tưởng như được nghe bà kể chuyện :). E ko sinh ra ở HN, nhưng cũng sống ở đây được chục năm, tuy thế cảm nhận về HN thật nhạt nhòa. Nếu yêu thì sẽ hiểu nhưng với Hà nội thì có lẽ nếu hiểu thì sẽ yêu. Rất cảm ơn anh vì những bài viết thật hay :D

T72
20-05-2010, 12:53
Cảm ơn bác Chitto về 1 thread rất hay về Thăng Long - Hà Nội.

Chitto
22-05-2010, 13:00
Đến đời Lê, tại Thăng Long xuất hiện nhiều những ngôi đình làng bề thế.

Đình làng - có nguồn gốc từ thời Trần, khi vua Trần ra lệnh dựng các toà nhà đầu làng để khi vua quan vi hành, kinh lý sẽ nghỉ tại đó mà không phiền đến nhà dân. Sau toà đình trở thành nơi thờ những vị thần bảo hộ cho làng, các vị Thành hoàng. Sau đó, đình được mở rộng chức năng trở thành nơi tụ họp của làng, bàn việc làng, là không gian sinh hoạt văn hoá chung. Những toà đình cổ nhất còn lại đến nay là từ đời Mạc.

Tại Thăng Long, những toà đình - dù truyền thuyết nói có từ xa xưa lắm - đều dựng từ đời Lê Sơ về sau. Đến nay còn khá nhiều toà đình lớn và đẹp giữa lòng thành phố, đều dựng từ đời Lê Trung Hưng, trùng tu dưới đời Nguyễn. Nếu những ngôi chùa, đền lớn đều liên quan đến triều đình, hoàng tộc, thì các ngôi Đình hoàn toàn là của dân gian. Và nhiều ngôi đình còn to đẹp hơn cả đền chùa quốc gia !


Đình làng Khương Thượng, thờ vị thần đất của làng từ rất xa xưa.


https://static.panoramio.com/photos/original/original/35811912.jpg


Đình Vạn Phúc, thờ thần Linh Lang


https://commondatastorage.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/35811908.jpg



.

Chitto
22-05-2010, 15:23
Thăng Long là một đô thị, một kinh thành với rất nhiều ngôi làng nằm giữa lòng nó.

Bên cạnh khu Hoàng thành của Vua, Vương phủ của chúa, của triều đình quý tộc, khu trị sở của quan lại, khu luyện tập của quân đội, nuôi giữ voi ngựa, khu phố buôn bán của thị dân, khu sản xuất của các phường thợ, vẫn có rất nhiều ngôi làng sống cuộc sống thôn quê bình dị, với nghề nông và nghề thủ công. Những khu làng ấy tồn tại từ trước khi có Thăng Long, và đến nay vẫn còn đây đó giữa phố xá.

Chính những làng xóm xen giữa phố thị này đem lại những nét văn hoá rất đặc thù của vùng đất cũng rất đặc biệt này.


Ao làng, cạnh đình làng Khương Thượng, nằm ngay giữa những con phố đông đúc người xe của Hà Nội nay, như hình ảnh rõ nét về làng quê giữa Thăng Long xưa.



https://static.panoramio.com/photos/original/35811911.jpg

Chitto
22-05-2010, 22:08
Một số bạn trong Nam thắc mắc: tại sao ở Miền Bắc, mà cụ thể là Hà Nội, gọi đường là phố, nhưng rồi lại vẫn có đường. Thế thì phố khác đường ở cái gì ?

Phố - nguyên nghĩa là cửa hàng, cửa hiệu mua bán, trao đổi. Một ngôi nhà là nơi bán hàng gọi là một căn phố. Nhiều căn phố đứng cạnh nhau trở thành một dãy phố. Rồi cả một con đường gồm nhiều căn phố được gọi ngắn gọn là một "con phố" lúc nào không hay.

Thế là con đường với nhiều căn phố bán vải trở thành "phố Hàng Vải", nhiều căn phố bán bông trở thành "phố Hàng Bông". Từ đó, cái tên phố để chỉ con đường với các cửa hàng cửa hiệu mua bán. Phố không chỉ là nơi để đi lại, mà còn là nơi trao đổi, mua bán, phố không chỉ là con đường đơn thuần, mà là con đường với sức sống kinh tế nhộn nhịp.

Do đó, tại Thăng Long xưa và Hà Nội nay, vẫn phân biệt Phố và Đường. Những nơi không có mua bán thì vẫn gọi là đường. Nhưng dần người ta cũng không còn nhớ cái ý nghĩa đó nữa, và đặt Đường hay Phố chỉ như một thói quen.

Mỗi lần nghe đến "phố", tôi lại nhớ đến những con đường xôn xao tiếng bán mua, cười nói, những con đường đặc trưng của một đô thị giao thương, và nó không chỉ đơn thuần là những con đường...

Chitto
23-05-2010, 09:26
Các con đường phía Đông của Hoàng thành trở thành nơi tụ tập những người làm các nghề thủ công, mua bán sản phẩm, tạo thành các phường thợ, phường buôn. Phường ngày xưa là tập hợp của những người cùng ngành nghề, sau này mới mang nghĩa là khu vực địa lý hành chính.

Mỗi con đường - nay gọi là con phố - chuyên về một sản phẩm, là có một phường. Bao nhiêu phố là bấy nhiêu phường. Các phường nghề thường là người từ các nơi khác tập trung lại. Họ từ Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam,... rời quê hương lên kinh đô lập nghiệp, tập hợp nhau lại, rồi coi đây là quê hương. Những người Thăng Long - Hà Nội cũng đều là như thế.

Khi lập nghiệp tại khu phố thị, người ta mang theo tâm linh tín ngưỡng từ quê hương lên theo, và lập các ngôi đền, ngôi đình thờ tổ nghề, thờ vị thần của mình. Đáng ngạc nhiên là trong khu phố cổ ngày nay vốn có hơn 50 ngôi đền, đình, mật độ cao hơn bất kỳ đâu trên khắp cả nước.

Nhưng không thể như các ngôi đình ở làng rộng rãi khang trang với sân cổng uy nghi, các ngôi đình, đền trên phố phải hết sức nhỏ bé, thu hẹp mọi chiều. Sang đến đời Nguyễn thì rất nhiều ngôi đình, đền bị dời lên tầng hai, để tầng dưới làm nơi buôn bán. Từ đó mới có kiểu đền độc đáo của khu phố cổ Thăng Long: đình trên nóc quán bán hàng.

Mà thôi, viết về khu phố cổ này có mà cả ngày. Đoạn này tôi chỉ muốn nói về thời Lê thôi.

Đền Nhân Nội, một ngôi đền có mặt tiền còn khá rộng rãi trong khu phố buôn bán


https://static.panoramio.com/photos/original/35811909.jpg

KK172
24-05-2010, 01:54
Mà thôi, viết về khu phố cổ này có mà cả ngày. Đoạn này tôi chỉ muốn nói về thời Lê thôi.

Topic nghiên cứu, cho một bài thơ vào đây có lạc điệu không nhỉ?

Nhưng vì chủ thớt không định viết tiếp về phố Cổ, mà tớ thì không đi đâu thoát khỏi cái Phố Cổ ấy, nên thôi tớ cứ cho vào, thêm một chút gió nhé.

PHỐ ...
WEDNESDAY, 23. APRIL 2008, 11:38:00
Hôm nay Hà Nội lại lạnh rồi
Lạnh như cái thuở mới lên mười
Bước chân ra đầu phố
Phố đổ gió đầy trời

Bỗng nhiên thấy mình trong phố cổ
Ngõ vòng để gió đuổi hụt hơi

Xuôi hết Hà Trung sang Yên Thái
Ngẩn ngơ tìm đền thờ Ỷ Lan
Chuếnh choáng nhìn đám người xa lạ
Đền xưa giờ đã hóa cửa hàng

Bún chả Hàng Mành hun điếc mũi
Tiếng gõ Hàng Thiếc nhức mù tai
Nồng nồng Thuốc Bắc tay thấy ấm
Loẹt lòe Hàng Mã mắt thật dài
Hàng Khoai ồn ã hoa ngập ngõ
Đồng Xuân nháo nhác những bờ vai

Thanh Hà cửa ô nghiêng đê cũ
Có chờ Chợ Gạo họp sớm mai
Có nghe tiếng hát đêm Hàng Lược
Những kẻ cầm chầu có còn ai
Thê Húc chạnh lòng thương Cầu Gỗ
Thái Cực hồ xưa đã tàn phai

Gió không nỡ thổi theo người nữa
Gió ở sau lưng gió thở dài

(Thơ của .. . ;))

Chitto
24-05-2010, 23:36
Trong các phường nghề, phường ca xướng mua vui cho người có tiền cũng phát triển vào thời Lê. Ngoài ca hát dân gian, thời Lý chủ yếu thịnh kiểu ca hát tôn giáo trong chùa, sang đời Trần đã có diễn xướng sân khấu. Sử chép khi đánh giặc Nguyên, có bắt được một kép hát người Hán, người này đã truyền nghề ca hát diễn xướng vào phủ các vương công. Thế là bên cạnh ca múa cung đình, còn có biểu diễn tại phủ đệ các quan, công hầu.

Sang đến đời Lê, Nho giáo thịnh hành, đã dần tạo thành một lớp nghệ nhân ca hát các bài thơ của giới Nho sĩ, tao nhân mặc khách. Âm nhạc sang trọng của cung đình, thiêng liêng của các đền phủ giờ được kết hợp với sáng tác thơ ca bay bổng, dần tạo nên lối hát ả đào, được giới thượng lưu triều Lê ưa chuộng.

Phường hát dần tập trung tại phía khu đài Khâm Thiên, khi đó vẫn còn mênh mông hồ nước (Đại hồ). Các khách văn thơ thường đi thuyền nghe hát, và một ca nương chỉ hát cho vài người nghe, đặc biệt là hát chính các bài thơ mà khách làm. Cái thú vui tao nhã này còn kéo dài đến qua triều Nguyễn, tận đến những năm trước 1945, đến nỗi khu Khâm Thiên mang tiếng là phố Cầm Ca, xóm Cô đầu.


Thế là, Thăng Long có đủ cả. Cung vua, phủ chúa, dinh thự giới quý tộc, phủ toà các quan; khu buôn bán hàng hoá, khu làng nghề thủ công, khu trồng trọt nông nghiệp, khu voi ngựa quân lính, và cả khu vui chơi hát xướng. Những tháng ngày hưng thịnh đó kéo dài được hơn trăm năm...


Những người nông dân thực sự cuối cùng trên cánh đồng cuối cùng của quận Ba Đình: cánh đồng làng Láng với loại rau húng riêng có, nay sắp tuyệt chủng. Cánh đồng này có lẽ từ thời Lê 400 năm trước vẫn vậy.


https://static.panoramio.com/photos/original/35922869.jpg

Chitto
25-05-2010, 22:29
Đầu thời Lê Trung Hưng, triều đình trọng Nho chưa quan tâm lắm đến chùa chiền. Tuy nhiên lại có một lực lượng hỗ trợ tiền bạc để tu sửa và dựng mới chùa chiền khá dồi dào, đó là các bà hoàng, bà chúa.

Vua Lê chúa Trịnh hai họ thường lấy qua lại nhau. Thường thì Thái tử nhà Lê sẽ lấy Quận chúa họ Trịnh, mà Thế tử họ Trịnh lại lấy Công chúa nhà Lê, cho nên các bà hoàng bà chúa toàn họ Lê với họ Trịnh cả. Khi các bà hoàng luống tuổi, họ thường quay về với Phật giáo, và bỏ tiền cho chùa chiền. Về sau vua Lê chúa Trịnh cũng quay lại với Phật giáo và cho sửa sang, dựng chùa.

Cũng từ đời Lê mới có trào lưu ruộng hậu: bắt chước các bà chúa dựng chùa, các bà mệnh phụ cũng cúng tiền, rồi người dân cúng ruộng. Đặc biệt những người khi sắp mất mà không có con thì đem hết ruộng hiến cho chùa, để chùa cúng lễ cho mình. Nhà chùa sau đó cho tạc tượng những người này để thờ ở phía sau, gọi là tượng hậu.

Một trong những ngôi chùa rất cổ được một bà chúa dựng lại là chùa Hoằng Ân (chùa Quảng Bá). Bà quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú là con gái chúa Nguyễn Hoàng, đồng thời là vợ chúa Trịnh Tráng đã dựng lại ngôi chùa cổ từ đời Lý, rồi về tu ở đây. Ngôi chùa trở thành một thắng cảnh bên hồ Tây, ngày nay vẫn rất trang nghiêm u tịch. Trong bia chùa vẫn còn có tượng bà chúa Ngọc Tú.


Chùa Hoằng Ân thâm nghiêm


https://static.panoramio.com/photos/original/35922882.jpg

fireworkswu
26-05-2010, 00:10
Một trong những ngôi chùa rất cổ được một bà chúa dựng lại là chùa Hoằng Ân (chùa Quảng Bá). Bà quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú là con gái chúa Nguyễn Hoàng, đồng thời là vợ chúa Trịnh Tráng đã dựng lại ngôi chùa cổ từ đời Lý, rồi về tu ở đây. Ngôi chùa trở thành một thắng cảnh bên hồ Tây, ngày nay vẫn rất trang nghiêm u tịch. Trong bia chùa vẫn còn có tượng bà chúa Ngọc Tú.



Em và bạn mới đi thăm chùa Hoằng Ân hôm chủ nhật vừa rồi. Đúng là quang cảnh chùa rất đẹp, không gian rộng, tĩnh lặng và thâm nghiêm. Mái chùa rêu phong, những tháp mộ trầm mặc dưới bóng rợp mát của những cây nhãn cổ thụ... Xung quanh chùa còn có ao cá, vườn cây cảnh, cả đất hoang nữa (chắc sắp tới mới quy hoạch tôn tạo thêm).
Theo ghi chép trên văn bia thì chùa nhìn ra hồ Tây mênh mông... song hiện nay đáng tiếc là view đó không còn vì thực ra chùa còn nằm cách mép nước hồ Tây một khoảng rộng, đất đó dân đã trồng cây, làm nhà, xây biệt thự... Thậm chí em phải leo hẳn lên gác chuông xem mà vẫn bị mấy cái biệt thự ven hồ che mất tầm nhìn ra hồ. Nhưng con đường dẫn vào chùa qua làng Quảng Bá thì vẫn đẹp, nho nhỏ, quanh co và vẫn còn nhiều vườn quất sum xuê.

Hôm em đến thì đang có lễ cúng của một gia đình đưa người đã khuất lên chùa, các già ngồi gần chật kín bên trong tam bảo tụng kinh nên em không đi lại thăm bên trong chùa được, cũng chưa xác định được tượng bà chúa - ni sư Ngọc Tú đặt ở vị trí nào (nghe nói ở chùa này còn có cả tượng chúa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Kim).
Có một điều khá thú vị là chùa này vừa thờ Phật, vừa là nơi tu theo Đạo giáo.

Chitto
26-05-2010, 22:45
Khu phố buôn bán ở Thăng Long không chỉ có các thương nhân, thợ thủ công người Việt, mà còn có các thương nhân người Hoa, người Mã lai, và đặc biệt người phương Tây.

Những thương nhân phương Tây đầu tiên đến Thăng Long là người Hà Lan, sau khi đã giao thương ở phố Hiến. Họ mang đến các sản phẩm phương Tây, thuốc súng, đồng hồ,... và mua hương liệu, đồ sứ, tơ lụa. Khi đó người Hà Lan chiếm được đảo Đài Loan, từ đó toả ra khắp vùng. Họ giao thương với cả chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Sau này chúa Nguyễn gây khó khăn, nên người Hà Lan giao thương với Thăng Long nhiều hơn.

Khi đó người phương Tây đều được gọi chung là người Tây Dương.

Đỉnh cao của sự giao lưu với người Hà Lan, đó là khi vua Lê Thần Tông lấy một bà vợ người Hà Lan ! Tài liệu ghi rằng người phụ nữ đó là con của vị Phó quan của Hà Lan ở Đài Loan với vợ người Triều Tiên, cô gái tên là Orona. Tuy nhiên cũng không có thông tin gì thêm về bà vợ ngoại quốc này của vua. Đó là vị vua Việt đầu tiên lấy vợ phương Tây (sau này còn mấy vua nhà Nguyễn nữa). Nhưng đó cũng không phải là bà vợ nước ngoài duy nhất của Lê Thần Tông, vì ông còn có 1 bà người Thái, 2 bà người Hoa nữa.

Tượng vua Lê Thần Tông và hai trong số nhiều bà vợ của vua, tại Thanh Hoá. Đây là ảnh sưu tầm.


https://static.panoramio.com/photos/original/36242723.jpg

Chitto
26-05-2010, 23:33
Những người phương Tây đầu tiên đến Việt Nam không phải các thương nhân mà là các nhà truyền giáo. Tuy nhiên các nhà truyền giáo này chủ yếu ở vùng ven biển. Sau này theo các thương nhân, họ mới đến Thăng Long và gặp chúa Trịnh.

Bây giờ ta gọi đó là Công giáo, nhưng thời đó được biết đến với cái tên là đạo Tây Dương, đạo Gia-tô, với Gia-tô là phiên âm tên của Jesus, sau này mới gọi là đạo Thiên Chúa.

Sử sách Công giáo viết rằng những nhà truyền giáo đầu tiên tại Thăng Long rất sớm đã rửa tội được cho hàng nghìn người. Tuy nhiên điều này không thực tế, bởi lúc đó các nhà truyền giáo còn chưa biết tiếng Việt, phải nhờ thương nhân phiên dịch hộ, nên không thể là truyền đạo đúng thực sự. Người dân nhận "rửa tội" chỉ như một sự hiếu kì chứ có hiểu gì về nhau đâu. Những nhà truyền giáo đầu tiên thất bại đã rời đi.

Sau đó đến các tu sĩ dòng Tên, đã học tiếng Việt và latin hoá tiếng Việt, nổi tiếng nhất là Alexandre de Rhode (A lịch sơn Đắc Lộ). Ông đã từng gặp cả chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh tại Thăng Long, có công lớn trong việc hoàn thành từ điển Việt-Bồ-La, hình thành chữ Quốc ngữ.

Tuy được tôn trọng tại Thăng Long, nhưng đạo Gia-tô không phát triển được ở đây, do sự mâu thuẫn với quyền lợi của vua chúa, khi đạo Gia-tô bắt chỉ có một vợ, không được thờ cúng tổ tiên, bất kể ai cũng phải phục tùng Chúa thông qua Vít-vồ (linh mục). Điều này là không chấp nhận nổi với giới quý tộc. Do đó tại Thăng Long, đạo Gia-tô rất thưa thớt, không phát triển như các vùng làng quê.

Tại các vùng ngoài Thăng Long, phố Hiến, Nam Định, đạo Gia-tô phát triển khá nhanh. Đầu tiên là các cố đạo dòng Tên, rồi cố đạo Pháp. Giáo hoàng đã thành lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong, rồi Đàng Ngoài lại tách thành Tây Đang Ngoài, Đông Đàng ngoài. Tuy nhiên các giám mục người Tây chỉ lén lút vào rồi lại ra, mà không ở lại.

Chúa Trịnh thời gian đầu chấp nhận các nhà truyền đạo Gia-tô, với mong muốn họ giúp mình liên lạc với người phương Tây, mua vũ khí, tàu thuyền để đánh Đàng Trong. Nhưng sau thấy họ không giúp gì được, lại thấy họ đi lại khắp nơi trong nước, nên nghi ngờ là gian tế, lại sẵn không ưa đạo mới, nên về sau ra lệnh cấm và đuổi đi.

Tranh vẽ triều đình vua Lê, do các nhà truyền giáo vẽ lại


https://static.panoramio.com/photos/original/36242697.jpg

https://static.panoramio.com/photos/original/36242705.jpg

Chitto
27-05-2010, 13:51
Nửa sau thời Lê Trung Hưng, vua chúa lại quay lại với Phật giáo một cách nồng nhiệt. Các ngôi chùa lại được trùng tu, như Hoè Nhai, Bà Đá, Phúc Khánh, Kim Liên, Quỳnh, Hoàng Mai... Trong đó hai chùa Hoè Nhai và Phúc Khánh là hai tổ đình nổi tiếng, đào tạo nhiều sư tăng.

Có ông Vương tôn là Trịnh Thập, cháu của chúa Trịnh, lại đồng thời là phò mã, lấy công chúa con vua Lê, nhân vì đào cái ao cạn trong phủ đệ thấy cái ngó sen, thế là bỏ cả cuộc sống phú quý, bỏ mặc cả cô vợ công chúa để đi tu. Toà phủ đệ của ông biến thành chùa, và là một ngôi chùa nổi tiếng ngày nay: chùa Liên Phái.

Sau khi Thiền sư Trịnh Thập mất, đồ đệ dựng ngôi tháp mộ bằng đá, gọi là tháp Cửu Sinh. Đây là ngôi tháp mộ sư bằng đá đầu tiên ở Thăng Long. Trước đó các tháp mộ bằng gạch thì nhiều ở các chùa, nhưng tháp đá thì đây là cái đầu tiên. (tháp đá nơi khác cũng nhiều, nhưng ở Thăng Long thì giờ mới có).

Tháp Cửu Sinh trong chùa Liên Phái, nằm giữa các tháp mộ bằng gạch khác.


https://static.panoramio.com/photos/original/35811900.jpg

Chitto
27-05-2010, 22:12
Chúa Trịnh Doanh mở rộng phủ chúa, phải hạ ngôi chùa Bảo Lâm ở cạnh phủ. Gạch gỗ chuyển sang chùa Đại Bi ở hồ Tây, để dựng lên ngôi chùa Kim Liên, ngôi chùa thuộc loại đẹp nhất Hà Nội ngày nay.

Trong chùa Kim Liên có một pho tượng khá lạ, hình một người đàn ông đội mũ cao áo dài, không phải áo đại triều mà là áo thụng rộng, đang cầm hốt ngọc. Nhiều nguồn tin về pho tượng này, nơi thì bảo là tượng chúa Trịnh Giang, người thì bảo là Trịnh Sâm. Người thì bảo là tượng vì nhà chúa đóng góp công của chính cho việc dựng chùa, người thì bảo do con gái của nhà chúa đến tu ở chùa nên lập tượng cha để cầu phúc cho cha. Dù gì thì pho tượng cũng đã đứng đó gần ba trăm năm, chứng kiến những đổi thay dâu bể của những triều đại đi qua.

Thời Tây Sơn, pho tượng bị đưa từ trong thượng điện là nơi tôn nghiêm ra phía ngoài, vì theo các quan Tây Sơn thì chúa Trịnh không đáng được thờ cúng như thế. Và pho tượng lại lặng lẽ đứng bên cạnh gian chùa ngoài, khuôn mặt vẫn tươi vui đầy đặn.

Bức tượng trước khi trùng tu chùa Kim Liên thì để bên tường bên cạnh chính điện. Sau khi trùng tu xong, cũng chưa rõ sẽ đặt vào đâu?


https://static.panoramio.com/photos/original/36030176.jpg

Chitto
28-05-2010, 00:02
Triều Lê, từ Thái Tổ khởi nghiệp, trải gần bốn trăm năm, đã đến lúc suy tàn. Thực ra Lê triều đã tàn một lần rồi, nhưng lại được khôi phục. Khôi phục để mà sống lay lắt, sống bù nhìn hơn hai trăm năm trong tay họ Trịnh.

Vua Lê - chúa Trịnh, đã có lúc rất hưng thịnh, đưa Đàng Ngoài trở thành một vương quốc thịnh trị. Nhưng cũng có những lúc suy thoái đến tàn hại. Vua Lê chẳng có quyền gì, bị các chúa Trịnh thâu tóm, dựng lên hạ xuống như những quân cờ.

Ông vua gần cuối triều Lê là vua Hiển Tông giữ ngôi đến gần 50 năm, con cháu rất đông đúc nhưng cũng chẳng làm được việc gì. Có điều đặc biệt là hầu hết các đền chùa lớn tại Thăng Long đều được tu sửa vào thời của ông (những năm Cảnh Hưng).

Chúa Trịnh gần cuối cùng là Trịnh Sâm, lúc đầu cũng chăm lo quốc sự, khiến nước được mạnh. Nhưng sau đó mê đắm bà chúa Chè - Tuyên phi Đặng Thị Huệ - mà làm đổ nát cả cơ nghiệp. Nhà chúa xây cung thất, chơi Long Trì, phế con trưởng, nuôi hoạ loạn. Thế nên khi Trịnh Sâm qua đời, Thăng Long đại loạn, ngôi chúa nghiêng ngửa, kiêu binh nổi loạn.

Thời Lê, bốn phía Thăng Long chia làm bốn Chính trấn: phía Đông là Hải Dương, phía Tây là Sơn Tây, phía Nam là Sơn Nam, phía Bắc là Kinh Bắc. Những trai tráng khoẻ mạnh tài giỏi đưa về bốn trấn đó để giữ cho kinh đô, gọi là quân Tứ Chính, sau đọc chệch ra thành Tứ Chiếng. Trai tứ chiếng là trai tài giỏi khoẻ mạnh.

Riêng tại Kinh đô thì lấy quân từ quê của vua Lê - chúa Trịnh, tức là lính từ Thanh - Nghệ ra. Những quân này được tin dùng, chuyên để bảo vệ kinh thành, phủ chúa. Tuy nhiên khi Trịnh Sâm chết, thì chúng không sợ ai, coi thường cả chúa mới là Trịnh Khải, kéo đi khắp nơi trong thành cướp phá, kéo đổ nhà quan lại, giết cả các quan. Những mối loạn đó góp phần chấm dứt dòng họ Trịnh, và sau đó là vua Lê, để cho một triều đại mới từ phía Nam tiến ra, là nhà Tây Sơn.

Chitto
29-05-2010, 17:16
Nước Việt hơn hai trăm chia cắt, đến nỗi gần như thành hai nước riêng, Đàng Trong họ Nguyễn, Đàng Ngoài họ Trịnh vua Lê đánh nhau liên miên, tuy cùng một dân mà thù địch vô cùng.

Rồi đến cuối thế kỷ 18, chúa Nguyễn Đàng Trong bị quyền thần làm loạn, tại Bình Định có ba anh em vốn họ Hồ, cùng dòng dõi Hồ Quý Ly, khởi dậy. Nhưng thời ấy để thu thập nhân tâm Đàng Trong vốn rất kính trọng chúa Nguyễn, ba người đổi ra họ mẹ là họ Nguyễn, tức Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Ba người đánh tan quân chúa Nguyễn, chúa Trịnh từ ngoài đánh vào lấy được Phú Xuân (Huế), nhà Nguyễn phải bỏ chạy vào đất miền Nam. Nguyễn Nhạc lúc đầu chịu phong của chúa Trịnh, tước Công. Sau rồi thực lực lớn mạnh, mới tự xưng Hoàng đế ở Quy Nhơn, tức là vua Thái Đức.

Bấy giờ Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là người của chúa Trịnh, nhưng phản họ Trịnh, bày kế để Nguyễn Huệ tiến đánh Phú Xuân. Phá được Phú Xuân rồi thì nhân đó mượn danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh" tiến thẳng ra Thăng Long. Tại Thăng Long thì Trịnh Sâm mới mất, triều đình đang loạn, nên Nguyễn Huệ nhanh chóng thắng trận, diệt chúa Trịnh cuối cùng là Trịnh Khải.

Thế là họ Trịnh, sau 216 năm làm chúa, đã chấm dứt.

Nguyễn Huệ khi đó 33 tuổi, vào điện Kính Thiên gặp vua Lê Hiển Tông, và lấy công chúa Ngọc Hân khi đó mới 16 tuổi làm vợ thứ hai. Vừa cưới xong thì Lê Hiển Tông qua đời, cháu nội là Lê Chiêu Thống lên thay.

Cũng lúc đó Nguyễn Nhạc thấy em không chịu xin phép mình đã ra Thăng Long, nên cũng vội vàng chạy thật nhanh từ Quy Nhơn ra Thăng Long. Thế là tại Thăng Long lần ấy, có sự hội ngộ của ba người đã - đang - và sẽ là Hoàng đế:

- Nguyễn Nhạc, là hoàng đế nhà Tây Sơn, niên hiệu Thái Đức
- Lê Duy Kỳ, mới lên ngôi hoàng đế nhà Lê, niên hiệu Chiêu Thống
- Nguyễn Huệ, người mà hai năm sau sẽ là hoàng đế niên hiệu Quang Trung


Tượng đài Quang Trung - Nguyễn Huệ - Hồ Thơm tại Hà Nội


https://static.panoramio.com/photos/original/36098451.jpg

Chitto
29-05-2010, 17:44
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ rút về Nam, trước đó vét sạch của cải trong kho tàng mấy trăm năm của họ Trịnh (cung vua Lê thì chẳng có gì để mà lấy).

Lê Chiêu Thống lên ngôi chưa làm được gì gì thì Trịnh Bồng quay lại giành ngôi chúa, lập lại phủ chúa. Vua Lê lại mời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp. Trịnh Bồng bỏ chạy khỏi Thăng Long.

Trịnh Sâm xưa giết cha của Lê Chiêu Thống, lại giam ông 11 năm trong ngục, nên Chiêu Thống căm thù họ Trịnh vô hạn, nhân Trịnh Bồng chạy rồi, liền sai đốt phủ chúa. Phủ chúa Trịnh cháy trong ba ngày, tất cả các công trình ra tro cả. Do đó khu đất rộng này trở thành hoang địa, sau người dân biến thành ruộng. Công trình xây dựng lớn nhất của đất Thăng Long trong hai thế kỉ đã hoàn toàn không còn dấu vết.

Nhân đốt phủ chúa, lầu Ngũ Long, điện hóng mát của chúa Trịnh ở bên bờ hồ Gươm, lầu câu cá tại đảo Ngọc,... đều bị đốt. Đến cả những rặng bàng làm cảnh dọc hồ Tây, rặng Hoè ở Hoè Nhai, liễu ở Liễu Giai cũng bị chặt sạch.

Chiêu Thống còn cho người vào Văn Miếu, tất cả các bia nào có tên chúa Trịnh đều đục bỏ. Vốn dưới thời Lê - Trịnh, các khoa thi khi dựng bia thì bên cạnh dòng chữ "Hoàng thượng...." để chỉ vua Lê, còn dòng "Vương thượng..." để ca ngợi chúa Trịnh, thì nay bị đục hết.

Có lẽ vì Lê Chiêu Thống bị giam quá lâu, được tự do chưa lâu đã lên làm vua, đã thành người nhu nhược không còn khả năng làm chủ, lại không có kiến thức. Trước kia công chúa Ngọc Hân rất tỉnh táo, đã can Quang Trung không nên lập người này, nhưng vì các hoàng thân nhà Lê cổ hủ nhất quyết đòi lập, doạ gạch tên Ngọc Hân khỏi sách vàng hoàng gia, nên Ngọc Hân buộc lòng phải theo. Chính vị vua trẻ hèn yếu vừa đáng giận vừa đáng thương này đã phải trả giá đắt cho suy nghĩ sai lầm của mình về sau.



https://static.panoramio.com/photos/original/36242690.jpg

linhnam
29-05-2010, 19:14
Là vì bên cạnh hầu hết các tài liệu đều ghi là quân Pháp phá huỷ chùa Một Cột, vẫn có nguồn tin cho rằng không phải thế. Điều nghi ngờ đó cũng có thể có lý, khi mà tôi thấy rằng người Pháp rất cẩn thận lưu giữ các công trình kiến trúc cổ Việt Nam, đặc biệt tại Hà Nội. Trong thư viện của họ còn giữ bản vẽ chi tiết các ngôi chùa ở HN, thiết kế, cấu trúc... một cách tỉ mỉ. Tất cả các tấm bia đều được họ làm bản dập lưu trữ, những việc đó người Việt mình còn không làm nổi. Nhất là phải nhớ lại giai đoạn chính chúng ta đã tiêu huỷ vô số công trình văn hoá của mình thế nào.

Cho đến nay các nguồn tài liệu đều chỉ ghi chung chung là "quân Pháp nổ mìn phá huỷ chùa Một Cột", nhưng phá khi nào, lúc nào, có bằng chứng gì, có ai chứng kiến ... thì hoàn toàn không. Vì vậy tôi cũng không thể khẳng định điều đó (như các báo chí khác) được.

@DUNG_BTT: Cảm ơn bạn, tôi cũng chỉ làm điều gì mình thích, và viết ra những điều mình biết để chia sẻ với mọi người, kẻo rồi chính mình lại quên đi thôi. Gặp tôi ngoài đời thì là một người chán ngắt ấy mà.

Cảm ơn câu trả lời của Bác, nó làm em suy nghĩ lại nghĩ gì đã biết được chút ít vì thực trạng đòi hỏi của cuộc kháng chiến thời Pháp - Mỹ, chúng ta đã trả cái giá quá đắt cho chiền thắng cuối cùng đó!
Nhìn lại những công trình quý báu của dân tộc đã mất đi - ví dụ như chính chúng ta ( như Bác và em nghĩ ) đã biết về khu Tử Cấm Thành ở kinh đô Huế ; trong đó gồm hệ thống kiến trúc đẹp nhất đã mất - lại thấy tiếc nuối!

Chitto
30-05-2010, 22:40
Thời loạn lạc sinh ra lắm anh hùng và gian hùng, mà Nguyễn Hữu Chỉnh là một trong số gian hùng.

Chỉnh là người có tài, xưa theo chúa Trịnh, nhưng họ Trịnh không tin dùng, nên đi theo Tây Sơn. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc, lấy Ngọc Hân, đều do Chỉnh bày mưu sắp đặt. Thấy Chỉnh nhiều mưu, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ khi về Nam cố tình bỏ mặc Chỉnh ở lại cho người Bắc giết, Chỉnh sợ quá chạy theo, nhưng Nguyễn Huệ không cho theo, đành chiếm lấy đất Nghệ An.

Sau Lê Chiêu Thống bị loạn thần ức hiếp đòi lập lại phủ chúa, sai người mời Chỉnh ra. Chỉnh đem quân ra diệt Trịnh Bồng, lập công to, được phong làm tể tướng. Chỉnh lại đâm ra lộng quyền, muốn làm một chúa mới. Vua Lê hèn yếu tuy sợ nhưng không biết làm sao.

Lúc đó Nguyễn Huệ ở Huế biết tin, liền sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc, cuối cùng giết được Chỉnh. Nhưng Nhậm diệt được Chỉnh xong rồi thì lại muốn nắm quyền Bắc Hà, lại mưu toan làm chúa !

Thế là đích thân Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, giết Vũ Văn Nhậm, rồi lại về Huế. Lần này Lê Chiêu Thống sợ quá bỏ chạy sang Kinh Bắc, mà bà Thái hậu đã chạy đến tận Quảng Châu van xin quân Tàu rồi.


Trong thời Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền, vì thiếu đồng đúc tiền, Chỉnh cho lấy tượng đồng, chuông khánh đồng của các đền chùa ở Thăng Long và các nơi đem đúc tiền và vũ khí. Cho đến nay ở các chùa trong Hà Nội gần như không còn pho tượng đồng cổ nào nữa. Các chuông khánh bằng đồng hầu hết cũng đều đúc sau đó. Chỉ có tượng Trấn Vũ vì to quá mà không phá được.

Trước đó giặc Minh đã phá hết các thứ bằng đá, bằng đồng tại Thăng Long. Tấm bia đá cổ nhất ở Hà Nội còn lại cũng chỉ vào thời Lê. Đến thời Chỉnh thì lại phá hết đồ đồng được đúc trong hơn ba trăm năm triều Lê. Đây là một sự phá hoại, khi đã tiêu huỷ đi một kho tàng văn hoá rất lớn của dân tộc. Chỉ một số ít chuông khánh các chùa mà dân kịp đem dấu là thoát được.

Chitto
30-05-2010, 23:13
Thấy hết Nguyễn Hữu Chỉnh lại Vũ Văn Nhậm chiếm quyền, rồi Nguyễn Huệ lại ra Bắc, vua Lê Chiêu Thống hoảng sợ đi cầu cứu quân Thanh.

Thế là Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem quân theo chân Lê Chiêu Thống tiến vào đất Việt, đến đóng bản doanh ở Thăng Long. Sử sách chép rằng chưa bao giờ thấy đế vương nước Việt nhục nhã đến thế, vua mà phải ngày ngày sang chầu chực ở doanh trại Tổng đốc xin lệnh, quan lại đều thành đám vô dụng cả.

Trước tình thế đó, Nguyễn Huệ tại Huế lập tức lên ngôi hoàng đế (1788), niên hiệu Quang Trung, thần tốc kéo quân ra Bắc. Đoàn quân ăn tết sớm tiến thẳng đến diệt đồn Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng Đống Đa.

Chiến thắng mùng 5 Tết Kỷ Dậu (1789) đã quá nổi tiếng, lưu danh sử sách, thiết nghĩ không cần viết lại. Tôn Sĩ Nghị chạy qua sông Hồng rồi sai chặt cầu phao, khiến hàng vạn quân Thanh rơi xuống sông chết đuối, thái thú Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử ở gần chùa Bộc bây giờ, các phó tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long,... chết trận cả. Lê Chiêu Thống bỏ chạy theo sang Tàu, rồi chết thảm ở bên đó.

Quang Trung tiến vào Thăng Long, sai thu gom xác quân Thanh dồn thành 12 đống rồi đắp đất thành gò ở khu vực quanh Đống Đa. Vài chục năm sau, thời Nguyễn, khi làm đường làm chợ còn đào thấy rất nhiều xương cốt nữa, mới gom lại đắp thành cái gò thứ 13 to nhất.

12 gò vua Quang Trung cho đắp về sau đều bị san phẳng, chỉ có gò thứ 13 còn lại, chính là gò Đống Đa nổi tiếng, mà mỗi ngày 5 Tết đều tổ chức hội, gọi là Hội Gò.


Gò Đống Đa, ảnh chụp năm 1940


https://static.panoramio.com/photos/original/36098478.jpg

Chitto
31-05-2010, 15:36
Quanh khu vực Đống Đa, còn nhiều di tích của Chiến thắng Kỷ Dậu.

Chùa Bộc, vốn tên là Sùng Phúc, dựng từ đời Lê, nằm ngay trong khu vực chiến sự ác liệt, nên bị đốt cháy hoàn toàn. Sau đó vua Quang Trung cho dựng lại chùa, làm nơi cúng tế các vong hồn quân Thanh cũng như quân Việt đã chết trận. Lại vì Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử gần đó, cũng được coi là một người có nghĩa khí, nên Quang Trung cho cúng tế luôn tại chùa. Cái tên chùa "Bộc" cũng mang nghĩa là phơi ra, bày ra, có từ sau khi dân gian thấy xác giặc chết phơi khắp nơi quanh chùa.

Bên cạnh chùa Bộc có hồ rộng, là nơi sau khi chiến thắng, Quang Trung cho voi xuống tắm, nên gọi là hồ Tắm tượng. Giờ đây hồ chỉ còn là một ao nhỏ, vẫn gọi là ao Tắm tượng. Trong chùa còn có tượng thờ lén Quang Trung, sẽ nói sau.

Ao Tắm tượng trong chùa Bộc ngày nay


https://static.panoramio.com/photos/original/36098469.jpg

Chitto
31-05-2010, 15:41
Một ngôi chùa Bộc cúng tế cho các vong hồn xem ra không đủ, vì số người chết nhiều quá.

Sau này, đối diện gò Đống Đa, người dân dựng thêm một ngôi chùa nữa, là chùa Đồng Quang, để thờ cúng tất cả các vong hồn của các thi thể tìm được rải rác khắp nơi quanh đó. Trong chùa dựng một khu đàn tế riêng để cúng tế vong linh chết trận, vùi thây nơi gò Đống Đa. Ngày nay chùa bị lấn chiếm nhiều, khu đàn tế thu hẹp, dựng toà điện Địa Tạng để cúng các vong hồn.



https://static.panoramio.com/photos/original/36188478.jpg

Chitto
31-05-2010, 15:51
Người ta thường hay nói đến số quân Thanh bị đánh tan là 29 vạn (theo như bài vân ca ngợi của Ngô Thì Nhậm), hoặc 20 vạn (như ghi chép của giáo sĩ phương Tây). Trong khi nhà Thanh thì chỉ chịu công nhận là chết có 2 vạn. Nhiều nguồn khác nhau đưa ra những con số khác nhau. Chỉ biết khi Tôn Sĩ Nghị chạy về đến Quảng Đông thì chỉ còn một nửa quân.

Nhưng bên cạnh số quân Thanh chết trận, người ta thường cố tình quên đi số lính Việt cũng đã tử trận. Có bao nhiêu người đã chết, không sách nào nói đến.

Số lính Việt chết trận được đưa về một khu nghĩa địa chung, cũng chôn chung một chỗ. Người dân lập am Vạn Linh, làm đàn tế để cúng. Chỉ cái tên Vạn Linh cũng có thể thấy số lượng cũng không ít vong hồn. Về sau cạnh am Vạn Linh lập thành chùa, tức là chùa Kim Sơn ngày nay. Vì thế vào ngày 5 Tết, trong khi tại Gò Đống Đa làm lễ hội rầm rộ vui mừng, thì tại chùa cũng làm lễ cúng tế các vong hồn oan khuất trong chiến trận.


Chùa Kim Sơn trên đường Kim Mã, là đất bãi nghĩa địa Vạn Linh xưa kia.


https://static.panoramio.com/photos/original/36188485.jpg

Chitto
31-05-2010, 16:29
Câu truyện rằng sau chiến thắng, Quang Trung sai người mang ngay một cành bích đào về Huế tặng người vợ yêu là Lê Ngọc Hân chỉ tình tiết trong một vở kịch, mới mấy chục năm gần đây. Thế nhưng câu truyện lãng mạn đẹp đẽ đó đã nhanh chóng nổi tiếng đến mức nhiều người cứ tưởng là sự thực và nhắc đi nhắc lại !

Nhưng có một câu chuyện thú vị khác ít người nhắc đến hơn, đó là chuyện vua Quang Trung với bia Tiến sĩ ở Văn Miếu. Số là sau lần ra Bắc thứ nhất của Nguyễn Huệ, các tấm bia Tiến sĩ trong Văn Miếu bị phá đổ, mà trong mấy năm liền các bên chỉ mải lo đánh nhau không quan tâm. Đến nay thấy giặc giã đã yên, dân chúng khu Văn Chương mới nhờ một nhà nho thảo một bài biểu gửi Quang Trung, đề nghị cho dựng lại các tấm bia.

Nhà nho là Tam Nông tiên sinh Hà Năng Ngôn - thấy Quang Trung ưa dùng chữ Nôm - đã thảo bài thơ Nôm khá dài gửi đến. Một số đoạn là:




Chúng tôi một lũ dân cấy hái,
Trái mùa sinh vào trại Văn Chương.
Trong khi cày ruộng cuốc nương,
Vành ngoài trông vọng cung tường Miếu Văn.

Có một nỗi băn khoăn trong dạ.
Mượn thầy nho phô tả ra tờ.
Dám mong lọt cửa quân cơ,
Gió nam đưa tới dưới cờ ngài Quang Trung:

...

Kề cửa Khổng sân Trình gang tấc,
Ðào tạo nên nhiều bậc anh tài,
Một nền văn hiến lâu dài,
Tiếc thay chưa được đón Ngài ngự thăm!

...

Bốn năm trước, giữa năm Bính Ngọ (1786),
Ngài đem quân ra thú Bắc hà,
Oai trời sấm sét thoảng qua,
Cơ đồ họ Trịnh bỗng ra tro tàn.
Bia tiến sĩ vô can vô tội,
Mà vạ lây vì nỗi cháy thành,
Bia thì đạp đổ tung hoành,
Nhà bia thì đốt tan tành ra gio.

Có kẻ nói:
Tội ác ấy là do Trịnh Khải,
Lúc sa cơ hắn phải trốn ra.
Dặn về thuê kẻ côn đồ,
Phá bia tiến sĩ để cho bõ hờn.

Có kẻ nói:
... Hay chăng quân lính nhà Ngài
Trong khi xung sát ra oai thi hùng.
Bia tiến sĩ bỗng không mà đổ...

...

Chúng tôi chiếu lại hai lời ấy.
Sự thực hư chưa thấy rạch ròi.
Song le việc đã qua rồi,
Chẳng chi bới móc tìm tòi uổng công.
Chỉ xin được Ngài trông vì nước,
Dựng lại bia cho được y nguyên.
Trước là giáo dục kẻ hiền,
Sau là văn mạch dõi truyền dài lâu.
...
Chúng tôi kịp trông chờ chiếu ngọc
Mong ngài vào nhà quốc học ngay cho!
Chúng tôi mừng vận nhà nho
Mừng hơn cày cấy
Trời cho được mùa ./.


https://static.panoramio.com/photos/original/36188488.jpg

Chitto
31-05-2010, 16:39
Quang Trung đã phê lại cũng bằng một bài thơ Nôm, rất độc đáo



Ta không trách nông phu
Ta chỉ gớm thầy Nho
Cả gan, to mật, dám kêu vua bằng “Ngài”.
Thầy Nho là ai?
Sắc cho Bộ hỏi, dân khai!

Thôi thôi thôi, việc đã rồi
Trăm nghìn hãy cứ trách bồi vào ta!
Nay mai dọn lại nước nhà
Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Cơ đồ họ Trịnh đã tan
Việc này cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải...

Bài thơ này đã nhận lỗi về mình, không đổ oan cho Trịnh Khải.

Hai bài thơ thú vị ở chỗ: nhà Nho kia chỉ gọi Quang Trung bằng "ngài", chứ không dùng từ "Bệ hạ", "hoàng thượng" như lễ nghi dành cho hoàng đế. Có thể thấy lúc đó trong lòng dân Bắc hà vẫn nhớ đến nhà Lê, và Quang Trung thực sự vẫn chưa được coi như vua của họ.
Quang Trung cũng biết điều ấy, nhưng cũng chỉ trách cho vui chứ không để tâm. Ngay trong chính bài đáp của mình, ông cũng chỉ tự xưng là "Ta" chứ không dùng từ "Trẫm", để thể hiện sự phóng khoáng này.


Dù đã làm chủ cả Bắc hà, Quang Trung biết rằng lòng người chưa hoàn toàn thuận về mình ngay, hơn nữa phía Nam còn có Nguyễn Ánh, và ông anh trai Nguyễn Nhạc. Do đó Quang Trung nhanh chóng quay về Huế, để tướng giữ Thăng Long. Ông dự định xây dựng Vinh thành Kinh đô mới của mình, nằm giữa Huế và Thăng Long, nhưng chưa kịp thì đã qua đời.

Từ đây (1789), Thăng Long trở thành Cố đô, chỉ còn là toà thành Tổng Trấn - Bắc Thành mà thôi. Địa vị Kinh đô đã không còn nữa, bắt đầu một thời kỳ suy tàn...

Chitto
01-06-2010, 00:49
Vậy là triều Lê, sau hơn 360 năm tồn tại, đã chính thức chấm dứt. Trong khoảng thời gian đó, có hơn 60 năm Thăng Long nằm trong tay họ Mạc, và 200 năm quyền bính nằm trong tay họ Trịnh. Các vua triều Lê có tên phố hiện nay tại Hà Nội chỉ gồm Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông.

Sau 780 năm, Thăng Long mất vị thế kinh đô.

Vua Quang Trung cũng không thay đổi gì nhiều với Thăng Long, tuy gọi là Bắc Thành, nhưng vẫn giữ nguyên phủ Phụng Thiên, cái tên vốn dành cho phủ ở Kinh đô. Trong những người nắm quyền giữ Bắc Thành có Ngô Thì Nhậm là sĩ phu Bắc hà, nên Thăng Long vẫn giữ được những nét văn hoá riêng truyền thống.

Quang Trung đang xây dựng những kế hoạch lâu dài cho triều đại của mình, lấy quê gốc Nghệ An làm kinh đô, thì đột ngột qua đời ở tuổi 39 (năm 1892, ba năm sau chiến thắng Kỷ Dậu). Tất cả những hoài bão đổ sụp theo.

Quang Toản lên nối ngôi cha khi mới 10 tuổi. Các tướng lĩnh của Quang Trung vốn rất tài ba, nhưng khi vị vua anh hùng đã mất, thì liền mâu thuẫn nhau, đánh giết lẫn nhau, triều Tây Sơn suy sụp nhanh chóng.

Tại Thăng Long, quan lại Tây Sơn suy thoái, rơi vào ăn chơi phung phí, như bài thơ của Nguyễn Du mô tả:



Tây Sơn quan khách đầy tòa
Say mê, nghiêng ngả, la đà thâu đêm...
Quanh tiệc rượu, kẻ khen, người thưởng.
Tiền bạc quăng, coi tưởng như bùn...

Trong 10 năm sau đó, Nguyễn Ánh - vị chúa Nguyễn từng bị Quang Trung đánh đuổi nhiều lần - đã quay lại khôi phục cơ đồ, từ Nam tiến ra. Quang Toản bỏ chạy khỏi Huế, ra Thăng Long, để rồi bị bắt năm 1802. Triều Tây Sơn chấm dứt chỉ trong có 14 năm. Thăng Long lại đổi chủ lần nữa.

Chitto
01-06-2010, 01:15
Nguyễn Ánh lên ngôi, tức là vua Gia Long, đã trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn bạo nhất có thể. Tất cả những gì liên quan đến Quang Trung đều cố gắng xoá bằng sạch. Mọi người liên quan đến "Nguỵ Huệ" đều bị xử tội, mọi văn bản đều bị tiêu huỷ, mọi cung điện đều bị san bằng, mồ mả bị khai quật. Các đời sau là Minh Mạng, Thiệu Trị cũng vẫn tiếp tục, ai cất dấu di sản Tây Sơn, thờ cúng nhà Tây Sơn đều bị giết cả nhà.

Ấy thế nhưng chính trong sự đàn áp đó, ở ngay giữa Thăng Long lại có một pho tượng thờ Quang Trung được tạo dựng, đó là pho tượng ở chùa Bộc.

Ở ngôi chùa miền Bắc nào cũng có pho tượng Đức Ông, tức là vị thần bảo vệ chùa. Pho tượng Đức Ông chùa Bộc được tạc rất đặc biệt, chân phải bỏ ra khỏi giày, co lên thoải mái, tay cầm vạt áo. Bên dưới lại có hai vị quan ngồi hầu cũng trong tư thế lạ lùng, như đang ngồi bàn việc với Đức Ông. Bên trên có một chữ "Tâm", và bốn chữ "Uy phong lẫm liệt".

Điều đặc biệt hơn, là hai bên tượng có đôi câu đối, mà câu bên trái là "Quang trung hoá Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân". Bốn chữ "Quang trung hoá phật" trong kinh Phật để ca ngợi Phật A Di Đà, hoá thân trong ánh hào quang chói lọi. Tuy nhiên nếu đọc theo cách khác thì lại có thể hiểu là vua Quang Trung đã hoá Phật (đã qua đời), cả nghìn thế giới đều chuyển mây gió (để tiễn đưa).

Chính vì cách chơi chữ này nên mặc dù treo ngay trước mặt quan quân triều Nguyễn, không ai phát giác ra.

Đến cách đây mấy chục năm, khi di chuyển tượng, mới phát hiện dòng chữ "... tạo Quang Trung tượng" dấu đằng sau bệ tượng, khẳng định đây chính là tượng thờ Quang Trung. Đây có lẽ là pho tượng thờ lén đặc biệt nhất của Hà Nội.


https://static.panoramio.com/photos/original/36098474.jpg

Chitto
01-06-2010, 18:16
Lê Ngọc Hân được phong là Bắc Cung hoàng hậu, nhưng có bà Chính cung hoàng hậu mới là mẹ của Quang Toản. Ngọc Hân có được hai con, một trai một gái thì Quang Trung qua đời, khi đó hoàng hậu mới 22 tuổi. Sử sách không ghi, nhưng cũng có thể đoán là bà không được sung sướng gì khi bà Chính cung và Quang Toản nắm quyền, nên ba mẹ con phải rời khỏi cung mà ra ở một ngôi chùa cạnh mộ Quang Trung. Để rồi 7 năm sau Ngọc Hân cũng mất khi mới 29 tuổi. Hai người con của bà trong loạn lạc cũng chết khi mới trên 10 tuổi.

Tây Sơn sụp đổ, Gia Long cho san phẳng mộ ba mẹ con. Mẹ của Lê Ngọc Hân là bà Chiêu nghi vợ vua Lê Hiển Tông, dù triều Lê lẫn Tây Sơn đã đổ, vẫn còn gia sản điền trang ở Ninh Hiệp. Thấy con gái chết tha hương, mới sai người lén vào Huế đào lấy xương cốt con và hai cháu, đem về làng mình chôn cất. Mộ Ngọc Hân nằm giữa, hai con nằm hai bên, lại đổi tên mà lập đền thờ, để lại ruộng hậu cho dân làng cúng tế.

Hơn 30 năm sau, có kẻ tố giác việc "Nguỵ hậu" được mồ yên mả đẹp, có người cúng tế hẳn hoi. Thế là vua Thiệu Trị sai quan phá huỷ đền, đào mộ Ngọc Hân và hai con lấy xương cốt vứt xuống sông, đào đất xung quanh đổ đi, san bằng để cỏ mọc hoang.

Truyền thuyết nói rằng hài cốt Ngọc Hân trôi ra sông Hồng, đến gần bến Bồ Đề thì nổi lên. Người dân rước vào bãi sông chôn kĩ rồi lập đền thờ lên trên. Nhưng để che dấu, họ phải nói là đền thờ Mẫu Thoải. Ngày nay đó chính là đền Ghềnh, gần chùa Bồ Đề. Pho tượng Mẫu Thoải trong hậu cung của đền chính là tượng Lê Ngọc Hân.

Lòng người Bắc hà với triều Tây Sơn là như thế. Trong thời nhà Nguyễn trả thù Tây Sơn, ở khắp miền đất nước có nơi nào được như thế chăng ? Bà Chính cung hoàng hậu, vua Quang Toản, trên đất miền Trung, miền Nam, trong thời Nguyễn, chẳng có nơi nào dám thờ cúng.

Đền Ghềnh, nơi thờ lén hoàng hậu Lê Ngọc Hân


https://static.panoramio.com/photos/original/36103024.jpg



.

Chitto
02-06-2010, 00:54
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, niên hiệu Gia Long, diệt Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, thống nhất đất nước sau 300 năm chia cắt. Lần đầu nước Việt trải dài từ Móng Cái đến Cà Mau. (Trước đó Quang Trung cũng rất muốn thống nhất đất nước, nhưng do ông anh trai Nguyễn Nhạc cũng xưng hoàng đế giữ Quy Nhơn, không thể loại bỏ anh được). Kinh đô đặt tại Huế.

Ở Trung Quốc vừa trải qua triều Càn Long, đang là triều Gia Khánh, phải chăng vì thế mà Nguyễn Ánh chọn hiệu là Gia Long ?

Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long cầu phong với Trung Quốc, xin cái tên nước là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh thấy tên đó của Triệu Đà ngày xưa gồm cả Lưỡng Quảng, nên mới đổi là Việt Nam. (Nhưng đến 1820 thì Minh Mạng lại đổi là Đại Nam).

Năm 1804, vua Tàu sai sứ sang phong Gia Long làm An Nam quốc vương. Đó là cuộc lễ nghi rầm rộ nhất của Thăng Long trong triều Nguyễn. Hoàng cung triều Lê mà trung tâm là điện Kính Thiên được trang hoàng rực rỡ để đón nhận "Long đình", nơi Gia Long nhận quả ấn bạc "An Nam quốc vương chi bảo".

Nhưng ngay sau buổi đại lễ đó, cái tên Thăng Long thì chữ Long là Rồng đã bị đổi sang Long là hưng thịnh (cũng là chữ Long trong Gia Long). Tuy nhiên trừ chữ viết trên giấy tờ, thì cách đọc không đổi. Phủ Phụng Thiên bị xoá bỏ, vì tại Kinh thành Huế đã có phủ Thừa Thiên. Thăng Long là thành Trấn Bắc, quản lý toàn bộ miền Bắc, lập ra các Tào tương tự như các bộ ở Huế để quản lý mọi việc. Tổng trấn Bắc thành có quyền rất lớn, tự chủ trong nhiều việc.

Chitto
02-06-2010, 01:21
Năm 1805, Gia Long xoá phủ Phụng Thiên, phá hoàn toàn Hoàng thành của triều Lê.

Vì ở Huế xây dựng Kinh thành và Hoàng thành, nhưng quy mô nhỏ hơn thành Thăng Long, nên Gia Long bắt hạ toàn bộ hoàng thành, thay đổi cả La thành ở Thăng Long, sao cho phải nhỏ hơn, thấp hơn ở Huế.

Thế là toà thành cổ với những nền móng có từ thời Lý - Trần đã bị triệt hạ hoàn toàn. Trong khu hoàng thành cũ, triều Nguyễn cho xây một toà Trấn thành mới nhỏ hơn, theo kiến trúc Vauban, cũng là kiến trúc thành Huế. Quanh toà Trấn thành đào hào, lấy nước sông Tô Lịch đổ vào. Các cung điện trong Hoàng thành của triều Lê, ngoại trừ điện Kính Thiên được để lại làm Hành cung khi vua ra Bắc, còn thì đều bị dỡ sạch. Gỗ đá còn tốt thì đem về Huế để dựng cung điện tại đó.

Tại phía Nam của Trấn thành Vauban, toà Cột cờ cao gần 40 m được xây dựng, trở thành công trình cao nhất tại đây trong hơn trăm năm. Kiến trúc cột cờ này còn gặp ở thành Bắc Ninh, Sơn Tây, Nam Định.

Vòng thành ngoài cũng bị thu hẹp lại. Toàn bộ phần phía Tây của thành Thăng Long, nơi có dinh thự các quan, tập trung quân lính, voi ngựa bị loại bỏ, trở thành bên ngoài vòng thành mới. Các cổng thành trở thành các Cửa ô, mà đến nay chỉ còn duy nhất một cửa.


Bản đồ thành Thăng Long vẽ thời Nguyễn, sau khi vòng thành ngoài bị thu hẹp, và Hoàng thành cũ bị phá, thay vào đó là Trấn thành kiểu Vauban mới. Sông Tô Lịch vẫn chảy ngang, đổ ra sông Hồng ở Hà Khẩu


https://static.panoramio.com/photos/original/36242731.jpg

Chitto
02-06-2010, 09:16
Trước kia La thành triều Lê có bao nhiêu cửa, không có ghi chép rõ.

Đến khi nhà Nguyễn quy hoạch lại Thăng Long, bỏ phía Tây đi, thì có đến hơn 20 cửa, từ đời Lê các cửa thành ngoài đã gọi là các cửa ô. Đến đầu những năm 1900 ghi chép còn lại tên chính thức của 16 cửa ô. Vì có các cửa ô nên mới có khái niệm Nội ô và Ngoại ô.

Từ Ngoại ô thì sau được dùng phổ biến khắp cả nước, mặc dù hình như chả có nơi nào dùng từ Cửa ô cả.

Một toà thành nếu nhằm mục đích quân sự, thì không thể mở nhiều cửa đến thế, nhưng vòng ngoài thành Thăng Long lúc này (từ 1831 đổi là Hà Nội) mang tính hành chính, dân sự nhiều hơn. Các cửa được xây vòm, có lầu ở trên, là để kiểm soát dân chúng ra vào. Còn quân đội thì đóng trong Trấn thành.

Vị trí của các cửa ô còn được ghi lại tên chính xác thời Nguyễn màu đỏ, màu xanh là tên dân gian vẫn còn lại đến nay. Có thể thấy ô Cầu Giấy xưa của triều Lê đã nằm xa bên ngoài vòng thành triều Nguyễn. Nhiều cửa ô bị thay đổi tên vài lần.


https://static.panoramio.com/photos/original/36245836.jpg

Chitto
02-06-2010, 09:56
Thời đó, giao thông đi lại bằng đường bộ vẫn rất khó khăn, từ Thăng Long vào Huế phải mất hơn một tháng. Đường bộ lại không vận chuyển hàng hoá được nhiều, do đó đường thuỷ vẫn là thuận lợi hơn cả.

Vì Thăng Long là đô thị giao thương, nên ở phía giáp sông Hồng các cửa ô được mở dày đặc. Còn phía Tây thì rất thưa thớt. Chỉ có ô Thanh Bảo để ra Cầu Giấy đi về Sơn Tây. Con đường đó cũng được gọi là đường Sơn Tây vì thế.

Bức tranh người Pháp vẽ về cửa ô bên bờ sông Hồng, nơi có bến thuyền giao thương. Tường thành không lớn và cao lắm, xây gạch và đắp đất, chủ yếu để kiểm soát người dân hơn là để phòng ngự quân sự.


https://static.panoramio.com/photos/original/36242751.jpg

Chitto
02-06-2010, 12:36
Vua Gia Long, vốn có giao thiệp với người Pháp từ sớm, rất chuộng kiểu thành của Thống chế Vauban người Pháp, nên kinh thành Huế, Trấn thành Thăng Long ở phía Bắc, Trấn thành Gia Định ở phía Nam, và một số thành khác đều xây kiểu này. Thành Vauban có tường thành liên tục nhô ra thụt vào, để dễ dàng đứng trên bắn xuống yểm trợ cho nhau.

Trấn thành được thu hẹp từ Hoàng thành, đào hào bốn phía, lấy nước Tô Lịch đổ vào. Thành gần hình vuông, mỗi chiều dài khoảng 1,3km, tường cao khoảng 4m, hào rộng 15m. Dưới chân thành xếp đá, trên xây tường gạch, ở giữa đổ đất. Có 5 cửa thành, phía Nam có 2 cửa là Tây Nam và Đông Nam. Trong số đó chỉ Cửa Bắc là còn lại đến nay. Cửa Đông ứng với phố Cửa Đông, cửa Tây Nam là khu Cửa Nam hiện nay. Cửa cao hẳn lên, khoảng 10m, trên xây lầu.

Các cung điện triều Lê, trước đó cũng đã bị tan hoang trong chiến tranh, nay bị phá dỡ hết. Chỉ còn lại Đoan Môn, điện Kính Thiên, lầu Tĩnh Bắc là để lại. Phía Nam dựng Cột cờ làm đài quan sát. Các chỗ khác làm nơi đóng quân, dựng nha sở cho các quan lại.

Toà trấn thành này cũng bị người Pháp phá nốt năm 1895.


https://static.panoramio.com/photos/original/36242738.jpg

Chitto
02-06-2010, 12:38
Cửa Bắc của Trấn thành, bên ngoài dựng một cây cầu bắc qua hào nước. Kiến trúc này khá giống cổng thành Huế. Đây là cửa duy nhất còn lại đến nay.


https://static.panoramio.com/photos/original/36257893.jpg

Chitto
02-06-2010, 13:24
Ở phía Nam của Trấn thành, trên cùng trục Cửa Bắc - Hậu Lâu (lầu Tĩnh Bắc) - Kính Thiên - Đoan Môn, dựng Cột cờ (Kỳ đài) từ năm 1805 đến 1812 mới xong.

Cột cờ gồm chân đế 3 tầng hình vuông, thân cột tám cạnh, trên cùng là chòi quan sát và cột cắm cờ. Toàn bộ Cột cờ cao 34m, cho đến năm 1930, tháp chuông nhà thờ Cửa Bắc mới vượt chiều cao này.


https://static.panoramio.com/photos/original/36257899.jpg

Từ đỉnh Cột cờ nhìn xuống, Đoan Môn ở xa, phía sau là Kính Thiên. Các cung điện cũ của triều Lê đã bị san bằng. Ngày nay phần đất này chính là sân vận động Cột cờ, và sẽ chuyển thành sân tổ chức lễ hội.


https://static.panoramio.com/photos/original/36257905.jpg


Từ Đoan Môn nhìn xuống điện Kính Thiên, thời Nguyễn là hành cung Trấn Bắc


https://static.panoramio.com/photos/original/36262326.jpg

Chitto
02-06-2010, 19:36
Có lẽ chưa ở đâu, bao giờ trên nước Việt lại chứng kiến sự thay đổi nhiều và nhanh đến thế, khi mà tại Thăng Long, chỉ trong 16 năm, có sự xuất hiện của 5 vị hoàng đế mới của 3 triều đại, sự lập và phế của 3 vị chúa Trịnh, xảy ra 7 cuộc chiến tranh biến loạn, 3 dòng họ bị tận diệt.

Thành quách cung điện, phủ chúa, dinh thự, đền chùa tan tành đổ nát, cơ nghiệp các triều đại tan thành mây khói. Những biến động của thế sự đảo điên này khiến nhiều người hoang mang vô định, hoài cổ vô hạn.

Có lẽ bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà huyện Thanh Quan đã nói lên những tâm tư của một số sĩ phu đau buồn với thời cuộc, mà hoài vọng thuở nhà Lê



Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.


https://commondatastorage.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/36262319.jpg

Chitto
02-06-2010, 19:45
Bà huyện Thanh Quan còn một bài thơ nữa về Thăng Long, cũng thể hiện nỗi đau buồn tang thương trước thời cuộc, là bài "chùa Trấn Bắc"



Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu

Bài này còn nhiều dị bản, như



Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Khiến người qua đó chạnh lòng đau
Dưới hồ sen rót hơi hương ngự
Trên vách rêu in nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ còn đâu tá
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu.

Chitto
02-06-2010, 22:15
Trong các thi nhân Việt Nam, Nguyễn Du cũng là người đã viết những vần thơ rất buồn về sự thay đổi của Thăng Long.

Nguyễn Du sinh ra ở Thăng Long, cha và anh cả thay nhau làm Tể tướng dưới thời vua Lê chúa Trịnh, nên thuở nhỏ ông sống trong nhung lụa, là công tử trong gia đình quyền quý bậc nhất triều Lê. Anh cả của Nguyễn Du là người chuộng hát xướng, tao nhã nổi tiếng, các quý tộc tranh nhau bắt chước lối sống, cho nên Nguyễn Du cũng rất am hiểu nghệ thuật.

Quang Trung ra Bắc lần đầu, ông 20 tuổi, họ Trịnh sụp đổ. Ba năm sau triều Lê cũng đổ, Nguyễn Du có lòng với nhà Lê nên tránh Tây Sơn mà về quê, dù cũng có lúc lên Thăng Long, chứng kiến cuộc sống tại Thăng Long đã đổi thay thế nào.

Tây Sơn đổ, triều Nguyễn gọi Nguyễn Du ra làm quan. Sau đó Gia Long cử ông đi sứ Trung Quốc. Sau gần 20 năm, ông mới về lại thành xưa. Chứng kiến sự đổi thay, dinh thất gia tộc giờ đã không còn, bạn cũ một nửa đã qua đời, mà làm nên những vần thơ buồn:

(Thơ chữ Hán, dịch tạm)



Núi Tản sông Lô mãi vẫn cùng
Bạc đầu mới được thấy Thăng Long
Nghìn năm dinh thất thành đường sá
Một mảnh tân thành lấp cố cung

...



Một mảnh trăng xưa rọi tân thành
Đây vẫn Thăng Long cựu đế kinh
Đường sá dọc ngang mờ dấu cũ
Tiếng sáo bây giờ đổi âm thanh
Nghìn năm phú quý tranh nhau đoạt
Một nửa bạn xưa đã thác sinh
Thế sự nổi chìm đừng than nữa
Mái đầu ta cũng đã trắng tinh

Chitto
02-06-2010, 22:42
Nguyễn Du đã kể lại một câu chuyện buồn, và viết bài thơ Long Thành cầm giả ca cũng buồn như thế:

Trước trong đội nữ nhạc hầu trong cung vua Lê có người con gái chơi đàn rất hay, những khúc đàn, giọng ca của nàng chỉ dành để hầu vua. Khi Tây Sơn ra Bắc, nhà Lê đổ, đội nữ nhạc cung đình cũng tan tác, người chết kẻ còn. Người con gái kia ôm đàn ra chợ hát rong, toàn những khúc ca dân gian chưa ai được nghe thấy bao giờ. Không rõ tên nàng là gì, người ta gọi nàng là Cầm (người chơi đàn).

Trong lần ra Thăng Long, trọ ở gần hồ Giám (hồ Văn Miếu bây giờ), Nguyễn Du đến một bữa tiệc do các quan lại Tây Sơn tổ chức. Tiệc rượu tụ tập hàng chục ca nương nổi tiếng, trong đó nàng Cầm là nổi danh đệ nhất, hát hay đàn giỏi, lại khéo pha trò. Mọi người đều mê mẩn nàng Cầm, chuốc cho nàng những chén rượu lớn, lại thưởng cho vàng lụa rất nhiều, rải đầy mặt đất. Nguyễn Du còn gặp nàng lần nữa, tuy không thật đẹp nhưng khéo trang điểm, thích pha trò, uống rượu có say mà nằm dài, nôn ra nhà quan cũng không ai dám chê trách.

Sau đó Nguyễn Du vào Nam, theo nhà Nguyễn. Gần hai mươi năm sau, nhân lần đi sứ mới quay lại Thăng Long. Các quan ở Bắc thành mở tiệc chiêu đãi, có nhiều con hát trẻ thay nhau ca múa. Bỗng từ dưới cất lên tiếng đàn, nghe khác hẳn giọng đàn đương thời. Nhìn ra thì thấy người đàn bà chơi đàn gầy võ, khô khan, xấu xí đen đúa, quần áo rât tiều tuỵ, ngồi lặng ở cuối chiếu.

Nguyễn Du không nhận ra là ai, nhưng nghe tiếng đàn quen, cuối tiệc mới hỏi, thì ra đó là nàng Cầm danh tiếng thuở nào, nay đến nỗi này. Cảm thương khôn xiết cho sự đổi thay cõi đời, khi từ biệt ông làm bài thơ Long Thành cầm giả ca để gửi nỗi lòng.

Bài thơ chữ Hán khá dài, tác giả không chỉ khóc thương cho số phận một con người tài hoa, mà còn là số phận của cả hai triều đại Lê và Tây Sơn, trăm năm cuối cùng chỉ còn lại một người con hát này...

Một đoạn thơ, trong toàn bài do Tố Hữu dịch



...
Hai mươi năm trước, ai ngờ,
Tiệc vui hồ Giám, bây giờ thấy nhau?
Biết bao chìm nổi biển dâu,
Đổi dời thành quách, khác mau việc đời.
Tây Sơn cơ nghiệp tan rồi,
Chỉ còn sót lại một người múa ca.
Trăm năm chớp mắt ngày qua,
Đau lòng việc cũ, xót xa lệ sầu.
Nam ra, ta đã bạc đầu,
Trách gì người đẹp sắc màu tàn phai.
Nhớ xưa, mở mắt nhìn ai,
Thương thay giáp mặt, cả hai ngỡ ngàng...

Chitto
03-06-2010, 23:28
Nhà Nguyễn tôn sùng Nho giáo, nên Văn Miếu Thăng Long rất được coi trọng. Dưới triều Gia Long, cổng Văn Miếu Môn được dựng lại khang trang bề thế, hai bên đắp nổi hình bảng rồng và bảng hổ.

Trước giếng Thiên Quang giữa Văn Miếu, triều Gia Long dựng Khuê Văn Các, và đến nay trở thành biểu tượng của Hà Nội. Phía sau là điện Đại Thành và tượng thờ Khổng Tử có từ đời Lê, cũng được tu sửa lại khang trang. Có điều khu Quốc Tử Giám là nhà học đằng sau thì bị dỡ bỏ, bởi Quốc Tử Giám đã rời vào Huế, mà thay vào đó là toà điện thờ cha mẹ Khổng Tử.

Nhà Nguyễn - mà cụ thể là Gia Long - bắt chước theo Tàu quá mức ở nhiều mặt, cái gì cũng nhất nhất giống Tàu. Đến nỗi trong Văn Miếu trước kia có thờ cả Chu Văn An là nhà Nho tiêu biểu của nước nhà, thế mà Gia Long cũng bắt phải bỏ đi không cho thờ nữa, chỉ giữ lại các vị của Tàu thôi. Tương tự là Võ miếu trước có thờ Trần Hưng Đạo, cũng bắt phải bỏ đi, chỉ thờ các tướng võ của Tàu ! Thật cũng là cách nhìn hạn hẹp.

Cổng Văn Miếu dựng đời Nguyễn với tấm bia "hạ mã" vẫn còn đến nay. Đằng xa có cây bồ đề mấy trăm năm, giờ vẫn um tùm một góc tường Văn Miếu.


https://static.panoramio.com/photos/original/36257909.jpg

Chitto
03-06-2010, 23:31
Khuê Văn Các, biểu tượng của Hà Nội, công trình đầu thời Nguyễn.

Kiến trúc thời Nguyễn so với thời Lê khá đặc trưng ở phần mái thẳng, không uốn cong lên ở các góc, và sử dụng ngói ống thay cho ngói mũi hài truyền thống (cũng là nhất nhất học từ Tàu). Chính vì vậy có thể thấy mái của Khuê Văn Các lợp ngói ống khá cứng, nếu so với mái của điện Đại Thành ở xa phía sau lợp ngói mũi hài, đang cong lên nhẹ nhàng.


https://static.panoramio.com/photos/original/36257912.jpg

Chitto
04-06-2010, 12:35
Thời Gia Long, đất nước còn chưa ổn định, do đó ở hai đầu đặt hai "Thành" là Bắc Thành Thăng Long và Gia Định Thành, quản lý toàn bộ cả vùng. Đây chính là cơ sở để hình thành ba miền: Bắc lấy Thăng Long làm trung tâm, Trung lấy Huế làm trung tâm, Nam lấy Gia Định làm trung tâm.

Quan Tổng trấn còn là Kinh Lược sứ, gần như có toàn quyền quyết định các việc, gần như một vua nhỏ. Tổng trấn Bắc Thành quản lý diện tích rộng nhất và dân đông nhất, toàn bộ từ Ninh Bình trở ra gồm Bắc Thành, 5 nội trấn và 6 ngoại trấn.

Tổng trấn đầu tiên triều Nguyễn ở Bắc Thành là Tiền quân Nguyễn Văn Thành, người đã theo Gia Long từ rất sớm, từ trong hoạn nạn. Ông là tướng lại có tài về văn. Chính Văn Miếu môn và Khuê Văn Các là ông trực tiếp dựng.

Sau 5 năm ở Bắc Thành giữ yên được miền Bắc, ông về Huế. Nhưng chỉ vì một bài thơ hơi ngông của đứa con trai mà ông bị định tội, ông van xin Gia Long cứu mình nhưng vua đã có ý diệt công thần nên cho xét xử. Nguyễn Văn Thành uống thuốc độc tự tử trong ngục, con trai bị chém.



https://static.panoramio.com/photos/original/36336732.jpg

Chuyện của Nguyễn Văn Thành lại gợi nhớ về chuyện của Tổng trấn Bắc Thành thời Tây Sơn là Ngô Văn Sở. Sau khi Quang Trung mất rồi, triều đình Tây Sơn đảo lộn, tướng Vũ Văn Dũng cũng đã lừa Ngô Văn Sở về Huế để giết đi.

Như thế cả hai Tổng trấn Bắc Thành đầu tiên của triều Tây Sơn và Nguyễn đều bị chết thảm. Phải chăng vì cái quyền lực lớn quá của họ mà vua nào cũng nghi ngờ sợ họ phản mình? Một điều nữa là dân Bắc Hà trong lòng thường vẫn không phục, không hoàn toàn theo triều Quang Toản lẫn triều Nguyễn, nên các vua đều không an tâm với vị Tổng trấn uy quyền.

Chitto
07-06-2010, 21:28
Văn Miếu của Thăng Long - Hà Nội thì nổi tiếng quá rồi, sách báo nói suốt ngày, hiện nay đó là toà Miếu Quốc gia quan trọng nhất của Hà Nội và cả nước.

Tuy nhiên, các toà Miếu quốc gia ở Thăng Long xưa không chỉ có Văn Miếu, mà còn Thái Miếu, Võ Miếu, Y Miếu.

Dưới các triều đại thì Thái Miếu là Miếu quan trọng nhất, nơi thờ tổ tiên của vua. Mỗi triều đại mới lên sẽ thay Thái miếu triều cũ bởi tổ tiên của mình. Nhà Trần lên, Trần Thủ Độ dời hết bài vị các vua Lý sang Kinh Bắc để thờ tổ tiên họ Trần trong Hoàng thành. Nhà Hồ dời đô về Tây Đô, giặc Minh phá hết Thái Miếu nhà Trần. Nhà Lê cho dựng Thái Miếu ở phía Đông hoàng thành, đồng thời dựng toà Thái Miếu thứ hai ở Lam Kinh. Bản đồ Hồng Đức chỉ vẽ khu Thái Miếu chứ không có sách nào mô tả để ta biết nó ra sao.

Binh lửa tràn qua, Thái Miếu nhà Lê bị tàn phá. Nhà Nguyễn thu hẹp thành Thăng Long, đất Thái Miếu nhà Lê bị bỏ ra ngoài thành mới, trở thành đất hoang. Khu đó ở vào quãng từ chợ Hàng Da qua đến Lý Nam Đế bây giờ.

Thái Miếu nhà Nguyễn ở Huế thờ thuỷ tổ nhà Nguyễn, sau binh lửa giờ cũng chỉ còn lại nền móng. Như thế, trên đất nước ta giờ không còn toà Thái Miếu nào nữa.

Chitto
07-06-2010, 21:55
Thời Lý, Trần, không có toà Võ Miếu nào cả. Trong hoàng thành chỉ có điện Giảng Võ và điện Tập Hiền, là nơi quan võ và quan văn tập trung trước khi vào chầu vua.

Đầu thời Lê, cái tên Giảng Võ được dùng ở nhiều nơi, chỗ quân đội tụ tập, mà trong cung cũng có điện Giảng Võ. Qua đến thời chúa Trịnh, vua Lê không có quyền gì, nên không còn chuyện các quan văn võ vào chầu vua bàn việc nữa, các toà điện không còn tác dụng gì.

Có lẽ vì vậy mà Võ Miếu được dựng ngay trong hoàng thành. Trong Võ Miếu thờ Võ thánh của Tàu là Khương Tử Nha ở chính giữa, xung quanh có các danh tướng Tàu như Tôn Vũ, Quản Trọng, Khổng Minh, Quan Công, Nhạc Phi... Lưu ý là các Võ tướng ở đây không phải người trực tiếp vác gươm đao đánh nhau, mà là người hoạch định chiến lược quân sự. Cung cách thờ của Võ Miếu cũng như Văn Miếu thờ Khổng tử và các vị tiên hiền Nho giáo.

Cũng như Văn Miếu có thờ Chu Văn An, tại Võ Miếu có thờ cả Trần Hưng Đạo. Đó là hai vị Văn thánh và Võ thánh của nước ta.

Nhà Nguyễn chuyển vào Huế, cũng dựng Văn Miếu, Võ Miếu ở Huế. Ngoài ra ở phố Hiến (Hưng Yên) cũng có Văn, Võ miếu, nhưng Võ miếu Hưng Yên chỉ chuyên thờ Quan Công. Tại Huế, nhà Nguyễn lúc đầu chỉ thờ người Tàu, không thờ Chu Văn An và Trần Hưng Đạo, nên bắt các Văn Võ miếu khác cũng phải thế. Thế là bài vị thờ Văn thánh, Võ thánh người Việt bị loại bỏ.
(Võ Miếu Huế sau chỉ thờ thêm các tướng triều Nguyễn mà thôi).

Người Pháp khi vào thành đã từng mô tả cạnh Võ Miếu Thăng Long có một cây đa hàng trăm năm cực lớn "cành toả đến năm mươi bước về mỗi phía", cành rễ được uốn tạo thành hình kì lạ. Khi thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai, tổng đốc Hoàng Diệu đã đến đây và treo cổ lên ngọn cây đa này.

Người Pháp phá thành Hà Nội, Võ Miếu và cây đa cùng bị san bằng, hoàn toàn không còn dấu tích. Vị trí Võ Miếu có lẽ ở vào chỗ gần Bộ Ngoại giao ngày nay.

Chitto
07-06-2010, 22:33
Miếu Trung Liệt không phải là Quốc miếu, nhưng sau khi Võ Miếu bị san bằng, thì miếu này được coi như Võ Miếu thay thế. Tiếc rằng nay cũng gần như chẳng còn gì

Vốn ngay từ đầu thời Lê, toà miếu Trung Liệt được dựng để thờ vị đệ nhất công thần Lê Lai, đã bỏ mình cứu chúa. Đến đời Nguyễn, miếu dời lên trên đỉnh gò Đống Đa. Sau rồi các vị tướng nhà Nguyễn chết trận cũng đem về thờ ở đây. Hai vị tổng đốc Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu tử tiết với thành cũng được thờ tại miếu này. Người cuối cùng được lập bài vị thờ chính thức là vua Quang Trung, khi triều Nguyễn đã kết thúc.

Nhưng rồi chiến tranh tàn phá miền Bắc, toà Trung Liệt miếu cũng hoàn toàn bị phá huỷ.

Chỉ còn toà cổng miếu vẫn sừng sững nằm trên lưng chừng gò Đống Đa.


Trung Liệt Miếu, ảnh chụp năm 1940


https://static.panoramio.com/photos/original/36242708.jpg

Và toà cổng hiện nay, trên đỉnh gò chỉ còn nền móng của toà miếu xưa. Nhiều người hiện nay muốn dựng lại miếu Trung Liệt, như là toà Võ Miếu người Việt.


https://static.panoramio.com/photos/original/36098463.jpg

Chitto
07-06-2010, 22:56
Văn Miếu rồi, Võ Miếu rồi, hai cái này thì ở Huế cũng có. Nhưng còn cái thứ ba là Y Miếu thì hỉnh như chỉ mỗi ở Thăng Long mới có !

Y Miếu dựng đời Lê Hiển Tông trên khu đất của Thái Y viện thời Lê, để thờ các vị Y thánh. Cũng không khác thiết chế chung của mấy toà miếu kia, đầu tiên cũng phải là các vị của Tàu cái đã. Chính điện Y Miếu thời Lê thờ Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, ba vị vua tối cổ của Tàu. Trong truyền thuyết, Phục Hi được coi là người nghĩ ra thuyết Âm Dương, vẽ ra bát quái, là cơ sở triết học Trung Hoa. Thần Nông là người nếm các loại lá cây, rễ cây để làm thuốc cứu người, Hoàng Đế viết Nội kinh, phân chia đường Kinh, đường Lạc, các huyệt. Ba vị này coi như Thuỷ tổ tối thượng của Đông Y.

Bên dưới thờ các vị Tiên Y của Tàu: Biển Thước, Hoa Đà, Lý Thời Trân... Cũng như Văn Miếu thờ thêm Chu Văn An, Võ Miếu thờ thêm Trần Hưng Đạo, trong Y Miếu cũng thờ hai vị Y thánh người Việt là Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông.

Thời Nguyễn, Y Miếu được trùng tu, nhưng sau đó lại hoang phế khi nền Tây y thâm nhập và phát triển. Ngày nay Y Miếu nằm sâu trong chợ Ngô Sĩ Liên, nhà dân lấn sát xung quanh, chỉ còn một mảnh nhỏ. Nhưng dù sao cũng may mắn hơn nhiều so với Võ Miếu, Thái Miếu triều Lê.


Cổng vào Y Miếu trong chợ Ngô Sĩ Liên, bên trong chen chúc nhà dân.


https://static.panoramio.com/photos/original/36480196.jpg

Gian chính thờ bài vị Tam hoàng đặt trong bộ khám thờ có từ đời Lê, hai bên có hai bài vị lớn của Đại Y Thiền sư Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông. Tấm hoành phi viết "Y đức cao minh"; với nghề Y, phải trước tiên là cái đức của thầy thuốc.


https://static.panoramio.com/photos/original/36480212.jpg

Chitto
08-06-2010, 10:35
Các triều đại mới lên, chắc chắn đổi niên hiệu, cùng với đó là đúc và ban hành tiền mới. Trong dân chúng thường lưu hành tiền của nhiều niên hiệu, loại bằng đồng thì giá trị hơn tiền bằng kẽm, và tích trữ lâu năm không hỏng.

Ở Đàng Ngoài có mỏ đồng, nên việc đúc tiền không khó khăn, nhưng Đàng Trong không có, nên phải mua hoặc thu thập đồng từ các nơi đúc tiền. Triều Lê xưởng đúc tiền đặt ở khu Nhật Chiêu (nay là Nhật Tân) và ô Cầu Dền. Thời Quang Trung đúc tiền nhẹ hơn nên lưu thông rất rộng và tiện.

Nguyễn diệt Tây Sơn, thành Huế tan hoang, phường đúc ở Huế ly tán hết. Do đó vua Gia Long phải cho đúc tiền tại Thăng Long, sau đó mới đúc ở Huế. Năm 1808, khu đất phía Đông Nam hồ Hoàn Kiếm được dùng làm xưởng đúc tiền, gọi là Bảo Tuyền Cục, bên ngoài có lính canh gác cẩn mật. Để tránh tình trạng ăn cắp, nhà Nguyễn chỉ cho phụ nữ vào làm, cuối ngày đi ra lính gác lại kiểm tra, tạo nên những chuyện thị phi.

Khu xưởng đúc tiền đó, vì thế được gọi là Trường Tiền, hay Tràng Tiền.

Sau này người Pháp phá xưởng đúc tiền, mở con phố Tây mà nay là phố Tràng Tiền.

Những đồng Gia Long thông bảo, gồm tiền đồng và tiền kẽm


https://static.panoramio.com/photos/original/36342280.jpg

Chitto
08-06-2010, 13:47
Văn Miếu là biểu tượng của Nho giáo, thì Thi cử chính là Thiết chế của Nho học. Chế độ khoa cử của ta bắt chước Tàu, khỏi nói. Có ba kì thi: Hương, Hội, Đình.

Các sĩ tử được quan địa phương xác nhận mới được đăng kí một kì thi sát hạch tại các trấn (sau là tỉnh), qua được kì sát hạch thì mới bước vào thi Hương. Thi Hương gồm 4 vòng thi, mỗi vòng làm bài trong 1 ngày từ sáng đến tối. Thi xong vòng nào chấm luôn vòng đó, qua rồi mới được vào vòng trong. Kì thi Hương vì thế kéo dài cả tháng. Ai chỉ qua được 3 vòng thì là Tú tài, qua được cả 4 là đỗ thi Hương, là Cử nhân (hương cống).

Thi Hội tổ chức tại kinh đô, cũng gồm 4 vòng, qua được cả 4 mới vào thi Đình, đỗ mới thành Tiến sĩ (hoàng giáp, ông nghè), còn nếu không lại trở về làm ông Cử nhân mà thôi.

Thi Hương tổ chức ở một số tỉnh lớn, thi Hội ở Kinh đô, thi Đình ngay trong cung vua. Thời Lê, tại Thăng Long thì trường thi Hương ở khu Quảng Bá, trường thi Hội ở phía Thủ Lệ, bản đồ Hồng Đức ghi rõ là Hội thí.

Khi Thăng Long không còn là kinh đô, nhà Nguyễn dời trường thi Hương về phía Tây Nam của hồ Hoàn Kiếm, gọi là Trường Thi - Tràng Thi. Ngày nay là khu Thư viện Quốc gia.

Tràng Thi chỉ là bãi đất trống có đánh luống để sĩ tử cắm lều che mưa nắng, đặt cái chõng trong cái lều đó làm bài trong 4 vòng (nên gọi chung là "lều chõng"). Có các chòi cao để giám thị đứng trên trông xuống. Vì ba năm mới thi một lần, nên lúc không có thi, bãi đó vẫn cho dân vào cày cấy trồng trọt bình thường.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa

Cảnh trường thi Hương ở Nam Định năm 1897, trường thi ở Thăng Long thì cảnh quan cũng y như thế


https://static.panoramio.com/photos/original/36342209.jpg

Chitto
08-06-2010, 23:07
Thời Gia Long, ở Thăng Long có việc di dời đền Hai Bà Trưng.

Trước kia đền thờ Hai Bà Trưng dựng ở bãi Đồng Nhân phía ngoài đê sông Hồng. Đến năm 1819, bãi sông lở, dân làng dời đền vào khu đất cạnh chùa Viên Minh.

Trước đó, bãi đất này thuộc về Trường võ, nơi quân triều Lê luyện tập, nên đất trống rộng rãi. Sau khi dời đền, dựng lại to đẹp hơn trước, dân làng đào một hồ bán nguyệt khá rộng ngay trước đền để tạo thành Minh đường, cũng gọi là hồ Đồng Nhân. Sau đó đình làng cũng được dựng ngay bên cạnh đền. Đến nay, đây là quần thể Đình - Đền - Chùa hoàn chỉnh có quy mô lớn nhất ở Hà Nội.

Cũng vì ngôi đền thiêng này, quận này được gọi là quận Hai Bà Trưng, một trong bốn quận nội thành cũ của Hà Nội.


Đền Hai Bà Trưng bên bờ hồ Đồng Nhân


https://static.panoramio.com/photos/original/36527212.jpg

Sân đền nay trở thành nơi vui chơi của dân cư


https://static.panoramio.com/photos/original/36527229.jpg

Chitto
09-06-2010, 13:55
Năm 1820, Gia Long mất, vua Minh Mạng nối ngôi.

Thời Gia Long, quyền lực trung ương chưa đủ mạnh, mới lập hai trấn Bắc Thành và Gia Định Thành, hai Tổng trấn thay vua có quyền quyết định hầu hết mọi việc. Tại Trấn Bắc thành còn lập ra đủ 6 Tào, tương tự 6 Bộ ở Huế, có quyền đúc tiền, điều động binh mã các trấn, thu thuế, phong quan.... Đến Minh Mạng, quyền lực trung ương đã vững, liền bỏ hai Trấn đó. Từ nay chia thành các Tỉnh, và các tỉnh chỉ chịu điều khiển trực tiếp từ Vua mà thôi.

Thế là Trấn Bắc Thành bị bỏ. Cái tên Thăng Long cũng bị xoá, sau 810 năm tồn tại.

Địa giới chia lại, và lập ra Tỉnh Hà Nội, với địa giới gần như nằm giữa hai sông: sông Hồng và sông Đáy. Toà thành Thăng Long xây thời Gia Long lại bị phá cho thấp bớt đi, và gọi là Thành Hà Nội, cấp độ cũng chỉ tương đương như các thành Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Dương.

Vị quan cai quản Thăng Long trước đó là Tổng Trấn Kinh lược sứ, mà người phương tây thời đó coi như Phó vương, nay chỉ còn là Tổng đốc, tương tự tất cả các tỉnh khác. Từ lúc này, có bất kì sự vụ gì cũng phải tâu về Huế rồi chờ lệnh, đi lại cũng mất cả tháng, nên phản ứng với các sự việc rất chậm chạp.

Với người dân, tên tuy bị đổi, vai trò hành chính bị hạ, nhưng cuộc sống cũng không thay đổi gì. Người Thăng Long từ nay được gọi là người Hà Nội.


Ảnh Tổng đốc Hà Nội cùng tuỳ tùng, nhưng không rõ là vị Tổng đốc nào ???


https://static.panoramio.com/photos/original/36342219.jpg

Chitto
09-06-2010, 15:05
Từ thế kỷ 17, khi người phương Tây vào Đàng Ngoài để giao thương, truyền đạo, họ đã thống nhất gọi Đàng Ngoài là xứ Đông Kinh, và phiên âm thành các chữ Tonkin, Tonquin, Tongking.

Hai chữ Đông Kinh là tên gọi của Thăng Long triều Lê, để phân biệt với Lam Kinh ở Thanh Hoá. Đến khi đất nước bị chia cắt, thì Đàng Ngoài lấy người Đông Kinh làm trung tâm, và giới trung lưu tự nhận là người Đông Kinh, đến nỗi trở thành tên gọi chung của cả miền.

Alexandre de Rhodes hoàn chỉnh từ điển Việt-Bồ-La với mục đích để các nhà truyền giáo dễ dàng học và hiểu tiếng Việt bản xứ, chứ không phải để truyền bộ chữ latin cho người bản xứ. Do vậy trong vòng hơn hai trăm năm có lẽ không người Việt nào biết đến bộ chữ cái đó, mà toàn là các giáo sĩ dùng. Sau một số thầy giảng người Việt học bộ chữ này, để giao dịch với các bề trên, chứ người dân hầu hết đều mù chữ, không biết viết, biết đọc chữ Hán, lại càng không biết chữ Nôm, và xa lạ với chữ latin.

Giới nho sĩ thì không biết đến bộ chữ này, không biết từ Tonkin. Mà nếu biết thì họ cũng coi thường, chế nhạo thứ chữ của Quỷ Tây dương, coi là kém văn minh hơn mình !!!!


Ảnh quan Đốc học của Hà Nội (tương đương Giám đốc sở GDĐT bây giờ)


https://static.panoramio.com/photos/original/36342226.jpg



.

FBI
09-06-2010, 15:16
Giới nho sĩ thì không biết đến bộ chữ này, không biết từ Tonkin. Mà nếu biết thì họ cũng coi thường, chế nhạo thứ chữ của Quỷ Tây dương, coi là kém văn mình hơn mình !!!!.

Giờ vẫn thế, nói chi hồi đó??? Giờ thì không ai cho là (họ) kém văn minh hơn mình, mà là kém văn minh hơn những gì mình đang có. Vấn đề là mấy ông (quả) nho sĩ ấy đang có cái gì?

Không muốn làm ngắt mạch văn của Chitto, nhưng đọc văn của bạn, tớ vừa sướng vừa tức. Nín lâu rồi, giờ thì không chịu nổi nữa, out...

Chitto
09-06-2010, 16:32
Nhân nói về chữ Nôm, không thể không nhắc đến ba người phụ nữ được coi là nữ sĩ nổi tiếng bậc nhất, đều liên quan mật thiết với Thăng Long.

Người đầu tiên là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, cuối thời Lê. Bà quê ở Hưng Yên, nhưng từng dạy học ở Thăng Long, sau lấy chồng, ba năm chờ chồng đi sứ là thời gian bà dịch Chinh phụ ngâm từ chữ Hán ra chữ Nôm. Tài năng và phẩm hạnh của bà tiêu biểu cho nữ giới đương thời.

Tiếp theo là Bà huyện Thanh Quan, cuối Lê đầu Nguyễn. Bà người ở Nghi Tàm, đã từng vào Huế dạy học cho các cung nữ. Các bài thơ Nôm của bà còn lại không nhiều nhưng đều là tuyệt tác.

Và người thứ ba, có lẽ nổi tiếng nhất, Bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương. Bà người Thăng Long, sống tại Thăng Long. Bà có căn nhà ven hồ Tây lấy tên là Cổ Nguyệt đường. Chữ Cổ ghép với Nguyệt thành chữ Hồ. Thơ Hồ Xuân Hương là một mảng đặc biệt và đặc sắc bậc nhất trong dòng thơ Nôm của nước ta. Cổ Nguyệt đường ở đâu, không ai rõ chính xác, chỉ áng chừng có lẽ vào khu vực trường Chu Văn An bây giờ.

Cái tục mà thâm thuý trong thơ Hồ Xuân Hương, người đời sau chỉ bắt chước, chứ không thể tạo dựng được phong cách sánh được với bà.

Chitto
09-06-2010, 18:50
Trong các triều vua, triều Minh Mạng là diệt đạo Gia-tô tàn bạo nhất.

Các cố đạo vào từ thời Lê - Mạc, thời chúa Trịnh gắt gao nhất cũng chỉ đuổi đi, chứ không tàn sát. Thời Quang Trung cũng thế.

Nguyễn Ánh thời còn gian khổ, đã thân với giám mục Bá Đa Lộc, gửi con trai trưởng là Cảnh theo ông này sang Pháp để cầu viện, kí một bản "hợp đồng" rằng nếu Pháp giúp quân thì sẽ nhường một số điều. Biết rằng Nguyễn Ánh nhờ cậy vào người của đạo Gia-tô, triều Quang Toản tìm cách tiêu diệt. Các cuộc bắt đạo, giết đạo tiến hành rộng khắp, một số cố đạo người Pháp, thầy giảng người Việt và giáo dân bị tàn sát.

Đến khi Gia Long lên ngôi, sự bắt đạo giảm bớt đi nhiều. Gia Long tuy có mối thâm giao với cố đạo Gia-tô, nhưng lại cũng không ưa, khi mà người con trai trưởng sau những năm ở Pháp trở về đã là một con chiên ngoan đạo. Khi được đưa đến bàn thờ tổ tiên, hoàng tử Cảnh đã nhất quyết không chịu bái lạy, mà nói "đó chỉ là các ma quỷ, ta chỉ lạy Chúa thôi". Bởi thế khi hoàng tử Cảnh qua đời, theo lẽ thì ngôi vua về cháu đích tôn của Gia Long, con trai của Cảnh. Thế nhưng thấy đứa cháu cũng đã theo đạo, chịu rửa tội, Gia Long đã chọn con trai thứ nối ngôi.

Minh Mạng lên ngôi, là vị vua căm ghét đạo Gia-tô nhất, gọi là "tả đạo", coi là thứ làm mê hoặc dân chúng. Các cuộc tàn sát tiến hành trên quy mô toàn quốc. Các cố đạo bị bắt liền bị đem đến các cổng thành chém đầu, thậm chí lăng trì xẻo thịt. Các giáo dân không chịu bước qua Thập giá đều bi chém. Các làng đi đạo bị tiêu huỷ. Sự tàn sát diễn ra khắp nơi.


Một trong số các bức tranh người Pháp vẽ cảnh giết đạo thời Minh Mạng bên ngoài thành Hà Nội. Triều đình huy động quân lính, voi, ngựa để hành tội.


https://static.panoramio.com/photos/original/36550873.jpg

Chitto
09-06-2010, 19:10
Ngay từ những năm 1659, Toà thánh đã thiết lập hai giáo phận là Đàng Ngoài (Tonkin) và Đàng Trong (Cochinchine) và đặt Giám mục. Tuy nhiên Giám mục đầu tiên của Đàng Ngoài còn chưa bao giờ bước chân vào mảnh đất mà ông được giao cai quản.

Đến các Giám mục sau này mới thỉnh thoảng đi lén vào được, tổ chức các cuộc truyền chức, bàn việc với các cố đạo. Đạo Gia-tô phát triển nhanh trong dân chúng. Các cố đạo liều chết giữ giáo dân, sẵn sàng sống dưới hầm để truyền đạo. Trong thành Thăng Long - Hà Nội thì ít, nhưng bên ngoài thành, khu phố Hiến cho đến Nam Định, Thái Bình thì các làng theo đạo rất nhiều.

Khi giáo dân đông lên, thì giáo phận Đàng Ngoài được chia nhỏ thành Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài, rồi tiếp tục chia nữa cho đến tận cuối đời Nguyễn. Hà Nội thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài trong 250 năm, rồi thành lập giáo phận Hà Nội. Trong những năm bị bắt đạo, trung tâm của giáo phận nằm ở Nam Định, rồi sau mới di chuyển về Hà Nam, cuối cùng mới là Hà Nội.

Tại miền Bắc, sự chia cắt giữa các làng theo đạo và các làng không theo (người theo đạo gọi là "đi lương") dần sâu sắc và có những mâu thuẫn không nhỏ.

Cảnh giết đạo thời Minh Mạng, 118 Thánh Tử đạo của Việt Nam (gồm cả người Pháp và người Việt) nhiều nhất là trong hai thời Quang Toản và Minh Mạng.


https://static.panoramio.com/photos/original/36550868.jpg

Chitto
10-06-2010, 21:44
Tại ngôi chùa Bà Đá giữa lòng Hà Nội, còn một di vật thú vị liên quan đến thời cấm đạo của Minh Mạng.

Trong thời kỳ diệt đạo triều Nguyễn, trong một lần bị lùng bắt, một số cha cố Gia-tô đã chạy vào chùa Bà Đá, và được các vị sư ở đây che dấu. Quân triều đình không thể ngờ một ngôi chùa Phật giáo có thể là nơi "tà đạo" ẩn nấp, thế nên các cố đạo này thoát nạn.

Về sau, khi người Pháp vào Hà Nội, đạo Gia-tô không bị bức hại nữa, Giám mục Tây Đàng Ngoài đã tặng chùa Bà Đá bốn cây cột đá Ninh Bình được chạm khắc tinh xảo để tri ân. Ngày nay, bốn cây cột đó chống mái hiên tiền đường của chùa. Rất nhiều người qua đây sờ tay vào khiến cây cột nhẵn bóng, nhưng ít người biết đến nguồn gốc đặc biệt ấy.


Cây cột đá chạm mai lan cúc trúc rất đẹp trước chùa Bà Đá


https://static.panoramio.com/photos/original/36598614.jpg

Hàng hiên chùa (ảnh trên mạng)


https://static.panoramio.com/photos/original/36598609.jpg

Chitto
10-06-2010, 22:00
Người Hoa đến sinh sống, buôn bán ở Thăng Long từ thời Lê. Trong khi tại miền Nam, người Hoa tự xưng - và được gọi là người Minh Hương (quê là nhà Minh), đặc biệt là những người chạy trốn nhà Thanh, thì tại miền Bắc, người Hoa không dùng cái tên đó, có lẽ để tránh sự căm ghét của người Bắc Hà với giặc Minh từ trước.

...Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi).


Bởi thế, người Hoa tại miền Bắc tự nhận là người Đường - và triều Lê cũng gọi là Đường nhân.

Họ buôn bán giỏi, phát triển tại phố Hiến, nhưng tại Thăng Long thì chỉ được tập trung tại một khu gọi là phường Đường Nhân. Phường này nằm khu vực phố Hàng Lam.

Dưới thời Quang Trung, mặc dù giặc Thanh bị đuổi, nhưng "Đường nhân" vẫn được bình yên. Sang đến triều Nguyễn, vì kinh đô dời đi, người Hoa càng được tự do hơn. Với tài buôn bán, họ đã dần phát triển mạnh mẽ, thâu tóm được cả phố Hàng Lam. Họ cho dựng hai đầu phố hai cánh cổng chặn ngang, đóng lại buổi tối để bảo vệ. Từ đó mới có tên phố Hàng Ngang.

Chitto
10-06-2010, 22:11
Có bốn cộng đồng người Hoa ở Thăng Long, là Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam.

Người Quảng Đông thành lập cộng đồng sớm và mạnh nhất, chiếm đến hơn nửa số người Hoa ở Thăng Long. Họ chiếm hầu hết phố Đường nhân, nên phố này còn gọi là Quảng Đông hay Việt Đông, nay là Hàng Ngang. Khu người Phúc Kiến ở cũng gọi là phố Phúc Kiến, nay là phố Lãn Ông. Hai cộng đồng này chiếm lĩnh hầu hết các gian phố giao thương ở khu vực, lại mở rộng sang cả Hàng Buồm, Hàng Bạc.

Ngay dưới thời Tây Sơn, năm 1801, người Quảng Đông đã dựng Hội quán. Sau đó hơn mười năm, cộng đồng Phúc Kiến cũng dựng Hội quán. Hai toà hội quán là nơi thờ bà Thiên Hậu, nơi tụ họp của người Hoa.

Bức ảnh người Pháp chụp Hội quán Quảng Đông, mà họ gọi là Pagode de Cantonaise (Chùa Quảng Đông). Hội quán Quảng Đông ở Hội An còn dựng sau toà Hội quán này 74 năm.


https://static.panoramio.com/photos/original/36480274.jpg

Chitto
10-06-2010, 22:17
Trong một chiều lang thang, tôi đã tìm thấy con kì lân trên thanh đòn tay ở cửa toà Hội quán Quảng Đông trong bức ảnh của Pháp chụp trên kia, nay nằm trên phố Hàng Buồm:


https://static.panoramio.com/photos/original/36480287.jpg

Đôi kì lân hai bên cửa đó đã đứng đó hơn hai trăm năm, chứng kiến sự đổi thay trải qua. Ngay bờ tường, bờ nóc toà hội quán cũng thay đổi nhiều, nhưng đôi lân vẫn còn lại.

Chủ nhân của toà Hội quán xưa kia giờ đã hoàn toàn thay đổi...


https://static.panoramio.com/photos/original/36480297.jpg

Chitto
12-06-2010, 01:41
Cách không xa Hội quán Quảng Đông là Hội quán Phúc Kiến, nằm giữa phố Phúc Kiến

Người Hoa gốc Phúc Kiến chung nhau bỏ tiền mua mảnh đất này, là đất ngoài cửa Đông Hoa của hoàng thành triều Lê cũ, rồi tạc tượng dựng điện thờ bà Thiên Hậu năm 1817, rồi thờ tổ tiên, làm nơi hội họp của bang hội.

Người Hoa Phúc Kiến chuyên doanh mặt hàng thuốc bắc, họ nhập hàng từ Trung Quốc về đây bán đi các tỉnh. Về sau mới có người Việt tham gia buôn bán, nhưng thường không cạnh tranh nổi với người Hoa. Phố Phúc Kiến vì thế sau gọi là phố Lãn Ông, cho đến giờ vẫn chuyên bán thuốc bắc, đi từ đầu phố đã thấy mùi thơm của thuốc.

Tấm biển "Phúc Kiến hội quán" vẫn còn đây. Toà cổng và phương đình vẫn còn đây...


https://static.panoramio.com/photos/original/36480324.jpg


Nhưng giờ cũng không khác Hội quán Quảng Đông


https://static.panoramio.com/photos/original/36480311.jpg

Chitto
12-06-2010, 13:30
Một ngôi đền người Hoa dựng trên đất Thăng Long là đền Sầm Công, nay không còn nữa.

Sầm Công chính là Sầm Nghi Đống, viên Thái thú Điền Châu - Vân Nam, cùng Tôn Sĩ Nghị tiến vào Thăng Long. Trong trận Khương Thượng, khi bị quân Tây Sơn đánh không còn đường thoát, Sầm Nghi Đống đã treo cổ tự tử ở gần chùa Bộc. Quang Trung cho thu nhặt thi thể trả lại nhà Thanh.

Sau trận đánh Kỷ Dậu, nhiều người Hoa cũng bỏ chạy, sau này thấy triều Nguyễn thoải mái hơn mới quay lại. Nhà Nguyễn cũng cho phép người Hoa xây đền thờ Sầm Nghi Đống tại con ngõ nơi họ ở. Con ngõ đó cũng gọi là Ngõ Sầm Công, nay là phố Đào Duy Từ.

Hồ Xuân Hương có lần đi qua ngôi đền này, đã viết bài thơ chế giễu



Ghé mắt trông ngang thấy biển treo
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?

Chitto
13-06-2010, 00:00
Bức tường và cánh cổng chắn ngang con phố, tạo thành khu phố Quảng Đông của người Hoa, một kiểu Chinetown từ hai trăm năm trước ở Hà Nội. Cũng vì thế có tên phố Hàng Ngang, dù chẳng có loại hàng hoá nào tên là "Ngang" cả.


https://static.panoramio.com/photos/original/36669414.jpg

Chitto
13-06-2010, 00:12
Bên cạnh việc dựng Hội quán, đền Sầm Công, người Hoa còn đóng góp tiền bạc tu sửa một số đền chùa ở Hà Nội.

Tại hòn đảo Ngọc giữa hồ Gươm, trước kia có hành cung của chúa Trịnh, khi nhà Trịnh sụp thì hành cung cũng đổ nát. Một Hội thiện, do người Hoa làm chủ đã đứng ra dựng một ngôi đền trên đảo, thờ các vị thần của họ. Đền đầu tiên thờ Quan Công, danh tướng đời Hán, đồng thời được coi là vị thần bảo trợ người buôn bán. Sau đó họ đem thêm tượng Lã Đồng Tân, một vị tiên của Đạo giáo vào. Rồi đến Văn Xương đế quân, vị thần chuyên chủ về việc Văn học cũng đem vào thờ. Ngôi đền hoàn toàn mang màu sắc người Hoa, cho mãi đến sau này khi người Pháp phá ngôi đền cạnh hồ Gươm, người dân đem tượng Trần Hưng Đạo từ đó vào thờ, thì ngôi đền mới trở thành đền thờ thánh người Việt.

Bộ tượng thờ của người Hoa vẫn còn đó, đặt ở gian giữa của đền Ngọc Sơn ngày nay.

Tượng Quan Công mặc áo xanh, râu dài, tay cầm cuốn sách đặt trước. Bên cạnh mặc áo đỏ là tượng Quan Bình. Phía sau là tiên Lã Đồng Tân. Sau cùng là Văn Xương đế quân ngồi trong khám thờ bằng gỗ.


https://static.panoramio.com/photos/original/36527244.jpg

Chitto
15-06-2010, 21:52
Việc thờ Quan Công trong Võ Miếu đã có từ đời Lê, tuy nhiên chỉ với tư cách là vị Võ thánh.

Chính những thương nhân người Hoa mới đưa vào Việt Nam cái cách thờ Quan Công như là vị thần phù trợ nghề buôn bán. Trong Tam Quốc có viết rằng Quan Vũ trước kia là người đi buôn bán, đẩy một xe hàng rong, sau khi gặp Lưu Bị, Trương Phi mới "chuyển ngạch" sang tướng võ.

Việc thờ Quan Công phổ biến theo sự lớn mạnh của giới thương nhân người Hoa. Trong một số trường hợp, họ là người đóng góp tiền tu bổ đền chùa, và nhân đó đưa tượng Quan Công vào thờ. Thế rồi người Việt thấy hay cũng bắt chước theo, hi vọng buôn bán được phát đạt như người Hoa. Đặc biệt tại miền Trung và miền Nam thì lối thờ này rất phổ biến.

Trong chùa Trấn Quốc hiện tại có bàn thờ Quan Công, do người Hoa đưa vào khi chùa được tu sửa đầu thời Nguyễn.

Ảnh: Tượng thờ Quan Công ngồi giữa, bên phải là Quan Bình cầm hộp ấn, bên trái là Chu Thương cầm thanh long đao tại chùa Trấn Quốc.


https://static.panoramio.com/photos/original/36527239.jpg

Nhìn bộ tượng này, lại nhớ đến bài thơ trào phúng, bốn câu sai cả bốn, nhưng tả thực rất hay:



Hán vương ăn ớt mặt đỏ gay
Bên này thái tử đứng khoanh tay
Thằng mọi râu ria cầm cái mác
Con cua đứng dưới chú cò gầy

(Quan Công không phải Hán vương, vì Hán vương là Lưu Bị ; Quan Bình càng không phải Thái tử ; Chu Thương là tướng mặt đen cầm đao chứ không phải mác ; rùa - hạc chứ không phải cua - cò)

Chitto
16-06-2010, 21:44
Ngay trong khu vực người Hoa tập trung, ngôi đền Bạch Mã cũng được quan tâm.

Có điều chẳng vui vẻ gì với người Việt, là người Hoa, chẳng biết vô tình hay cố ý nhầm lẫn (tôi nghĩ là cố ý), mà nhất quyết cho rằng ngôi đền đó thờ Mã Viện, một viên tướng Hán là kẻ thù của người Việt. Họ cho rằng bài vị Bạch Mã Quảng Lợi đại vương là ngụ ý viên tướng họ Mã kia.

Ảnh sưu tầm: đền Bạch Mã ở Hàng Buồm, nằm ở khu người Hoa đông đúc xưa kia.


https://static.panoramio.com/photos/original/36669426.jpg

Chitto
16-06-2010, 22:15
Ngay sau khi lên ngôi, Minh Mạng, Thiệu Trị đều "kinh lý Bắc Hà" cả. Mặc dù Gia Long dựng lại cơ nghiệp từ miền Nam, nhưng không có vua Nguyễn nào chính thức kinh lý miền Nam cả, có lẽ do đi lại khó khăn quá.

Minh Mạng ra Bắc năm 1821, đến thăm Quán Trấn Vũ, và sai dựng lại với quy mô như ngày nay. Đồng thời đổi tên từ Trấn Vũ thành Chân Vũ.

Vốn dĩ xưa kia vị thần này của Đạo Giáo tên gốc là Huyền Vũ. Đến đời Tống ở Tàu mới đổi là Chân Vũ. Sang đến Việt Nam thì từ xưa lại gọi là Trấn Vũ. Chữ Trấn chỉ nhiều hơn chữ Chân một bộ "kim". Minh Mạng là ông vua sùng Trung Quốc, rất nhiều thứ mỹ tự đều theo Tàu, nên bắt đổi lại tên như Tàu. Tuy bên ngoài cổng đổi là Chân Vũ, nhưng bên trong thì vẫn dùng là Trấn Vũ !

Lúc này thì ngôi đạo quán đã không còn đạo sĩ, nên trở thành ngôi đền. Về sau người Hà Nội mới gọi gộp lại thành Đền Quán Thánh (!!!)

Ảnh: ngôi đền còn lại ngày nay là kiến trúc đời Nguyễn.


https://static.panoramio.com/photos/original/36825775.jpg

Chitto
16-06-2010, 22:31
Hai mươi năm sau, vua Thiệu Trị lên ngôi, cũng ra Bắc, cũng đi thăm các nơi, cũng muốn "đổi một cái gì đó". Lần này nạn nhân là chùa Trấn Quốc.

Ngôi chùa danh tiếng với ba cái tên đều có chữ Quốc là Khai Quốc, An Quốc, Trấn Quốc, suốt 1300 năm, lần này Thiệu Trị viện cớ chùa không ở kinh đô thì không được mang tên đó, nên bắt đổi thành Trấn Bắc !

Tuy nhiên, cũng tương tự như quán Trấn Vũ, người Hà Nội không chấp nhận cái tên mới đó, nên tên chùa Trấn Quốc vẫn là tên chính thức, chuyện vua đổi tên vẫn mặc.

Ba chữ Trấn Quốc Tự vẫn còn đó, treo trên chính điện ngôi chùa cổ nhất đất Thăng Long

Ảnh: Chính điện chùa Trấn Quốc ngày nay


https://static.panoramio.com/photos/original/36825720.jpg

Chitto
16-06-2010, 22:49
Nói đến Quán Trấn Vũ, hầu như mọi người đều biết đến ngôi đền với pho tượng đồng (hun) đen ở hồ Tây.

Rất ít người biết ở bên Gia Lâm cũng có một ngôi Quán Trấn Vũ, cũng có một pho tượng đồng hun đen, với kích thước và trọng lượng không kém tượng ở hồ Tây.

Vào thời Tây Sơn, dân Thạch Bàn đã quyên góp để đúc pho tượng Trấn Vũ bằng đồng, cao 4m, nặng khoảng 4 tấn (bằng với pho tượng cổ). Tượng đúc xong cũng là lúc triều Tây Sơn sụp đổ. Pho tượng này đúc sau pho trong nội thành 120 năm, nên không nổi tiếng bằng, ít người biết đến hơn. Pho tượng cũng không được nâng lên đặt ngồi trên bệ đá uy nghiêm như pho cổ kia, mà ngồi trên bệ ngay mặt đất.

Cá nhân tôi thấy pho đúc sau không đẹp bằng pho cổ. Nhưng đây cũng là pho tượng cổ rất quý giá. Cùng với hai pho tượng đồng, trong nội thành Hà Nội còn 1 pho tượng Trấn Vũ bằng gỗ cũng to như thế !

Ảnh: Tượng Trấn Vũ bằng đồng ở Thạch Bàn, hoàn thành 1802


https://static.panoramio.com/photos/original/36827643.jpg

KK172
16-06-2010, 22:52
Cùng với hai pho tượng đồng, trong nội thành Hà Nội còn 1 pho tượng Trấn Vũ bằng gỗ cũng to như thế !

Pho tượng gỗ này bây giờ còn không?
Mình thấy pho tượng năm 1802 trông cũng khá đẹp và đặc biệt. Còn pho tượng năm 1677 thì quá đẹp và uy nghi rồi.

Chitto
16-06-2010, 23:06
Pho tượng gỗ này bây giờ còn không?

Pho tượng gỗ đặt ở Huyền Thiên cổ quán, nay thành chùa Huyền Thiên ở cạnh chợ Đồng Xuân.

Pho tượng gỗ, theo sách ghi thì làm bằng gỗ trầm năm 1628, cao khoảng 4m. Nhưng năm 1946 thời chống Pháp, chùa bị đốt, tượng cũng cháy ra tro. Không có bức ảnh nào chụp lại pho tượng này. Hai năm sau, tượng được làm lại, chẳng biết có giống trước không, nhưng không đẹp.

Ảnh: Tượng Trấn Vũ bằng gỗ trong chùa Huyền Thiên, cao khoảng 4m, khuất trong gian thờ


https://static.panoramio.com/photos/original/36828212.jpg

Chitto
17-06-2010, 20:42
Triều Nguyễn rất khắt khe về việc kiêng huý, nhiều chữ tên hoàng tộc phải kiêng mà không được nói, không được dùng, những tên địa danh cổ cả nghìn năm cũng phải đổi, rất là khắc nghiệt.

Chỉ vì kiêng tên bà mẹ của vua Thiệu Trị tên là Hoa, mà tỉnh Thanh Hoa đổi thành Thanh Hoá. Ở Hà Nội thì Kim Hoa đổi thành Kim Liên, Yên Hoa đổi thành Yên Phụ, kiêng chữ Tông (tên Thiệu Trị) mà đổi chùa Liên Tông thành Liên Phái...

Tuy nhiên, bên cạnh một số tên địa danh bắt buộc phải đổi, còn thì việc kiêng huý ở miền Bắc gần như vô tác dụng. Người miền Bắc không tôn trọng triều Nguyễn như miền Trung và miền Nam, nên trong cuộc sống, trong dân gian, dù triều đình có lệnh thì họ cũng mặc kệ. Và cũng vì thế mà cho đến giờ, người miền Bắc vẫn giữ được những từ ngữ có từ ngàn xưa.

Chẳng hạn người miền Trung và Nam kiêng các chữ và đổi như sau

Hoa -> Huê, bông (kiêng tên mẹ Thiệu Trị) ; Cảnh -> Kiểng (kiêng tên hoàng tử Cảnh)
Phúc -> Phước (tộc Nguyễn Phúc) ; Tông -> Tôn (tên vua Thiệu Trị là Miên Tông)
Hồng -> Hường ; Nhậm -> Nhiệm (tên Tự Đức là Hồng Nhậm)
Thì -> Thời (tên còn nhỏ của Tự Đức là Thì) ' Vũ -> Võ (chúa Vũ vương)
Hoàng -> Huỳnh (chúa Nguyễn Hoàng, tổ nhà Nguyễn) ; Bảo -> Bửu ...

Người miền Bắc thì không kiêng gì cả, vẫn giữ ngôn ngữ của mình. Trước kia có kiêng một chữ là tên của chúa Trịnh đầu tiên, Trịnh Tùng, nên Tùng đổi thành Tòng. Tuy nhiên sau rồi cũng không kiêng nữa.

Chitto
19-06-2010, 00:59
Ngay sau lần Thiệu Trị ra Bắc năm 1842, Nguyễn Đăng Giai được bổ làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình), Kinh lược sứ Bắc kỳ, Thượng thư bộ Hình. Tuy Nho học nhưng ông lại rất chuộng đạo Phật, nên cho xây ngôi chùa Báo Ân.

Ngôi chùa này xây trên nền của khu lầu Ngũ Long của chúa Trịnh xưa kia. Lầu bị đốt đã 60 năm, nay dựng chùa. Chùa còn được gọi là chùa Quan Thượng, hay chùa Liên Trì vì có ao sen vòng quanh. Vào khi đó, đây là ngôi chùa có quy mô lớn nhất Hà Nội. Chùa quay ra phía Đông, mặt sau là hồ Guơm, dựng những ngọn tháp đẹp.

Tuy nhiên, chùa cũng chỉ tồn tại được khoảng 40 năm, thì Pháp phá đi để xây Bưu điện. Tất cả những gì còn lại chỉ là ngộn tháp Hoà Phong ở sát bờ hồ Gươm, nay do hồ bị lấp đi nên tháp lùi vào vỉa hè đường Đinh Tiên Hoàng.

Ảnh: Mặt trước chùa Báo Ân


https://static.panoramio.com/photos/original/36901373.jpg

Mặt sau chùa Báo Ân ở sát hồ Gươm. Tháp Hoà Phong nằm sát bờ nước


https://static.panoramio.com/photos/original/36901370.jpg

Chitto
19-06-2010, 01:08
Di tích cuối cùng của chùa Báo Ân xưa chơi vơi giữa hồ Gươm, một bức ảnh rất quen thuộc với những người yêu Hà Nội.

Và mọi người đều có thể dễ dàng nhìn thấy tháp Hoà Phong ngày nay đối diện Bưu điện Hà Nội, một phần khuất sau tán lá xà cừ bên bờ hồ.


https://static.panoramio.com/photos/original/36901907.jpg


https://static.panoramio.com/photos/original/44362084.jpg

Chitto
19-06-2010, 13:49
Tự Đức làm vua thay Thiệu Trị, thì không kinh lý Bắc Hà nữa. Bù vào đó, vị vua thích xây cất lăng tẩm này sai người ra thành Hà Nội, tất tần tật cái gì bằng gỗ đá có chạm trổ đẹp đẽ mà mang đi được là lấy bằng sạch. Một vài toà điện mà các vua trước còn chưa phá nốt thì lần này sạch sành sanh.

Thật vô cùng may mắn là hai đôi rồng đá và một đôi bậc thềm long vân bằng đá của điện Kính thiên quá to nặng, không thể mang đi được, nên vẫn còn lại đến ngày nay.

Đầu thời Tự Đức, ngoài bế quan toả cảng nghiêm ngặt, việc cấm đạo Giatô vẫn rất gắt gao, các cố đạo ngoại quốc bị chém mấy người, giáo dân bị hành tôi cũng không ít. Lấy cớ đó, tàu chiến Pháp nổ sung đánh cảng Đà Nẵng năm 1858, bắt đầu cuộc xâm lược Việt Nam.

Sau Đà Nẵng, Pháp đánh Gia Định, năm 1862, hoà ước cắt 3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp, rồi đến 1864 thì mất nốt 3 tỉnh. Thành ra Lục tỉnh Nam kỳ rơi vào tay ngoại xâm. Cũng thời gian này, lệnh tha đạo được ban hành, đạo Giatô phát triển tự do và nhanh chóng khắp cả ba miền.

Tin tức ấy chấn động cả nước. Tại trường thi Hương năm 1864 tại Hà Nội, sĩ tử bỏ thi để phản đối. (Kỳ thi chỉ bị lùi đi 1 ngày thôi) Tấm gương của Nam kỳ quá rõ, và sẽ lặp lại ở Hà Nội mười năm sau đó.

Sĩ tử thời Nguyễn (tập hợp các sĩ tử cũng gọi là Sĩ lâm, hay Nho lâm, giống kiểu Võ lâm)


https://static.panoramio.com/photos/original/36918195.jpg

Chitto
19-06-2010, 14:54
Dưới thời Tự Đức, tại Hà Nội có hai nhân vật Văn nhân nổi danh là bạn với nhau để lại dấu ấn trong lịch sử Hà thành khá đặc biệt là Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát.

Tài văn chương của hai người nổi tiếng đến nỗi Tự Đức viết : Văn như Siêu Quát vô tiền Hán : Văn mà như Siêu, như Quát thì thời Hán nổi tiếng xưa ở Tàu cũng không có nổi. Bởi thế người đời gọi hai ông là Thần Siêu, thánh Quát.

Nguyễn Văn Siêu học rộng, làm quan Án sát, đã đi sứ Tàu, sau vì dâng biểu trái ý triều đình mà từ quan, về khu phố cổ mở trường dạy học. Con phố trước đó chuyên buôn bán nay bỗng tấp nập học trò, danh tiếng vang xa, đến nỗi người ta gọi là phố Án Sát Siêu, giờ đây là phố Nguyễn Siêu. Nguyễn Văn Siêu là người đã chủ trì việc xây dựng lại quần thể đền Ngọc Sơn (sẽ viết sau).

Cao Bá Quát nổi danh văn thơ, đã từng chê thơ Tự Đức và chữa lại, lại có chữ viết vang danh thiên hạ. Thánh Quát sau này nổi dậy chống lại triều đình, nhưng thất bại, bị chém ở Hà Nội, song danh thơm vẫn lưu truyền.

Hai người để lại dấu ấn của mình trong lịch sử theo hai cách khác nhau, song hậu thế sẽ luôn nhớ đến họ.

Chitto
19-06-2010, 15:27
Nguyễn Văn Siêu tuy đã từ quan, nhưng vẫn là bậc có danh tiếng lớn ở Hà Nội. Năm 1865, đã 70 tuổi, ông đứng ra xây dựng lại đền Ngọc Sơn, trở thành một biểu tượng của Hà Nội.

Nguyên đảo Ngọc thời chúa Trịnh dựng cung điện vui chơi, đến khi họ Trịnh sụp thì thành chùa. Người Hoa biến thành đền thờ Văn Xương, Lã Đồng Tân, Quan Công, vẫn còn cả tượng Phật. Ra đảo vẫn phải đi thuyền. Ở bờ hồ có ngọn đồi đất gọi là núi Ngọc Bội đắp từ thời chúa Trịnh vẫn còn.

Nguyễn Văn Siêu đã cho đắp đá lên núi Ngọc Bội, đổi là núi Độc Tôn, dựng ngọn Tháp Bút bằng đá, trên thân viết ba chữ Tả Thanh Thiên (viết lên trời xanh). Dựng một cửa vòm, trên có một cái nghiên bằng đá, gọi là Nghiễn Đài (đài nghiên).

Ông cho dựng cây cầu gỗ nhỏ nối đảo với bờ, cầu rất đơn sơ, gọi là cầu Thê Húc. Cầu khi đó hoàn toàn khác bây giờ, không có thành cầu, nên tên cầu cũng không được khắc lên thành như bây giờ.

Trên đảo Ngọc, dựng đình Trấn Ba (chắn sóng), mà văn bia ghi rõ là ngụ ý chắn lại làn sóng văn hoá suy đồi của giới quan lại thối nát đang lan tràn. Bên trong đền, vẫn giữ nguyên các vị thần Trung Quốc. Mãi đến khi Pháp phá ngôi đền Hựu Linh thờ Trần Hưng Đạo, người dân mới hạ tượng Văn Xương khỏi thượng điện, mà thay Trần Hưng Đạo vào vị trí đó.

Ảnh: Tháp Bút và cổng đền cách đây trăm năm, đến giờ vẫn thế, còn cái cổng được dựng sau thời Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có cây gạo bên phải là đã chết mà thôi.


https://static.panoramio.com/photos/original/36901394.jpg


Tháp Bút ngày nay rực rỡ hơn bởi ... đèn điện


https://static.panoramio.com/photos/original/36918202.jpg

Chitto
19-06-2010, 15:37
Hiện nay hầu như tất cả các tài liệu đều nói là Nguyễn Văn Siêu cho làm hai cái "Bảng rồng", "Bảng hổ" hai bên lối vào, tượng trưng cho sự thành đạt.

Tuy nhiên, tôi cho rằng đây là họ nhìn vào đền Ngọc Sơn bây giờ mà tưởng thế, chứ khi Nguyễn Văn Siêu tu sửa, không có hai cái bảng đó ! Ông là người đã chán quan trường, chả nhẽ còn cho đắp biểu tượng của tiến thân, quan lại lên đó hay sao?

Cơ sở chính của việc tôi cho rằng vốn xưa không có Bảng rồng, Bảng hổ, là bức ảnh người Pháp chụp năm 1883, không hề có hai cái bảng đó, sau này mới thấy.

Ảnh chụp năm 1883, trên cái cổng có cái nghiên đá, tức là Đài Nghiên, sau đài là cầu vào đảo Ngọc.


https://static.panoramio.com/photos/original/36920530.jpg

Theo ảnh sau, hai bảng rồng, bảng hổ có lẽ là làm sau năm 1883, đài Nghiên cũng được tu sửa rồi.


https://commondatastorage.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/37021325.jpg

Và bây giờ, có thêm một vài thay đổi nhỏ nữa


https://static.panoramio.com/photos/original/36920605.jpg

Chitto
19-06-2010, 16:09
So sánh hai bức ảnh, cũng có thể thấy Đài Nghiên cũng có bị thay đổi.

Chiếc nghiên làm bằng đá, hình nửa quả đào, có ba con cóc đội nghiên. Phía trên thân nghiên có khắc một bài văn do Nguyễn Văn Siêu viết, luận về ý nghĩa của cái nghiên. Bài văn đó cũng được viết trên bức cuốn đắp nổi trước cổng.

Trước kia còn có một giai thoại là cứ đúng sáng mùng 5 Tết, là bóng của đỉnh Tháp Bút sẽ chạm vào trong Nghiên, để kỉ niệm chiến thắng của Quang Trung. Tuy nhiên điều này là tưởng tượng thôi.


https://static.panoramio.com/photos/original/36918205.jpg

Chitto
19-06-2010, 16:21
Một bức ảnh từ năm 1883 cho thấy cây cầu nối ra đảo đơn sơ đến thế nào. Cây cầu mang tên Thê Húc (đọng ánh nắng sớm) đẹp đẽ đây ư ?


https://static.panoramio.com/photos/original/36901389.jpg

Trong bức ảnh trên, bên kia cầu chỉ là một cái cửa nhỏ bé sơ sài. Đó không thể là cái Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) mà người ta gán cho Nguyễn Văn Siêu được. Chứng tỏ Đắc Nguyệt Lâu phải được dựng sau năm 1883.

Và ảnh chụp khoảng 1900, lúc này cầu Thê Húc đã hoàn chỉnh, nhưng không cong như ngày nay, mà gần như thẳng, và bên kia là lầu Được trăng, ngoài đảo là đình Trấn Ba...

Như vậy có ít nhất 3 cái cầu Thê Húc đã được dựng tại cùng chỗ này. Trong một bức ảnh khác vào năm 1952, còn có 2 cầu cùng một lúc bắc ra đảo nữa kia.


https://static.panoramio.com/photos/original/36918217.jpg

Chitto
19-06-2010, 16:26
So với cách đây 100 năm, cầu Thê Húc ngày nay đã cong hơn rất nhiều (cầu cũ bị sập năm 1952), và ngôi đình Trấn Ba có những mái ngói cũng cong hơn rất nhiều, không phải ngói ống như xưa mà là ngói mũi hài rồi.

Cầu bây giờ sơn màu đỏ chói, không rõ xưa kia có sơn màu gì không?

(Ảnh sưu tầm)


https://static.panoramio.com/photos/original/36918212.jpg

KK172
19-06-2010, 16:34
Trước kia còn có một giai thoại là cứ đúng sáng mùng 5 Tết, là bóng của đỉnh Tháp Bút sẽ chạm vào trong Nghiên, để kỉ niệm chiến thắng của Quang Trung.

Chính xác giai thoại này là: 6h sáng ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch, bóng của ngọn bút sẽ rơi vào giữa đài nghiên, và khi xây nghiên mực người ta đã tính toán điều này.

Có lần tớ đã từ ga Hà nội qua đây tầm hơn 6h, tháng 7 dương, mồng mấy âm thì chịu, nắng sớm và bóng của đài nghiên vươn dài vào nghiên mực thật, còn có nhúng vào chính giữa nghiên mực không thì không biết ;)

Cũng không nhớ biết giai thoại này từ bao giờ, nhưng đã nghe khá nhiều người nói.

Chitto
19-06-2010, 16:39
Chính xác giai thoại này là: 6h sáng ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch, bóng của ngọn bút sẽ rơi vào giữa đài nghiên, và khi xây nghiên mực người ta đã tính toán điều này.

Chắc chắn là sai !!! Vì Âm lịch tính theo Mặt Trăng chứ không phải theo Mặt trời. Do đó nếu cùng ngày Dương lịch trong các năm, thì bóng nắng sẽ giống hệt nhau là đúng. Nhưng nếu cùng ngày Âm lịch, thì mỗi năm sẽ thay đổi. Tôi có quan tâm và đọc nhiều tài liệu thiên văn, nên có thể khẳng định điều này.

Do vậy cái giai thoại trên là sai.

Nếu nói là vào đúng Tiết nào đó (Hạ chí, Xuân phân....) thì có thể, vì các Tiết lại tính theo Mặt Trời. Nhưng ngày tháng thì tính theo Mặt Trăng. Giả sử bảo đêm Mùng mấy tháng mấy Âm lịch, bóng trăng chiếu vào đâu đó thì còn có cơ sở !.

Chitto
20-06-2010, 22:51
Đến thời Nguyễn, khi đất nước đã trải dài trên cả ba miền, thì kiến trúc cũng đã có sự khác biệt.

Yếu tố dễ nhận thấy nhất trong kiến trúc các tòa nhà của ba miền chính là bộ mái nhà. Miền Bắc vẫn giữ bộ mái truyền thống lợp ngói mũi hài, cong vút lên ở các góc, và trên gờ nóc thường chỉ có hai đầu rồng (hoặc đầu trào phong, si vẫn) ở hai đầu.

Một số công trình tại Hà Nội, do chịu ảnh hưởng của kiến trúc triều Nguyễn, đã dùng kiểu mái thẳng hình thang, với ngói ống. Trên đỉnh hóc đắp hai con rồng chầu vào Mặt Trăng (hoặc Mặt Trời), như Khuê Văn Các, Trấn Ba Đình (nguyên bản). Phong cách đắp hai con rồng cũng dần lan rộng khi các công trình được trùng tu dưới triều Nguyễn. Những công trình nguyên bản không dùng hai con rồng trên nóc như thế.

Bộ mái tiêu biểu của kiến trúc miền Bắc: Chùa Tây Phương và cổng chùa Kim Liên. Các đầu đao như bay lên trời không thể thấy ở kiến trúc cổ tại Huế hay miền Nam (sau này miền Nam xây "chùa đúc" thì có dùng).

Ảnh: Bộ mái tiêu biểu của chùa Tây Phương


https://static.panoramio.com/photos/original/36901405.jpg

Và bộ mái cổng chùa Kim Liên.


https://static.panoramio.com/photos/original/38750018.jpg

Chitto
20-06-2010, 22:56
So sánh với bộ mái của các công trình trong hoàng cung Huế, thấy khá rõ sự khác biệt.

Các bộ mái Huế là các mặt phẳng, không có độ cong. Do đó các đường mép mái cũng là đường thẳng, các gờ nóc thẳng tắp. Mặc dù tại các góc mái, người thợ có đắp các con rồng cong lên, nhưng độ cong đó cũng chỉ giúp mái mềm hơn một chút mà thôi. Bên cạnh đó ngói ống thẳng cũng làm tính chất thẳng của mái thêm rõ ràng.

Hai công trình với các bộ mái tiêu biểu của Huế (ảnh sưu tầm)

Ngọ Môn, với lầu Ngũ phượng, các lá mái là các hình thang chằn chặn


https://static.panoramio.com/photos/original/36901414.jpg

Hiển Lâm Các, với các mái phẳng phiu


https://static.panoramio.com/photos/original/36901576.jpg

Chitto
20-06-2010, 23:13
Vào đến miền Nam, bộ mái lại còn cứng và "thẳng" hơn nữa. Đỉnh mái thu lại chỉ còn một đoạn ngắn, đến mức mái gần như tam giác. Sau này các ngôi chùa dùng công nghệ mới (xi măng) tại miền Nam đã quay lại với kiểu mái Huế và miền Bắc.

Ảnh: chùa Giác Lâm và Giác Viên, hai tòa nhà thuộc loại cổ nhất tại Sài Gòn (ảnh sưu tầm)


https://static.panoramio.com/photos/original/original/36901581.jpg

https://static.panoramio.com/photos/original/36901587.jpg

Chitto
21-06-2010, 23:38
Tuy nhiên, kiểu mái trên là dành cho các công trình như đền chùa, đình đài,... chứ không phải cho nhà dân.

Còn nhà dân trong khu phố phường, thì các ngôi nhà hầu như có dạng nhà ống, nhà này liền tường với nhà kia, làm gì có không gian cho các lá mái cong và xòe ra tứ phía? Nhưng phố cổ Hà Nội lại có kiểu mái riêng, các lá mái dốc tầng lớp đã trở thành đặc trưng nổi tiếng, đi vào các bức tranh của Bùi Xuân Phái và bao bức ảnh.

Tranh vẽ khu phố Hà Nội, với những mái ngói dốc, các bức tường ngăn giữa các nhà. Những nhà nghèo hơn, không lợp ngói toàn bộ, mà mái trước lợp tranh.


https://static.panoramio.com/photos/original/37021330.jpg

Chitto
21-06-2010, 23:48
Trong khu phố phường, mà giờ ta quen gọi là khu phố cổ, cũng không phải chỗ nào cũng có nhà ngói.

Những khu giàu có hơn, thì các nhà xây gạch, lợp ngói, phía mặt phố là cửa hàng. Nhà nào giàu hơn thì làm thêm một tầng gác, mái ngói vươn lên cao hơn nhà xung quanh. Các khu Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Buồm, Hàng Bạc... hầu hết là nhà ngói tương đối khang trang.


https://static.panoramio.com/photos/original/37021332.jpg

Nhưng ở phía Tây, đặc biệt là trên khu đất vốn là Hoàng thành đời Lê, khi nhà Nguyễn phá đi, thành bãi đất trống, dân cư mới tụ tập lại, thì khác nhiều.
Vì dân cư các làng nghề ở các vùng tụ tập về đây, phần lớn là buôn bán những mặt hàng ít giá trị, lại mới lập, nên hầu hết vẫn là các nhà tranh tre mái lá...


https://static.panoramio.com/photos/original/37021335.jpg

Chitto
21-06-2010, 23:56
Những khu phố phía Tây của khu 36 phố phường chủ yếu là nhà tranh tre nứa lá, nên hỏa hoạn xảy ra thường xuyên. Sách ghi chép lại vào năm 1828, đầu năm xảy ra vụ cháy 200 nhà, giữa năm cháy 1420 nhà ở 27 phường. Đến năm 1837, lại cháy thêm 1400 ngôi nhà nữa ! Cả vạn dân mất sạch cơ nghiệp. Đến những năm 1885 vẫn còn cháy rất nhiều, có vụ cả nhà Tổng đốc thành Hà Nội còn suýt chết cháy nữa là dân cư !

Hỏa hoạn là tai họa đáng sợ nhất, nhưng lại khó tránh khi toàn nhà lợp tranh. Vì thế, năm 1837, sau vụ cháy lớn, người dân đã lập ngôi đền thờ Hỏa thần, cầu xin Thần lửa không gây họa. Có lẽ đây là ngôi đền thờ Thần lửa duy nhất tại Việt Nam.

Con phố có ngôi đền đó, vì thế cũng gọi là phố Nhà Hỏa. Nhưng hiện giờ, muốn vào đền lại phải đi từ phố Hàng Điếu, mà cũng chỉ còn một con ngõ bé tí, các lối cũ ken đặc nhà dân mất rồi.

Lối vào đền Hỏa Thần


https://static.panoramio.com/photos/original/37021340.jpg


Ngày nay, đền cũng bị biến thành chùa, thờ Phật ở trước, Thần lửa ở sau.


https://static.panoramio.com/photos/original/37021348.jpg

Chitto
22-06-2010, 11:47
Bản đồ thành Hà Nội những năm 1830 - 1840.

Vì bản đồ cổ vẽ cái gì quan trọng thì to, nên chỉ thấy cái thành Vauban là rõ nhất, hào nước vòng quanh chính là một phần sông Tô Lịch. Trong thành có Cột Cờ, điện Kính Thiên, Hậu Lâu, đàn Sơn Xuyên (thờ núi sông), Võ Miếu, các cơ quan làm việc của chính quyền. Trong thành còn có hai núi đất là Xuân Sơn, Thổ Sơn, thành mở 5 cửa, phía Nam có 2 cửa.

Thành đất đắp xung quanh có 16 cửa ô tất cả, trong đó có 1 cửa chính là cửa sông Tô Lịch. Các khu phố phường của người dân không được vẽ vào đây. Một số đường đi chính được vẽ khá rõ.

Phía bên phải hồ Trúc Bạch còn có một khu hồ nữa là Mã Cổ hồ (Hồ Cổ ngựa), sau này người Pháp lấp đi để làm các khu phố phía Bắc quận Ba Đình ngày nay.
Đại Hồ xưa kia dưới triều Lê nay đã được ghi là "Thất Mẫu hồ", tức là Hồ Bảy Mẫu.


https://static.panoramio.com/photos/original/37038142.jpg

Chitto
22-06-2010, 15:31
Cái tình thế mất nước đã quá rõ, khi toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ trở thành "nhượng địa" hoàn toàn cho Pháp, hay là mất hẳn rồi. Thế mà cũng lúc đó Tự Đức bắt đầu cho xây Vạn Niên Cơ - lăng tẩm tốn kém bậc nhất của mình.

Một số tài liệu vẫn nói tốt cho ông vua này khi bảo rằng ông ta là người thông minh, có hiếu, chăm chỉ... Nhưng mà cái "thông minh" ấy chỉ dành để làm văn thơ, múa may mấy bài thơ cho cái mộ to tướng của mình. Cái "có hiếu" chỉ hướng đến mỗi bà mẹ già vốn đã sung sướng trong cung, còn thì hành hạ dân chúng, tăng thuế để xây lăng, vét máu mỡ dân để hưởng thụ. Cái chăm chỉ thì toàn hướng vào đọc mấy sách hủ nho.

Triều đình cổ hủ thối nát, vẫn tâng bốc vua tận mây. Tự Đức còn thô thiển hơn khi lôi hết các danh tướng trong lịch sử nước nhà ra bình phẩm, chê bai cả Trần Hưng Đạo. Trong khi đó, bản thân ông ta và cả triều đình của ông ta chỉ làm đất nước lụn bại. Đất mất rồi, ra vẻ xót xa, nhưng vẫn xây cất xa hoa.

Cho dù người ta có viết hay thế nào, trong quan niệm của tôi, Tự Đức vẫn là ông vua đáng ghét và có tội nhất. Những vị vua hèn kém về sau cũng chỉ là hậu duệ, kế thừa cái di sản thảm hại của Tự Đức mà thôi.

Ông quan thì vênh vang mũ áo cân đai, nhưng nhìn xung quanh thì tất cả tuỳ tùng đều chân đất tiều tuỵ, thử hỏi làm sao có thể nghĩ đến việc đối đầu với Pháp ???



https://static.panoramio.com/photos/original/36342219.jpg

Chitto
22-06-2010, 17:48
Tại miền Nam, Pháp đã cai trị toàn diện, lập một "Soái phủ" do một Thống đốc đứng đầu.

Miền Bắc thì dư đảng Thái Bình Thiên Quốc từ Tàu tràn sang, thành các toán Cờ đen, cờ vàng quấy nhiễu. Hoàng Kế Viêm ra Bắc, chiêu hàng được Cờ đen, nhưng nổi loạn ở khắp nơi. Lại đến Nguyễn Tri Phương làm Khâm sai đại thần ra Bắc.

Năm 1872, có lái buôn người Pháp là Jean Dupuis (tiếng Việt gọi là Đồ Phổ Nghĩa) buôn bán với Vân Nam, dùng sông Hồng làm đường giao thương, chở khoáng sản từ Vân Nam về, lại chuyển gạo muối lên Vân Nam. Tuy nhiên việc mua bán này nhà Nguyễn đang cấm, nên quan ở Hà Nội yêu cầu dừng lại.

Jean Dupuis biết triều Nguyễn sợ người Pháp, nên cố tình gây sự, bắt cả quan huyện giam lại, đòi nhường phố Hàng Chiếu chỗ cửa ô Đông Hà (ô Quan Chưởng) cho người Pháp, vì chỗ này sát bến sông, rất thuận tiên cho giao thương, tàu bè cập cảng.

Quan lại thì không được quyết định điều gì, lại phải cho người về hỏi Huế, rồi tin từ Huế ra, đi lại cả tháng, là không được làm gì mất lòng người Pháp ! Huế lại sai người vào nam xin Thống đốc Nam kỳ can thiệp để "tha cho Bắc kỳ" !!!

"Phố Mới", tức là phố Hàng Chiếu, nơi Jean Dupuis đòi làm nhượng địa, về sau người Pháp cũng gọi luôn là phố Jean Dupuis, và cửa ô Đông Hà cũng gọi là cổng Jean Dupuis.



https://static.panoramio.com/photos/original/37048109.jpg

Chitto
22-06-2010, 18:06
Thống đốc Nam kỳ lệnh cho Đại uý Françis Garnier ra Bắc giải quyết, được toàn quyền quyết định. Garnier (tiếng Việt gọi là Ngạc Nhi) đi 2 tàu chiến ra, với 170 lính Pháp, có Dupuis đón với 150 lính Vân Nam.

Nguyễn Tri Phương tưởng Garnier ra để dàn xếp thoả thuận với Dupuis, ai dè Garnier ra lệnh phải mở cửa buôn bán, quan lại Việt Nam không có quyền gì ngăn trở, lại phải trao quyền điều hành cho người Pháp. Biết trước các quan lại không đồng ý, Garnier quyết đánh thành Hà Nội.

Sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, tàu chiến trên sông Hồng bắn pháo vào thành Hà Nội. Garnier với 170 lính Pháp, 150 lính Vân Nam tấn công. Thành Hà Nội bị chiếm chỉ sau một giờ. Hơn 2000 lính Việt bị bắt làm tù binh, Khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương cũng bị thương rồi bị bắt, sau ông nhịn đói mà chết, con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm cũng chết trận.

Người ta cũng kể rằng trong trận đánh Pháp, một quan Chưởng cơ với trăm lính đã giữ cửa ô Đông Hà và tử trận tại đó, nên cửa ô này được gọi là ô Quan Chưởng. Chuyện này không được ghi chép chính thức ở đâu cả, nhưng cái tên ô Quan Chưởng thì vẫn còn đó đến nay.

Thành Hà Nội thất thủ quá nhanh chóng, đại thần thì bị bắt rồi chết. Nhưng cũng khoảng thời gian đó, ở Huế vua Tự Đức có lẽ đang rất vui vẻ vì công trình Khiêm Lăng tốn kém của "ngài" cũng vừa mới hoàn thành !!! (Công trình này khởi công khi Pháp chiếm Nam bộ, và hoàn thành khi Pháp chiếm Bắc bộ).

Tranh vẽ cảnh quân Pháp hạ thành Hà Nội


https://static.panoramio.com/photos/original/37038127.jpg

Chitto
22-06-2010, 18:51
Chiếm được thành Hà Nội, quân Pháp toả đi chiếm các nơi, và chỉ trong thời gian rất ngắn, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định tiếp tục rơi vào tay Pháp.

Chỉ với vài trăm quân, làm sao người Pháp cai trị được một vùng rộng lớn đến thế ? Đó là nhờ trong 1 tháng, Garnier đã nhanh chóng có được đội quân chính thức 12 nghìn người rất trung thành - đều là các giáo dân Giatô.

Từ sau khi có lệnh tha đạo, Giatô - Công giáo phát triển rất nhanh, các cố đạo, giám mục Pháp được tự do hoạt động. Vị giám mục năng nổ nhất ở Đàng Ngoài là Puginier, làm thông ngôn cho Garnier, cũng là người đã chiêu mộ đội quân giáo dân cho Pháp.

Quân đội triều đình tan rã rồi, nhưng còn quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, một người Hoa, đã khiêu chiến. Garnier chủ quan, mang quân ra khỏi thành Hà Nội, và bị giết tại gần Cầu Giấy. Dấu tích mộ của Garnier trước kia còn ở đầu đường Đê La Thành, nhưng khi mở đường, đã mất dấu (xác thì đem vào Sài Gòn rồi sau này xương cốt đem về Pháp).

Tranh người Pháp vẽ Garnier bị giết tại Cầu Giấy.


https://static.panoramio.com/photos/original/37050376.jpg

Chitto
22-06-2010, 19:07
Người Việt thường biết đến Garnier như là kẻ khởi đầu chiếm thành Hà Nội, là kẻ thù của người Việt Nam.

Nhưng thiết tưởng, Phượt cũng nên biết Garnier còn là một Phượt gia có hạng, có danh tiếng trong lịch sử thám hiểm thế giới.

Là đại uý Hải quân, Garnier đã từng lênh đênh trên Đại Tây Dương, Thái Bình Dương trước khi đến Nam Kỳ. Sau khi Pháp đặt chế độ bảo hộ lên Campuchia, tại Garnier đã có ý định khám phá dòng sông Mekong hùng vĩ, và đề nghị Pháp lập một đoàn thám hiểm. Vì còn quá trẻ (mới 25 tuổi) nên Garnier chỉ được làm phó cho đoàn thám hiểm, tuy nhiên gần như toàn bộ công việc ghi chép, tìm hiểu của chuyến đi do Garnier thực hiện.

Chuyến thám hiểm kéo dài gần 2 năm, ngược dòng Mekong từ Nam kỳ, qua Campuchia, Lào, lên đến tận Vân Nam. Tại đây viên trưởng đoàn chết, Garnier trở thành trưởng đoàn, đã rời sông Mekong tìm sang thượng nguồn Dương Tử (sông Kim Sa mà dân ta đều gặp ở Lệ Giang), rồi xuôi dòng Dương Tử ra Thượng Hải về Sài Gòn.

Với bản chất của nhà thám hiểm, thích phiêu lưu, nên việc chiếm Hà Nội của Garnier cũng là phiêu lưu. Chính việc Dupuis nói sông Hồng có thể ngược lên Vân Nam đã khiến Garnier mong muốn ngược sông Hồng, để tiếp tục khám phá thượng nguồn Mekong. Tuy nhiên cũng chính vì máu phiêu lưu, Garnier đã chết tại Cầu Giấy, khi mới 34 tuổi, và chưa kịp hoàn thành ước mơ của mình.

Với người Pháp, Garnier là một nhà thám hiểm trẻ tuổi đầy tài năng.

Vì thế khi xây dựng Hà Nội, họ dành con phố rất đẹp bên cạnh hồ Gươm để mang tên phố Françis Garnier, ngày nay là phố Đinh Tiên Hoàng.

Tranh vẽ tưởng niệm Garnier


https://static.panoramio.com/photos/original/37050912.jpg

tunbo
22-06-2010, 23:22
Tớ thích cách nhìn nhận về Garnier như các bài viết của bác Chitto : việc nào ra việc đấy.
- Với người Việt, ông ta là kẻ xâm lược, và đã nhận một cái chết ... phù hợp
- Với lĩnh vực phượt, ông ta là tay có hạng, với các thành tích đáng ghi nhận.


Về vua Tự Đức, quan điểm cá nhân của bác, tớ tôn trọng. Bản thân tớ cũng không có cảm tình gì với ông này, nhưng đọc đoạn bác viết về ông ta, tự dưng có chỗ muốn nói vài câu.




Một số tài liệu vẫn nói tốt cho ông vua này khi bảo rằng ông ta là người thông minh, có hiếu, chăm chỉ... Nhưng mà cái "thông minh" ấy chỉ dành để làm văn thơ, múa may mấy bài thơ cho cái mộ to tướng của mình. Cái "có hiếu" chỉ hướng đến mỗi bà mẹ già vốn đã sung sướng trong cung, còn thì hành hạ dân chúng, tăng thuế để xây lăng, vét máu mỡ dân để hưởng thụ. Cái chăm chỉ thì toàn hướng vào đọc mấy sách hủ nho.



Thông minh, có hiếu và chăm chỉ là tính tốt chứ.
Tớ cũng đọc thấy một số tài liệu nói ông ta có 3 đức tính ấy, nhưng cái sự "thông minh" có vẻ là nói về thông thái trong học hành của ông ta.
Chẳng qua, ông ta không phù hợp với việc làm vua một nước. Thông minh chăm chỉ là một việc, làm vua có tốt không lại là việc hoàn toàn khác. Điển hình là ông ta chỉ lo đi làm thơ cho cái lăng mộ của mình, khi Pháp đang nuốt dần đất nước.

Việc có hiếu với mẹ của ông ta, thì xưa nay nói "làm con có hiếu" là có hiếu với cha mẹ chứ với ai nữa? Chẳng lẽ mẹ ông ta vốn đã sung sướng trong cung rồi, thì việc có hiếu với mẹ của ông ta là không cần thiết chăng?
Việc ông ta có hiếu với bà mẹ vốn sống sung sướng trong cung, với việc hành hạ dân chúng, tăng thuế để xây lăng, vét máu mỡ dân để hưởng thụ, là hai việc khác nhau. Việc nào ra việc đấy. Việc gì là tội lỗi thì rất đáng lên án, còn việc cá nhân của ông ta có hiếu với mẹ ông ta thì đâu có gì đáng phải bị dè bỉu (Xin lỗi, vì nhất thời chưa nghĩ ra từ nào phù hợp) đâu?


Nói chung, quan điểm của tớ về ông vua này :
- Có khả năng về văn thơ (không phải quá xuất sắc, vì ông ta từng bị Cao Bá Quát làm thơ xỏ, mà đành chịu), chăm chỉ, rất có hiếu với mẹ.
- Còn sự nghiệp làm vua thì vứt.
Thời (tạm coi là) bình, ông ta làm vua cũng thường, thời chiến, ông ta tỏ ra hèn nhát.
Còn việc bóc lột nhân dân, triều đại phong kiến nào chả bóc lột. Ông ta nặng "tội" hơn, vì bóc lột dân nặng nề trong khi nước đang bị chiếm, tự do đang bị mất gần hết.
(Nếu số ông ta không được làm vua, với những năng lực ấy, có khi ông ta thành một Tùng Thiện Vương hay Tuy Lý Vương khác cũng không biết chừng. Rõ ràng khi làm vua, được tâng bốc nhiều, ông ta cũng bị hoang tưởng về mình)

Chitto
23-06-2010, 09:58
Tuy đã chiếm được Hà Nội và 3 tỉnh rồi, nhưng lúc đó Pháp cũng chưa đủ sức để chiếm và cai trị miền Bắc (điều mà họ sẽ làm 10 năm sau), nên khi triều đình Huế sai quan ra đàm phán để chuộc lại 4 tỉnh, họ đồng ý.

Năm 1874, đội quân giáo dân giải tán, giám mục Puginier lại về Kẻ Sở. Tất cả những người theo Pháp đều được "đại xá". Pháp trả lại toà thành Hà Nội, nhưng đòi một khu nhượng địa làm nơi đóng quân và xây toà Công sứ. Khu nhượng địa nằm ở cạnh sông Hồng, gọi là khu Đồn Thuỷ, nay là khu vực dọc đường Trần Khánh Dư, bệnh viện 108 và Hữu Nghị bây giờ. Khu nhượng địa này trở thành căn cứ quân sự để Pháp phát triển rộng hơn.

Từ đây, hoạt động của quan lại triều đình ở miền Bắc đều nằm trong sự kiểm soát của người Pháp.

Tranh vẽ một số điểm quan trọng của Hà Nội năm 1873 nhìn từ sông Hồng.


https://static.panoramio.com/photos/original/37038131.jpg


@Tunbo: Viết về vua Tự Đức cũng là nhận định cá nhân, và vì có liên quan đến Hà Nội nên tôi đưa một chút vào đó thôi. Viết dài về vấn đề này e đi xa quá ! Mong thông cảm.

Chitto
23-06-2010, 10:10
Năm 1873, Phạm Đình Bách vẽ bản đồ Hà Nội rất chi tiết.

Nhìn trên bản đồ này, thấy các hồ nước còn rất nhiều. Đặc biệt là trong khu "phố cổ" cũng còn mấy chiếc hồ, là hồ Thái Cực, hồ Ngư Võng, hồ Huyền Thiên, hồ Đồng Xuân... sau này đều bị lấp hết.

Bên dưới hồ Gươm cũng có nhiều hồ nước, các làng xóm được vẽ khoanh vùng, làng nằm giữa các khoảnh ruộng, dân cư vẫn làm ruộng ngay trong nội thành. Khu nhượng địa cho Pháp nằm sát bờ sông, vẽ hình chữ nhật.

Trên Nhĩ Hà là các tàu của Pháp, vừa tàu buôn vừa tàu chiến. Trong khu hồ Tây còn vẽ mấy con trâu đang lội...


https://static.panoramio.com/photos/original/37038138.jpg

Chitto
23-06-2010, 11:49
Năm 1887, khoa thi Hương cuối cùng ở Hà Nội được tổ chức. Mặc dù các khoa thi cổ còn tiếp tục đến năm 1919, nhưng tại Hà Nội thì chấm dứt. Chế độ khoa cử kéo dài 800 năm đã đến lúc cáo chung.

Khu Trường Thi cũng vì thế trở thành khu đất hoang, nơi sau này dựng Nha Kinh lược, và rồi khu Thư viện Đông Dương.

Các quan giám khảo trong trường thi Hương cuối cùng ở Hà Nội, từ giờ những chiếc ghế cao sẽ thành vô dụng...


https://static.panoramio.com/photos/original/37077852.jpg

Chitto
24-06-2010, 01:02
Với khu nhượng địa (cũng như kiểu Tô giới ở Trung Quốc), người Pháp lập tức xây đồn lính để đóng quân.

Toà nhà Sở chỉ huy quân Pháp được xác định là công trình kiến trúc Pháp có quy mô lớn đầu tiên được xây dựng tại Hà Nội, mở đầu cho kiến trúc Pháp ở thuộc địa.

Toà nhà Sở chỉ huy quân Pháp ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng, 37 Phạm Ngũ Lão.


https://static.panoramio.com/photos/original/37098870.jpg

Xuống phía dưới của khu nhượng địa, Pháp xây toà nhà Lãnh sự để làm việc, ở vị trí của góc Tăng Bạt Hổ - Trần Thánh Tông ngày nay. Toà nhà đó đã không còn nữa.

Tại vị trí của toà Lãnh sự xưa kia


https://static.panoramio.com/photos/original/37096997.jpg

Chitto
24-06-2010, 01:19
Điều gì đến cũng đã đến. Lấy lý do triều đình Huế dựa vào Trung Hoa, vẫn o bế cho quân Cờ đen quấy nhiễu dọc sông Hồng, Soái phủ Sài Gòn cử Đại tá Henri Riviere ra Hà Nội, cùng với 4 tàu chiến hơi nước. Khác với Đại uý Garnier trẻ tuổi phiêu lưu, Riviere lúc này đã là đại tá (dân ta gọi là Quan năm), đã 55 tuổi, nhiều kinh nghiệm. Đối thủ của Riviere là Tổng đốc Hoàng Diệu, cũng đã 54 tuổi.

Năm 1882, Rivier đưa tối hậu thư yêu cầu đầu hàng, Hoàng Diệu chưa trả lời thì từ sông Hồng, 4 tàu chiến nổ súng bắn vào thành. Cửa thành phía Bắc trúng hai phát đạn, tạo thành hai cái lỗ sâu hoắm trông thảm thương (nhưng cũng vì hai cái lỗ đó mà cửa thành này sống sót đến ngày nay). Chỉ sau vài giờ, Hà Nội thất thủ.

Tổng đốc Hoàng Diệu vào Võ Miếu viết biểu tạ tội gửi về Huế, rồi treo cổ tự tử.


Hai tàu chiến Fanfare và Surprise, đã nổ súng bắn vào phía Bắc thành Hà Nội.


https://static.panoramio.com/photos/original/original/37077614.jpg

https://static.panoramio.com/photos/original/37077615.jpg

Chitto
24-06-2010, 01:21
Tường thành phía cổng Đông sụp đổ


https://static.panoramio.com/photos/original/37077616.jpg

Những vết đạn trên Cửa Bắc vẫn còn đến ngày nay do pháo trên tàu Fanfare và Surprise tạo ra. Cũng vì dấu tích này mà khi phá thành Hà Nội năm 1894, người Pháp đã giữ lại cổng này để ghi dấu chiến công, để lại cho chúng ta cửa thành cuối cùng của thành Hà Nội.


https://static.panoramio.com/photos/original/37077851.jpg

Chitto
24-06-2010, 01:34
Khi Pháp đánh thành Hà Nội, thì Hoàng Kế Viêm và quân Cờ đen đóng ngay ở phía Dịch Vọng, nhưng không biết tin mà vào cứu.

Lịch sử mười năm trước lặp lại, khi Henri Riviere đánh ra phía Cầu Giấy, gặp đội quân Cờ đen, và cũng tại Cầu Giấy, Riviere đã bỏ mạng.

Sau này người Pháp đưa di hài Riviere vào Sài Gòn rồi về Pháp, tại nơi đó thì dựng một đài tưởng niệm và dựng bia. Sau này bia cũng bị đập bỏ, chỉ còn lại nấm mộ giả là một phiến đá rất lớn đặt nằm. Cả trăm năm nay, người dân Cầu Giấy vẫn gọi đó là mô Quan năm, đến giờ vẫn vậy.

Khi lập khu phố mới, người Pháp lấy tên Henri Riviere đặt cho một con đường đẹp, nay là phố Ngô Quyền.

Mộ Quan năm giờ đây nằm ngay trên vỉa hè đường Cầu Giấy, gần Bưu điện. Ngôi nhà bên cạnh không dám lấn vào, mà xây khuyết một góc tường chừa ra. Những người buôn bán xung quanh vẫn thường chất đồ lên đó.

Ảnh: Ngôi mộ Riviere (không có xác) ở Cầu Giấy ngày nay, hầu như không ai để ý


https://static.panoramio.com/photos/original/37096984.jpg

Chitto
24-06-2010, 10:39
Trong hai lần Hà Nội thất thủ, hai vị Đại thần tử tiết. Tại ngôi miếu Trung Liệt trên đỉnh gò Đống Đa, bài vị của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu được đặt ở giữa. Người Hà Nội kính trọng tiết nghĩa của Hoàng Diệu, đến nỗi gọi toà thành Hà Nội là thành Hoàng Diệu, và cách gọi đó vẫn còn phổ biến đến cách đây khoảng hai chục năm, giờ thì gần như mất hẳn.

Tuy nhiên, tôn kính là tôn kính những người đã hi sinh vì Hà Nội, chứ không phải với triều đình Nguyễn.

Với người dân, thì thực ra quân Cờ Đen cũng không khác lắm giặc cướp. Cờ Đen từ Tàu tràn sang, toàn người Hoa, cướp phá suốt dọc từ Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Sơn Tây. Kể cả khi triều đình Huế dụ hàng, thì vẫn là đội quân ngoại quốc. Sau này khi quân Tàu tràn sang, Cờ Đen lại theo về Tàu.

Cho nên vào lúc đó, quân Cờ Đen giết Garnier rồi Riviere, với người dân Hà Nội, có lẽ cũng chỉ như quân Tàu giết quân Pháp. Dù đằng sau Cờ Đen có Hoàng Kế Viêm, nhưng quân người Việt gần như không đáng kể. Do đó công giết Pháp của Cờ Đen cũng không phải là vẻ vang gì lắm với người Việt.


Ngày nay, trên vọng lâu của Cửa Bắc, đặt hai bức tượng đồng thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu, bên trên có bốn chữ "Nghĩa liệt anh hùng".


https://static.panoramio.com/photos/original/37077848.jpg

Chitto
24-06-2010, 20:31
Hà Nội mất rồi, vua Tự Đức khi đó đã ở cuối đời, ký hoà ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp ở miền Bắc. Các việc ngoại giao, quân đội, thương mại phải do Pháp quyết định. Bên cạnh đó vẫn có hệ thống quan lại của người Việt như trước.

Để tránh cứ mỗi lần có việc gì các quan Việt lại phải xin chỉ thị của Huế, Pháp bắt lập lại Nha Kinh lược Bắc kỳ, lập lại chức Kinh lược sứ là người thân với Pháp, để có việc gì cần quản lý người Việt thì Kinh lược sứ thay mặt triều đình mà xử lý luôn, tách biệt khỏi Huế.

Lúc đầu người Pháp định đặt toà Công sứ ở phố Mới (Hàng Chiếu), nhưng sau chuyển xuống phố Hàng Gai, gần hồ Gươm. Công sứ Pháp ở đâu, thì Kinh lược sứ của An Nam cũng phải ở đó để dễ bề "qua lại", bởi thế Toà Công sứ và Nha Kinh lược nằm đối diện hai bên đường Hàng Gai, ngày nay là vị trí số nhà 80 và 79.

Bấy giờ một số người ở quanh phố Hàng Bông, Hàng Gai lo sợ chiến tranh, đã bỏ về quê, nên có một số nhà vắng chủ. Những nhân viên của Pháp đến ở trong các đình chùa và các ngôi nhà này.

Vị trí Toà Công sứ Pháp xưa kia, nay thì toà nhà đó đã không còn.


https://static.panoramio.com/photos/original/37124819.jpg

Chitto
24-06-2010, 20:38
Tuy nhiên, khu vực Hàng Bông, Hàng Gai trong những năm sau đó cũng vẫn liên tục bị hoả hoạn, nguy cơ cháy lan đến toà Công sứ. Người Pháp quy hoạch lại khu quanh hồ Gươm, và sau khi nâng cấp Toà Công sứ thành Phủ Thống sứ, thì chuyển đi. Nha Kinh lược cũng chuyển về khu Tràng Thi. Toà Công sứ thì chuyển thành xưởng in, còn Nha kinh lược thì dần chuyển thành nhà dân.

Vị trí của Nha Kinh lược cũ, ngày nay cũng không còn gì. Bên cạnh Nha kinh lược có ngôi đình Cổ Vũ, nay cũng chỉ còn một mẩu, với cây đa bám sát vào bờ tường, có lẽ cũng hơn trăm năm tuổi.



https://static.panoramio.com/photos/original/37124823.jpg

Chitto
24-06-2010, 20:53
Công trình thuộc loại lớn nhất và sớm nhất của người Pháp ở Hà Nội là Nhà thờ lớn. Tuy nhiên nên bắt đầu từ nhà thờ Kẻ Sở.

Sau khi có lệnh tha đạo, đạo Giatô phát triển mạnh, giám mục Tây Đàng Ngoài dời từ Vĩnh Trị ở Nam Định về Kẻ Sở ở Hà Nam. Sau năm 1873 khi Pháp đem quân vào miền Bắc, thì Công giáo càng phát triển mạnh. Tại Sài Gòn, năm 1877 xây Nhà thờ Đức Bà lớn nhất miền Nam, thì cùng năm đó, giám mục Tây Đàng Ngoài là François Puginier cũng cho xây nhà thờ Kẻ Sở lớn nhất miền Bắc, mất 5 năm mới xong.

Nhà thờ ở Sài Gòn thì từng viên gạch, từng chiếc đinh ốc đều chuyển từ Pháp sang, còn nhà thờ Kẻ Sở thì sử dụng hoàn toàn vật liệu bản địa. Toà nhà thờ này cho đến nay vẫn là lớn nhất miền Bắc, ngày khánh thành tương truyền có đến 5 nghìn người đứng chật trong lòng nhà thờ.

Toà nhà thờ lớn nhất Bắc kỳ năm 1885, dễ thấy xung quanh vẫn là các ngôi nhà tranh lụp xụp.


https://static.panoramio.com/photos/original/37125684.jpg

Nhà thờ Kẻ Sở ngày nay, với mặt tiền rất đồ sộ (ảnh sưu tầm)


https://static.panoramio.com/photos/original/37125689.jpg

Quanh nhà thờ Kẻ Sở còn có chủng viện, tu viện, nhà in,... rất hoàn chỉnh. Năm 2009, nhà thờ này vừa được phong làm Vương cung Thánh đường.

Chitto
24-06-2010, 21:05
Năm 1882, khi Pháp chiếm Hà Nội lần thứ hai, và từ giờ thực sự chiếm hoàn toàn nơi này, Giám mục Puginier từ Kẻ Sở lên đây. Đầu tiên ông lấy một mảnh đất trong khu vực chùa Báo Thiên đã đổ nát làm một nhà thờ nhỏ. Sau đó, lấy cớ chùa đã hư hỏng cả, Tổng đốc Hà Nội thân Pháp cho chuyển tất cả đồ thờ tự còn lại đến chùa ở làng Phụ Khang, giao toàn bộ khu đất cho Puginier.

Sau đợt xổ số năm 1883 để có tiền, năm 1884, giám mục Puginier cho xây nhà thờ Thánh Giô-sép (Joseph - Giuse), với kiến trúc giống nhà thờ Kẻ Sở, nhưng nhỏ hơn cả về bề ngang và chiều dài, chỉ có hai tháp chuông là cao hơn, hoàn thành cuối năm 1887. Lúc mới xây xong, trước nhà thờ chỉ là một cột đèn, chưa có tượng Đức Mẹ như bây giờ, người ta quen gọi là Nhà thờ lớn.

Puginier cũng dời Toà giám mục từ Kẻ Sở về Hà Nội, và cho đến nay, đây là nhà thờ Chính toà của Tổng giáo phận Hà Nội, tức là nhà thờ Chính toà của cả miền Bắc.

Nhà thờ lớn cách đây hơn trăm năm


https://static.panoramio.com/photos/original/37125669.jpg

và hình ảnh ngày nay, đã quá quen thuộc với tất cả người Hà Nội và những người đến thăm Hà Nội


https://static.panoramio.com/photos/original/37127119.jpg

Chitto
24-06-2010, 21:46
Trong khi tại Kẻ Sở, giám mục Puginier có thể dựng ngôi nhà thờ to gấp rưỡi nhà thờ Hà Nội, thêm hàng loạt công trình phụ trợ hoàn toàn từ công của giáo dân; nhưng tại Hà Nội thì phải phát hành hai đợt xổ số mới đủ tiền xây nhà thờ.

Nhà thờ xây xong cũng không có tiền xây các công trình mục vụ khác. Đó là do ở Nam Định, Hà Nam, giáo dân rất đông, trong khi đó tại Hà Nội, giáo dân ít hơn rất nhiều. Về sau khi Công giáo được phát triển ở Hà Nội, mới dựng các toà giám mục, nhà xứ, rồi về sau là chủng viện, toà khâm sứ...

Ngôi nhà của Hội truyền giáo cách đây trăm năm, còn khá đơn sơ.


https://static.panoramio.com/photos/original/37125644.jpg

Ngôi nhà đó vẫn còn đến ngày nay, ngay sát tường bên cạnh là Toà Tổng giám mục


https://static.panoramio.com/photos/original/37128368.jpg

Chitto
24-06-2010, 21:53
... và ngay gần ngôi nhà này là miệng giếng đá cổ, dấu tích cuối cùng của ngôi chùa Báo Thiên xưa
(cái này đã viết trong trang 4, phần đời nhà Lý rồi)


https://static.panoramio.com/photos/original/33574386.jpg

Chitto
24-06-2010, 23:13
Giám mục Puginier cũng là người đầu tiên đưa chiếc xe tay vào Hà Nội. Xe tay có trước đó ở Trung Quốc, sau khi vào làm việc ở Hà Nội, Puginier đã dùng phương tiện này để di chuyển, rồi nhanh chóng nhân rộng ra, hình thành một lớp người lao động kéo xe tay.


https://static.panoramio.com/photos/original/37130187.jpg

Sau này người Pháp lấy tên Puginier đặt cho một con đường mới mở rất đẹp, đại lộ Puginier, nay là đường Điện Biên Phủ.

Lại có một trường dòng cho các tu sĩ Công giáo mang tên Puginier được xây giữa khu phố, nay là trường THPT Việt Đức.

Trường dòng Puginier ngày nay:


https://static.panoramio.com/photos/original/37130606.jpg

Chitto
25-06-2010, 10:46
Người Pháp bắt đầu quy hoạch các công sở, sau toà Công sứ là đến toà Đốc lý (tức là toà Thị chính).

Họ quyết định lấy hồ Gươm làm trung tâm hành chính của thành phố, do đó năm 1883 đã chuyển ngôi chùa Phổ Giác ở cạnh hồ Gươm đi, xây toà công sở quản lý cho Hà Nội, tiếng Pháp là Mairie, người Việt dịch là toà Đốc lý, với Đốc lý (Thị trưởng) là người Pháp.

Công việc của Đốc lý lúc đầu có lẽ chưa nhiều, nên toà công sở này ban đầu không lớn lắm. Toà nhà có cửa chính quay ra nơi sau này sẽ làm vườn hoa, nay là vườn hoa có tượng đài Lý Thái Tổ.

Toà Đốc lý hồi xưa, cửa chính ở phố Lê Lai


https://static.panoramio.com/photos/original/37098718.jpg

Và hình ảnh ngày nay của toà nhà đó


https://static.panoramio.com/photos/original/37125657.jpg

Chitto
25-06-2010, 10:53
Về sau toà Đốc lý mở rộng thêm, và sau năm 1945 khi người Pháp tái chiếm Hà Nội, thì gọi là toà Thị Chính, người đứng đầu là Thị trưởng.


https://static.panoramio.com/photos/original/37098725.jpg

Và vị trí của Toà thị chính trước kia, giờ có toà nhà này, mà có người nói nó trông giống cái máy chém, hai cột hai bên, có cái lưỡi treo lơ lửng bên trên, và cái máng hứng bên dưới. (Muốn xem cái máy chém, vào trong Hoả Lò là thấy, khá giống)


https://static.panoramio.com/photos/original/37124842.jpg

Chitto
25-06-2010, 12:23
Tháp Rùa xuất hiện giữa hồ Gươm vào năm 1883, ngay khi Pháp bắt đầu cai trị Hà Nội.

Gò Rùa, còn được gọi là Quy Sơn, là gò đất nổi phía Nam hồ Gươm. Thời hồ Gươm còn thông với sông Hồng, khi nước lên còn ngập cả gò. Sau này hồ tách biệt, ngày mưa to gò cũng lấp xấp nước, xưa nay vốn không có công trình gì.

Sách cũ ghi ông Bá hộ tên là Kim, một người có làm việc cho Pháp, đã xin phép toà Đốc lý và xây cái tháp ba tầng. Hai tầng dưới theo kiến trúc Tây, cửa vòm nhọn, tầng trên cùng bé lại, mái lợp ngói kiểu ta, đắp bốn con rồng quay ra bốn phía. Ngọn tháp tuy thấp, kiến trúc lạ lùng, nhưng lại rất vừa vặn với khung cảnh hồ Gươm, trở thành một điểm nhấn rất hài hoà.

Mục đích của Tháp Rùa để làm gì không được rõ. Có giai thoại cho rằng đó là do Bá hộ Kim muốn táng mộ bố mình vào đó để được phát, những người thợ đã vứt hài cốt xuống hồ. Tuy nhiên giai thoại đó cũng rất có thể là do người ta ghét Bá hộ Kim làm việc cho Pháp mà đặt ra, chứ không có thật.

Một ngọn tháp "không đáng gọi là tháp", không mang ý nghĩa lịch sử văn hoá nào, thế nhưng trăm năm qua vẫn đứng đó, thân thuộc vô cùng. Đến nỗi năm 1992, chỉ mới quét nước ximăng lên bên ngoài làm tháp trông mới hơn mà người Hà Nội đã sôi sùng sục lên rồi, nếu tưởng tượng một ngày trên gò Rùa tháp biến mất, thì không hiểu sẽ thế nào?

Hình ảnh Tháp Rùa đã đi vào nghệ thuật, và vào tâm trí của người biết và yêu Hà Nội sâu sắc đến không thể thay thế.

Trăm năm trước


https://static.panoramio.com/photos/original/37125755.jpg


Vẫn còn đây mơ màng


https://static.panoramio.com/photos/original/37124833.jpg

Chitto
25-06-2010, 12:37
Có người đã tìm thấy sự tương đồng tỉ lệ hình học của Tháp Rùa khá thú vị. Tôi không biết tác giả là ai, thấy ảnh trên mạng nên cắt bớt phần rườm rà, gửi lên mọi người cùng xem.

Tuy nhiên, có thể thấy kết quả là do sự hài hoà và đối xứng trong kiến trúc nói chung, chứ không phải chủ ý của người xây, chẳng hạn hai vòng tròn và hai ngôi sao bên dưới nhỏ hơn vòng tròn và ngôi sao trên cùng (vì 2 vòng đó không chạm được vào cánh của ngôi sao lớn)...


https://static.panoramio.com/photos/original/37148946.jpg

Chitto
25-06-2010, 15:08
Đến 1887 thì Pháp đã hoàn tất việc hình thành 5 xứ thuộc địa tại Đông Dương, còn gọi là Đông Pháp, mỗi xứ có chính thể hơi khác nhau, gồm 3 xứ của Việt Nam và Laos, Cambodia.

1. Xứ Nam kỳ (Cochinchina), hoàn toàn thuộc Pháp, đứng đầu bởi Thống đốc, người Việt chỉ quản lý ở cấp huyện trở xuống.

2. Xứ Trung kỳ (Annam), trên danh nghĩa vua Nguyễn làm vua, Pháp "bảo hộ" thông qua một Khâm sứ. Nhưng quan lại buộc phải qua Khâm sứ phê duyệt.

3. Xứ Bắc kỳ (Tonkin), đứng đầu là một Thống sứ, Pháp bảo hộ, cai trị cùng với hệ thống quan lại triều Nguyễn, mọi quyền quyết định thuộc Pháp.

Đứng đầu tất cả là một viên Toàn Quyền Đông dương. Trị sở chính đặt tại Hà Nội, trong Sài Gòn thì Soái phủ cũng dành làm Dinh Toàn quyền khi Toàn quyền vào đó làm việc.

Tại Hà Nội, Tổng đốc Hà Nội do Pháp duyệt, thường kiêm Kinh lược Bắc kỳ luôn, nhưng quyền hành nằm trong tay Thống sứ Pháp cả, và trên nữa còn có Toàn quyền Đông dương.

Chitto
25-06-2010, 15:31
Tấm bản đồ Hà Nội do Pháp vẽ năm 1885 khá chi tiết, dựa vào đó có thể nhận biết được nhiều điều.
(Chỉ cắt một phần chính).


https://static.panoramio.com/photos/original/37180470.jpg

Tấm bản đồ này cho thấy toà thành Hà Nội kiểu vauban chiếm một diện tích lớn. Trong thành có vài đầm nước, gần như bỏ trống, bởi các trại lính, kho tàng đã bị phá huỷ hết rồi. Bên phải toà thành là khu phố phường đông đúc. Phía Nam hồ Gươm chỉ có khu Nhượng địa, còn lại vẫn là làng và ruộng.

Sông Tô Lịch nối với hào thành, rồi chảy xuyên ngang khu phố cổ, đổ ra sông Hồng, nhưng đã hẹp lại rất nhiều, và không còn là con đường thuỷ để thuyền buôn đi vào thành được nữa.

Trong khu phố cổ vẫn còn mấy hồ nước. Hồ Thái Cực nối với hồ Gươm bởi một con lạch. Bắc ngang con lạch đó là cây cầu bằng gỗ, vì thế mới có tên Cầu Gỗ. Khu nhà bên cạnh hồ Thái Cực còn đánh cá ở hồ, nên gọi là khu Gia Ngư, sau này mới có phố Gia Ngư.

Bên trên hồ Thái Cực còn hồ Ngư Võng, hồ Đồng Xuân, hồ Huyền Thiên thì bao quanh quán Huyền Thiên. Sau này khi lấp các hồ đi, mới có các phố trên nền đất đó. Vì vậy hiện nay ngay giữa khu phố cổ vẫn có những phố không mang tên cổ, như Đinh Liệt, Nguyễn Quyền,..., đều là phố lập sau này.

Chitto
25-06-2010, 15:51
Năm 1888, vua bù nhìn Đồng Khánh trao cho Pháp toàn bộ khu vực thành Hà Nội và lân cận làm Nhượng địa.

Tỉnh Hà Nội xoá sổ, phần đất của tỉnh Hà Nội cũ, sau khi cắt thành Hà Nội ra, thì gọi là tỉnh Cầu Đơ, và sở lỵ đặt tại Cầu Đơ. Mấy năm sau vì tên Cầu Đơ xấu quá nên mới đổi cả sở lỵ và tên tỉnh là Hà Đông. Từ khi đó, không còn chức Tổng đốc Hà Nội nữa, mà chỉ còn Tổng đốc Hà Đông.

Đến năm 1965 mới ghép Hà Đông và Sơn Tây thành Hà Tây, rồi năm 2008 lại xoá sổ Hà Tây.

Như vậy đến năm 1888 Pháp mới chính thức thành lập Thành phố Hà Nội, với địa giới như trong bản đồ dưới. Như thế thành phố Hà Nội chỉ gồm quận Hoàn Kiếm, một phần của quận Ba Đình, một phần của quận Hai Bà, và chỉ bằng khoảng một nửa Thành Thăng Long đời Lê.


https://static.panoramio.com/photos/original/37152883.jpg

Chitto
25-06-2010, 16:29
Bấy giờ Thành phố Hà Nội thuộc Pháp hết rồi, các quan của tỉnh Cầu Đơ mời ra Cầu Đơ mà lập phủ.

Tuy nhiên Kinh lược sứ là người thay mặt triều đình Huế ở miền Bắc, bấy giờ là Hoàng Cao Khải, là người thân với Pháp, nên họ cho lập Dinh Kinh lược ngay trong thành Hà Nội, ở trên nền Trường Thi cũ. Dinh Kinh lược xây 2 năm mới xong, nhưng cũng chỉ 10 năm sau là lại bỏ chức Kinh lược. Sau này dinh Kinh lược bị phá bỏ để xây Thư viện.

Hoàng Cao Khải là Kinh lược, đồng thời là Tổng đốc Hà Đông, không chỉ có toà Dinh do Pháp xây, mà còn chiếm hàng trăm mẫu ruộng để lập Ấp Thái Hà. Sau này lăng mộ của ông ta cũng đặt ở Thái Hà, giờ bị lấn chếm gần hết rồi.

Dinh Kinh lược


https://static.panoramio.com/photos/original/37097023.jpg

Chitto
26-06-2010, 00:19
Thành phố Hà Nội hoàn toàn thuộc Pháp rồi, khu Hành cung của vua cũng thế.

Chính giữa thành cổ là điện Kính Thiên, nơi cấm điạ tôn nghiêm từ mấy trăm năm, khi mới chiếm được thành lần 2, quân Pháp đã xây một bức tường quanh nền điện, để làm nơi cố thủ đề phòng khi bị tấn công. Bức tường chỉ chừa một cửa ở giữa hai con rồng đá.

Sau năm 1888, thì quân Pháp phá hoàn toàn điện Kính Thiên, và chuyển toà nhà Sở chỉ huy pháo binh từ khu Nhượng địa lên đặt vào đó. Xung quanh xây thêm các ngôi nhà sở chỉ huy pháo binh, thuỷ quân.

Sau năm 1954, toà nhà Sở chỉ huy quân Pháp cũng trở thành nhà Bộ tổng tham mưu các chiến dịch của QĐNDVN.

Điện Kính Thiên khi mới bị Pháp chiếm


https://static.panoramio.com/photos/original/37167111.jpg

Và ngày nay, bên trên thềm điện vẫn còn toà nhà Sở chỉ huy pháo binh quân Pháp - Bộ tổng tham mưu quân Việt Nam.


https://static.panoramio.com/photos/original/37155906.jpg

Chitto
26-06-2010, 11:04
Trong thành cổ, nửa phía Đông của thành, Pháp xây một loạt nhà làm khu quân sự, nơi sĩ quan, lính Pháp đóng quân. Doanh trại cũng chuyển từ khu Nhượng địa trước kia vào đây, để khu đất Nhượng địa về sau dựng thành Bệnh viện quân đội.

Khu quân sự của Pháp trước kia trong thành cổ


https://static.panoramio.com/photos/original/37152271.jpg

Và khu vực đó ngày nay, trở thành trụ sở của Bộ Quốc phòng


https://static.panoramio.com/photos/original/37152264.jpg

Chitto
26-06-2010, 11:28
Thống sứ đầu tiên của cả Bắc và Trung kỳ là Paul Bert, người đã thiết lập nền móng khá ôn hoà giữa người bản xứ và kẻ cai trị người Pháp, tuy nhiên ông này làm chỉ được nửa năm thì chết ở Hà Nội.

Đốc lý đầu tiên của Hà Nội là Halais (tiếng Pháp đọc là A-le, nhưng dân ta quen đọc là Ha-le). Halais là một kiến trúc sư. Sau khi xem xét địa thế Hà Nội, ông đã hình thành ý tưởng thiết kế quy hoạch Hà Nội, và bắt tay vào thực hiện.

Lúc bấy giờ, quân Pháp tập trung tại khu Nhượng địa ở phía Đông Nam, và trong thành cổ. Từ Nhượng địa, họ đi theo con đường ngang qua khu Tràng Tiền, sang Hàng Khay, ngược lên Nhà Chung, đi trong khu phố cổ để đến Cửa Đông mà vào thành. Do đó quy hoạch của Halais bắt đầu từ con đường gần khu Nhượng địa, làm thành con đường tập trung các toà nhà Pháp đầu tiên.

Con đường đó mang tên Paul Bert, nay là phố Tràng Tiền.

Người Pháp cũng lấy tên Halais đặt cho một con đường do ông đã từng vạch ra nhưng chưa kịp thực hiện, tức là phố Nguyễn Du bây giờ. Và cái hồ đẹp ngay bên cạnh cũng gọi là hồ Halais. Dân ta Việt hoá gọi là hồ Ha-le, cái tên đó đến nay vẫn còn một số người dùng để gọi hồ Thiền Quang.


https://static.panoramio.com/photos/original/37182041.jpg

Chitto
26-06-2010, 11:41
Đốc lý Halais cũng cho phá hết vòng thành bao quanh thành phố. Vòng thành này vốn nhà Nguyễn đã làm nhỏ lại từ thành Đại La của triều Lê, và mở ra 16 cửa ô, nhưng nay không còn giá trị phòng thủ nữa, lại làm cản trở việc phát triển thành phố. (không phải cái thành Vauban mà ta gọi là "thành cổ")

Các cửa ô xưa bị phá hết. Duy chỉ có một cửa ô còn tồn tại, là ô Đông Hà, hay ô Quan Chưởng.

Người ta kể rằng viên Cai tổng Đồng Xuân và nhân dân đã nhất quyết xin giữ lại cửa ô này, không chịu ký vào tờ đơn do Pháp soạn sẵn để phá cổng. Tuy nhiên, còn một lý do khác để Pháp giữ cửa ô này, đó là vì nơi đây lưu giữ dấu tích của Jean Dupuis, người đầu tiên đưa Pháp vào Bắc kỳ, và cái cổng này họ gọi là cổng Jean Dupuis. Về sau họ còn dựng ở đây tượng Dupuis ở đây.

Tên gốc của cửa này là ô Thanh Hà, sau này đổi lại là ô Đông Hà, rồi dân gian gọi là ô Quan Chưởng. Đây là cửa ô cuối cùng còn lại cho đến nay.


https://static.panoramio.com/photos/original/37181815.jpg


https://static.panoramio.com/photos/original/37182208.jpg

Chitto
26-06-2010, 14:16
Thành luỹ Đại La đã san phẳng, người Pháp lấp luôn khúc sông Tô Lịch chảy ngang khu phố cổ.

Khúc sông này đã từng là con đường giao thông quan trọng để đi vào thành Thăng Long từ cả nghìn năm. Xưa thuyền vua từ sông Hồng đi qua cửa Giang khẩu (hay Hà khẩu) ngang qua khu phố chợ buôn bán để đến cửa hoàng cung, hoặc tiếp tục đi nữa để thông sang khu buôn bán phía Tây kinh thành, hoặc đi vào hồ Tây qua cửa Hồ khẩu.

Trước kia bắc qua sông Tô Lịch này có cây cầu bằng đá, gọi là Cầu Đông. Từ đời Lý đã lập ngôi chùa gần cầu, gọi là chùa Cầu Đông. Ngày nay, đây là di tích cuối cùng còn mang cái tên gợi nhớ về một dòng sông cổ đã hoàn toàn mất dấu.


Chùa Cầu Đông ngày nay trên phố Hàng Đường, ở cạnh cây cầu đá bắc qua Tô Lịch xưa, tu sửa lại trông buồn quá.


https://static.panoramio.com/photos/original/37184767.jpg

Chitto
26-06-2010, 14:25
Khúc sông Tô Lịch lấp rồi, người Pháp dồn hai khu chợ Cầu Đông và chợ Bạch Mã vào khu đất trống cạnh đình Đồng Xuân, rồi xây thành khu chợ mới rất lớn, gọi là Chợ Lớn (Grand Marché), nhưng người dân quen gọi là chợ Đồng Xuân.

Chợ Cầu Đông xưa nằm ngay cạnh Cầu Đông, chợ một bên sông, chùa một bên sông. Đến giờ dân gian vẫn còn lưu truyền câu ca dao:

Bà già đi chợ Cầu Đông / Bói một quẻ bói lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng : "Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn".

Chợ Bạch Mã ở cạnh đền Bạch Mã, khu Hàng Buồm, cũng là cạnh bờ sông Tô Lịch (vì thế mới bán buồm cho thuyền), cũng là một chợ lớn. Các chợ này họp theo phiên, vài ngày mới có một phiên, so le nhau. Chợ Cầu Đông bán những loại lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng trực tiếp. Chợ Bạch Mã bán nhiều đồ công cụ, vật dụng lao động.

Chợ Đồng Xuân dựng thời đầu cũng không rõ ra sao, năm 1920 dựng lại với kiến trúc khá độc đáo gồm 5 ô cửa, đằng sau mỗi ô là dãy chợ lợp mái kéo dài, do dồn các chợ vào nhau nên trong chợ có đủ mặt hàng, và là chợ lớn nhất của Hà Nội.

Ảnh: Chợ Lớn - Đồng Xuân những năm 1920


https://static.panoramio.com/photos/original/37167709.jpg

Chitto
26-06-2010, 14:29
Con đường trước mặt chợ Đồng Xuân xưa có tên là phố Hàng Gạo, vì chuyên bán gạo, cũng như quanh đó có Hàng Khoai bán khoai, Hàng Đậu bán đậu. Gạo từ các nơi chở lên bằng đường sông, vào đầu sông Tô Lịch thì bán ngay trên bờ. Sông lấp rồi, khúc đường đó mới có tên Chợ Gạo.

Sau năm 1945 mới đổi tên phố Hàng Gạo thành phố Đồng Xuân.

Chợ Đồng Xuân những năm 1970, vẫn còn nguyên năm ô cửa


https://static.panoramio.com/photos/original/37167716.jpg

Đến năm 1988, người ta mới phá hai ô cửa hai bên đi. Rồi năm 1995 xảy ra trận hoả hoạn khủng khiếp. Diện mạo của chợ ngày nay, với ba ô cửa từ năm 1920


https://static.panoramio.com/photos/original/37167722.jpg

Chitto
26-06-2010, 15:11
Chiến tranh Pháp - Thanh nổ ra đã làm một số thương nhân người Hoa sợ hãi, rời bỏ khu phố buôn bán. Các cánh cửa chặn hai đầu phố Hàng Ngang cũng bị dỡ bỏ. Tại khu phố cổ xuất hiện các thương nhân người Pháp và người Ấn, cạnh tranh với người Hoa và người Việt. Trong số những người Ấn, nhiều người theo Hồi giáo.

Thế là tại khu phố phía Tây, những người Hồi giáo đã bỏ tiền mua một khu đất trên phố Hàng Lược, và năm 1890 họ dựng lên một giáo đường Hồi giáo (Mosque). Cho đến nay, đây là giáo đường Hồi giáo duy nhất của Hà Nội, mang tên là Al-nour.

Theo đúng quy định của Hồi giáo, gian thờ phải quay về Thánh địa Mecca, do đó giáo đường này không thẳng với phố mà lệch đi một góc.

Giáo đường Al-nour hồi xưa, người Pháp đơn giản gọi là Pagode Indienne (chùa Ấn độ)


https://static.panoramio.com/photos/original/37186519.jpg

Và ngày nay


https://static.panoramio.com/photos/original/37186524.jpg

Chitto
26-06-2010, 16:50
Khoảng năm 1890, Pháp phá chùa Báo Ân, ngôi chùa lớn mới có 50 tuổi đời ở bên Hồ Gươm, để xây dựng Bưu điện và phủ Thống sứ.

Khoảng đất trống giữa toà Đốc lý và chùa Báo Ân cũ làm một vườn hoa đẹp, đầu tiên đặt tượng Nữ thần tự do vào đó, sau rồi lại đặt tượng Thống sứ Paul Bert thay vào, gọi là vườn hoa Paul Bert. (vườn hoa này đã từng có tên Chí Linh, Indra Gandi, và nay là Lý Thái Tổ). Chi tiết về hai cái tượng đài này sẽ viết sau cho khỏi loãng.

Kế bên vườn hoa, cho xây các toà nhà của Bưu điện. Khi hoàn thành, Bưu điện gồm có 4 toà nhà.

Ảnh: Tượng đài Paul Bert nhìn sang hai khối nhà của bưu điện.


https://static.panoramio.com/photos/original/37189123.jpg