PDA

View Full Version : Đạo Mẫu ở Việt Nam



ChauBe
27-01-2010, 15:06
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian của người Việt. Nó xuất phát từ quan niệm của người dân trồng lúa nước rằng: Có bốn miền vũ trụ: Trời, đất, núi , sông và xung quanh cuộc sống của con người. Bốn miền vũ trụ này có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến đời sống con người. Ở mỗi miền có một bà Mẹ ( Thánh Mẫu ) cai quản, chúng ta gọi các bà Mẹ đó là Mẫu, dưới các bà Mẹ này còn có các vị Thần linh khác như: Quan lớn, Chầu , Chúa, Ông Hoàng, Cậu Quận , 12 Cô , 12 Cậu, Quan ngũ hổ... các vị này cùng phù tá , trợ giúp việc cho Mẫu. Người Mẹ ở vùng trời gọi là Mẫu Thượng Thiên cai quản thiên phủ, Mẹ Ở vùng đất đai và sinh linh vạn vật là Mẫu Địa Tiên với hóa thân là Mẫu Liễu Hạnh được thờ ở Phủ Dầy - Nam Định cai quản Địa Phủ, Mẹ ở vùng rừng núi gọi là Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc Phủ, Mẹ ở vùng sông biển... được gọi là Mẫu Thoải Cung (Thủy Cung) cai quản Thủy Phủ. Do đó đạo Mẫu Việt Nam còn được gọi là đạo Tứ Phủ.Trong đạo Mẫu các nghi lễ cũng giống như các nghi lễ của các ngôi đình của mỗi làng quê Việt Nam. Nhưng có điểm khác là trong Đạo Mẫu VN có nghi thức hầu bóng. Đó là một hình thức diễn xướng tâm linh. Người hầu bóng là những Thanh Đồng, khi hầu họ phải hóa thân mình vào vai các vị thần thánh trong Tứ Phủ làm các động tác múa đao kiếm,múa mồi, múa hoa, chèo đò,... phù họa trong các động tác của Thanh Đồng là giọng hát của các Cung Văn (Bao gồm Đàn Nguyệt , Sáo , Đàn Tranh , Sênh , Phách) Nói tóm lại Đạo Mẫu VN là một tín ngưỡng văn hóa mang đậm tính văn hóa của ngừoi dân Việt Nam rất cần được tôn vinh và bảo tồn.

Các vị thần của đạo Mẫu
# Mẫu Đệ Nhất (Thiên Phủ). Danh hiệu: Mẫu thượng thiên .Thiên tiên thánh mẫu , Liễu Hạnh Quỳnh Hoa công chúa , tam thế sinh hóa , sắc phong Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương Mã Hoàng công chúa
# Mẫu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thượng Ngàn .Sơn Lâm Chúa Tiên , Quế Hoa công chúa ,Lê triều công thần , Diệu Tín Diệu Nghĩa thiền sư , sắc phong Lê Mại Đại Vương
# Mẫu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thoải cung .Thủy Cung công chúa .Bát Hải Động Đình Thần Nữ .Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ công chúa

Phụ Vương Đại Thánh (越國聖父)

* Bát Hải Long Vương (Thoải Phủ). Danh hiệu: Vua Cha

Trần Triều Hiển Thánh (陳朝顯聖)

* Đức Thánh Trần. Danh hiệu: Trần Hưng Đạo (- Tiết chế quốc công Hưng Đạo Đại vương)
* Đức Ông thánh cả - Con trai thứ nhất của Hưng Đạo Vương
* Đệ Tam Ông Cửa Suốt - Con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương ,danh hiệu :Đông Hải Đại Vương
* Đệ Nhất Vương Cô - Con gái thứ nhất của Hưng Đạo Vương, Quyên Thanh công chúa
* Đệ Nhị Vương Cô - Con gái thứ hai của Hưng Đạo Vương, Đại Hoàng công chúa
* Cô Bé Cửa Suốt -cháu gái của Hưng Đạo Vương
* Cậu Bé Cửa Đông- cháu trai của Hưng Đạo Vương

Tam vị Chúa Mường (山林嶽府占卜神婆)
là các vị Chúa Bà chuyên về đáp giải bói bốc. Nếu chỉ tính ba vị Chúa Bói thì gọi là "Tam Toà Chúa Bói."

* Chúa Đệ Nhất Tây Thiên(Thiên Phủ)&(Nhạc Phủ)
* Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ(Nhạc Phủ) : Chúa Bói
* Chúa Đệ Tam Lâm Thao (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ): Chúa chữa

Ngũ Vị Tôn Ông (五位神威尊官皇太子)
Trách nhiệm của ngũ vị này là giáng vào thanh đồng để bắt đầu "mở phủ" cho các giá đồng sau được theo vào người đồng.

Năm ông quan lớn là con Ngọc Hoàng Thượng đế,nhiều lần được giáng sinh hạ giới cứu giúp dân trong Ngũ vị Hoàng Tú văn "Năm Bính Dần mùng 10,tháng 8_Thái hậu Bà sinh được năm ông" Chầu văn lại rằng
"Nhất bào thai sinh được năm trai...Những ông diện mạo thánh tài thần thông... Ông Cả bẩm sinh tài thánh..Biến là nhường đức tính tinh anh... Ông Hai trí lực thần thông...Xách non đem lấp ngân sông Hoàng Hà... Ông Ba vạn phép muôn lin..Sông ngân cũng bước bể dày cũng qua... Tiệc bàn loan thỉnh Ông Đệ Tứ...Vốn con trời coi xứ Thiên Cung... Ông Năm đổ việc thượng thiên...Tướng uy nghi da ngà mắt phượng... Quỷ cùng tà xiêu bạt tán đi......."

* Quan Đệ Nhất Vương Quan quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.
* Quan Đệ Nhị Vương Quan(Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là 10 tháng 11 âm lịch

Năm Bính Dần mồng mười tháng một Thái hậu bà sinh giáng tôn quan tháng một ta chính là tháng 11 âm . Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để giám sát bản đền
"Quan về giám sát bản đền/Xem đồng hương khói đèn nhang thế nào"

* Quan Đệ Tam Vương Quan(Quan Tam Phủ) là con vua Thủy Quốc, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.
* Quan Đệ Tứ Vương Quan(Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.
* Quan Đệ Ngũ Vương Quan(Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm thanh long đao to trừ tà sát quỷ

Lục Phủ Tôn Quan (六府特臣尊官聖靈)

* Đệ Nhất Tôn Quan. Danh hiệu: Quan Điều Thất
* Đệ Nhị Tôn Quan. Danh hiệu: Quan Hoàng Triệu

Thập nhị vị chầu bà Chầu Bà (四府十二位英靈公主)

* Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
* Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Đông Cuông Công chúa

Dâng văn Tiên Chúa Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán giáng đàn chứng đây ...................................... Thượng Ngàn đệ nhị tối linh Ngôi Kiêu Công Chúa quyền hành núi non Anh Linh đã có tiếng đồn Sấm ran mặt bể mưa tuôn đầu nguồn Ngôi Kiêu công Chúa ý nói tiên chầu giá ngự ngôi cao quyền cai sơn lâm sơn trang coi chốn thượng ngàn chứ không phải " kiêu tức là cao"

* Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
* Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa

Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)

* Chầu Năm (Nhạc Phủ). Đền thờ ở suối Lân sông Hóa Lạng Sơn chầu vốn gốc người nùng khi giáng đồng thường mặc áo xanh nước biển ( màu xanh của dòng suối lân)
* Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa đền thờ ở Chín Tư Hòa Lạc Hữu Lũng Lạng Sơn. Chầu là người nùng nên hay được gọi là Mế Lục Cung Nương khi về đồng mế bà phán cả tiếng kinh lẫn tiếng nùng
* Chầu Bẩy (Nhạc Phủ).đền thờ ở Kim Giao Mỏ Bạch Thái Nguyên và Tân La ,Hưng Yên
* Chầu Tám Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn

Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.

* Chầu Chín(Thiên Phủ ).Danh hiệu : Cửu Tỉnh Công Chúa ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
* Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
o Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
o Chầu bé thoải

Chúa bà: Hầu sau hàng chầu,vì là chúa địa phương

* Chúa Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Hoà Bình
* Chúa Ngũ Phương là bà chúa địa phương đền thờ chúa ở Hải Phòng

;Chúa Bà Ngũ Hành (五行聖婆神女) *Đệ Nhất Chầu Bà Kim Tinh Thần Nữ *Đệ Nhị Chầu Bà Mộc Tinh Thần Nữ *Đệ Tam Chầu Bà Thuỷ Tinh Thần Nữ *Đệ Tứ Chầu Bà Hoả Phong Thần Nữ *Đệ Ngũ Chầu Bà Thổ Đức Thần Nữ

Thập Vị ông hoàng (十位八海龍兒皇子王爺)
Là 10 người con của vua cha Bát Hải Động Đình

trong THẬP VỊ HOÀNG TÚ VĂN :

"Vua Cha Bát Hải Động Đình/Sinh ông Hoàng Cả anh linh ra đầu/Thiên hạ đảo cầu ông ngự đền vương/Hoàng Đôi vua sinh ra sau/Hoàng Ba làm chúa Thuỷ Cung/Tiếng ông lừng lẫy bốn phương đùng đoàng/Hoàng Tư giữ việc đế vương/Hoàng Năm giữ số đền rồng vua cha/Quan Hoàng đệ Thất đào tiên/Nổi một trận gió đổ nhà,lốc cây/Hoàng Tám chính trực lòng ngay/Linh vua một đấu để rầy cứu dân/Hoàng Chín yểu điệu thanh tân/Vua sai ông trấn ở trong Đền Cờn/Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An/Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Giầy ...................................."

* Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận
* Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)

Có công đánh trân cùng ông Hoàng bảy_Trong văn ông bảy có câu rằng "Doanh trung thương có hai hoàng vào ra_Quan Hoàng Bảy Bảo Hà chính vi_Cùng tướng công Đệ Nhị Hoàng Hai_Can qua dâu bể biển đời....."

* Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
* Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
* Ông Hoàng Năm
* Ông Hoàng Sáu trấn ở Hải hà _Nam Ninh
* Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
* Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ).
* Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn
* Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ

Tứ phủ thánh Cô(四府山莊神領聖姑)

* Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
* Cô Đôi Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)
* Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông
* Cô Tư (Địa Phủ)
* Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)
* Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)
* Cô bảy Tân La(Nhạc Phủ)
* Cô Tám Đồi Chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
* Cô Chín Sòng Sơn(Thiên Phủ)
* Cô Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)
* Cô Bé thượng (Thiên Phủ,Nhạc Phủ) : "Cô Bé Đông Cuông (Nhạc Phủ)

Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ) Cô Bé Đen (Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc"

* Cô Bé Thoải (Thoải Phủ) : Cô Bé Tây Hồ (Thoải Phủ) "

*Cô Thác bờ (Thoải Phủ): Đền cô sau lưng đền thờ chúa Thác Bờ *Cô Đôi Cam Đường(Nhạc Phủ) quê cô ở Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai

Tứ phủ thánh cậu (十位超靈少聖舅)

* Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)
* Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
* Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
* Cậu Hoàng Bé (Địa Phủ)

Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)

* Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (東方甲乙木德青虎威靈)
* Nam Phương Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
* Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
* Tay Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
* Bắc Phương Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)

Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)

* Thanh Xà Đại Tướng Quân
* Bạch Xà Đại Tướng Quân

ChauBe
27-01-2010, 15:17
Lạng Giang là vùng đất có bề dày văn hoá của tỉnh Bắc Giang còn bảo lưu nhiều công trình kiến trúc tôn giáo có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá nghệ thuật, như chùa Đức La (Vĩnh Nghiêm tự) xây dựng vào thời Trần. Trong kho tàng di sản văn hoá dân gian của tỉnh, đền núi Cốc được ví như ''một bông hoa đẹp'' trong bức tranh văn hoá Việt Nam.

Ngôi đền này không chỉ là nơi nhân dân tìm đến sự cân bằng cho tâm hồn, để đến với Giác ngạn mà còn chứa đựng một kho tàng mỹ thuật dân gian thông qua nghệ thuật trang trí kiến trúc, tượng pháp, hoành phi, câu đối và nhất là hình thức hầu đồng rất đặc sắc, mang đậm phong cách riêng ở địa phương.

Đền Cốc còn có tên gọi là Vạn Linh từ. Xưa đền thuộc xã Vạn Linh, huyện Lạng Giang, phủ Lạng Thương, trấn Kinh Bắc, nay là xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Theo lời kể của vị Thủ đền: Từ Cốc có nghĩa là chim cốc (chim phượng hoàng), gắn liền với một truyền thuyết: Xưa có 100 con chim cốc bay đến dãy núi Nham Điền (núi Neo) để chọn kinh đô nhưng chỉ có 99 ngọn cho 99 con đậu, một con không có nơi dừng phải bay đến ngọn núi Cốc và chết ở đấy. Hiện nay, ngọn núi này có hình giống như chim phượng hoàng nên người dân địa phương gọi là núi Cốc.

Đền Cốc là nơi hội tụ của tri thức cộng đồng làng xã được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Khi khởi công xây dựng đền, người ta đã vận dụng thuyết phong thuỷ vào kiến trúc, vừa tôn thêm vẻ đẹp vừa tạo sự linh thiêng cho ngôi đền. Đó là, thế đất phải cao ráo, sạch sẽ, cây cối tốt tươi, chim muông tụ hội. Đền xây dựng trên thế đất dưới chân hình con mãng xà nhả ngọc, phía trước có núi Cốc án ngữ, bên tả là núi Quy (núi Trụ), bên hữu có núi Diễu, trước đền có hồ tụ phúc. Với sự lựa chọn như vậy, người ta tin rằng: khí thiêng của trời sẽ truyền sinh lực xuống đất, làm cho người an, vật thịnh, Phật đạo hanh thông. Đền quay mặt về hướng đông - nam mang ý nghĩa hướng của Bát Nhã, tạo trí tuệ viên thông. Nhờ có trí tuệ làm đầu mà con người ở cõi trần gian diệt trừ được vô minh, hướng tới tâm thiện mà lìa bỏ làm việc ác. Đồng thời, hướng nam là hướng đề cao thần linh (Thánh nhân ngồi quay mặt hướng nam để nghe lời tâu bày của chúng sinh).

Tiền thân của ngôi đền này là do cư dân thuyền chài dựng lên. Tên của làng Cốc xưa là làng Vạn Linh mà nay trong xã vẫn còn tên gọi xóm Thuyền, xóm Cầu. Theo địa hình, trước đây làng Vạn Linh cận kề sông Thương nên giặc phương Bắc đi theo đường sông Thương vào Bắc Giang, đường bộ từ Lạng Sơn xuống đánh chiếm vùng Kinh Bắc, tạo bàn đạp vào Hà Nội. Sự kiện này gắn liền với trận Tây Môn Sấm diễn ra ở ngoại vi thị xã Bắc Giang khiến người dân làng Vạn Linh phải vào núi Thông cư trú. Họ đến vùng đất mới sớm thích ứng với cuộc mưu sinh đánh bắt cá và thu lượm lúa mọc tự nhiên trên ao, đầm, sông, hồ cho nên lấy tên xã là Dĩnh Trì (Dĩnh Trì có nghĩa là lúa trời mọc nổi trên mặt nước ao, hồ). Đồng thời, họ xây dựng các công trình kiến trúc tôn giáo làm nơi sinh hoạt văn hoá của cộng đồng làng xã, như: đình Son (còn gọi là đình Sôn, đình Phúc Thọ), chùa Vạn Linh (cùng hệ phái sơn môn với chùa Vĩnh Nghiêm, Đống Nghiêm), đền Cốc thờ Sơn thần... Tiếc thay, các công trình kiến trúc trên đến nay không còn do bị giặc Pháp bắn phá và chính sách tiêu thổ kháng chiến của nhà nước ta.

Để tưởng nhớ ân thâm các vị thánh thần đã ban phúc lành cho muôn dân, năm 1960, gia đình cụ Nguyễn Văn ý thu lượm từ các công trình kiến trúc trên mang về dựng 3 gian nhà để thờ vọng 18 vị vua Hùng và 2 vị thành hoàng là Cao Minh Đại vương và Quý Minh Đại vương. Sau khi cụ ý qua đời, anh Nguyễn Văn Quý tiếp nhận để phụng sự Phật, Thánh. Năm 1989, đền được xây dựng lại, lấy tên là Vạn Linh từ và được trùng tu, tu sửa vào năm 2001 và cuối năm 2004.

Hiện nay, ngoài thờ các vị thánh nói trên, đền Cốc còn phối thờ Phật, đức thánh Trần, vua cha Bát Hải, các vị thánh hàng Tứ phủ, thờ thánh Mẫu của người Việt (mẫu Liễu Hạnh), người Chăm (Thiên Y A Na), người Hoa (Linh Sơn Thánh Mẫu), tạo nên một "bức tranh văn hoá" tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Với sự hội nhập văn hoá như vậy, đền Cốc không chỉ là nơi khách thập phương đến thắp hương khấn cầu các vị Phật, Thánh ban phúc lành cho muôn dân, mà còn là điểm tham quan, nghiên cứu hấp dẫn đối với công chúng thông qua các hạng mục công trình kiến trúc, trang trí kiến trúc, các hoạ tiết hoa văn trên đầu đao, lá mái, tượng pháp và đồ thờ của bản đền.

Mở đầu kiến trúc đền Cốc là Nghi môn, tượng trưng cho thiên, địa, nhân nhất thể, theo ý tưởng: trời, đất và con người hoà đồng làm một. Từ đó, do nhân duyên nhân khởi mà sinh ra đại từ tâm, người an, vật thịnh, mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi. Nghi môn được làm theo kiểu "chồng diêm 8 mái", tầng dưới là cửa ra vào, tầng trên trang trí các đầu đao lá mái, các con vật tứ linh (long, ly, quy, phụng) và cỏ cây hoa lá. Vào lúc sáng sớm và mộ chiều, nhà đền thỉnh chuông, âm thanh vang vọng, đánh dấu khoảnh khắc ngày và đêm, gọi hồn bơ vơ về trú ngụ cửa đền, dẫn dắt chúng sinh hướng về đất Phật, đất Mẹ. Các đầu đao trên Nghi môn quay về 4 hướng, vận hành theo thuyết Kinh Dịch, uốn lượn tạo thành những đường guột, gây cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát. Cửa đền rộng mở, đón nhận thiện tâm đi trên đường Thần đạo để qua sân đền rồi vào nhà Tiền đường lễ Phật, lễ Thánh, vào nhà Công đồng lễ Cha - Mẹ của hàng Tứ phủ, lên nhà sàn lễ mẫu Liễu Hạnh và các vị thánh liên quan đến nghề xem bói. Du khách vào tới cửa đền, những bon chen đời thường bỗng tan biến, chỉ còn lại tâm không hoà vào không gian tĩnh lặng dưới làn khói hương với tấm lòng thành kính.

Qua Nhà tiền đường (nơi thờ Phật) tới nhà Công đồng thánh Mẫu đánh dấu ngăn cách 3 bậc thềm lên xuống. Mỗi bậc thềm mang một triết lý dân gian về trải nghiệm hành trình của con người: sinh, bệnh, lão. Nhà Công đồng rộng 5 gian với 2 đầu hồi bít đốc được xây liền với 2 trụ hoa biểu. Trên nóc trụ, đắp nổi hình 4 con chim phượng, đuôi hướng lên trời, đầu choải xuống đất và toả ra 4 hướng tạo thành bông hoa sen cách điệu. Mô típ này mang ý nghĩa âm dương đối đãi giao hoà giữa trời và đất. Phần ô lồng đèn đắp nổi hình cỏ cây hoa lá (tùng, cúc, trúc, mai) và trên đầu của 2 đầu hồi nhà đắp nổi 2 con lân để canh đền và soi sét tâm tính khách hành hương.

Trong quần thể kiến trúc của đền Cốc, hầu hết các hàng cột cái, cột quân liên kết với nhau qua các bộ vì kèo theo kiểu "giá chiêng", tạo không gian cao, thoáng, lấy ánh sáng trời chiếu vào mỗi khi mở cửa. Trong số hạng mục kiến trúc trên thì nhà Công đồng được coi là trung tâm điểm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng dân gian của Tam phủ - Tứ phủ. Du khách bước chân vào nhà Công đồng đều cảm nhận được sự thâm nghiêm của chốn linh thiêng thờ Phật, Thánh thông qua hệ thống an vị tượng pháp cùng với màu sắc của hoành phi câu đối, khám thờ, ánh sáng của đèn nến... Dưới bàn tay tài hoa, người Thủ đền đã biết phối hợp giữa không gian thờ tự và ánh sáng tự nhiên từ bên ngoài hắt vào dựa trên thuyết phong thuỷ để làm tăng thêm tuổi thọ cho công trình kiến trúc đền Cốc.

Ngoài giá trị văn hoá kể trên, còn phải kể đến hệ thống tượng thờ của các vị thánh hàng Tứ phủ ở nhà Công đồng. Với hơn 50 pho tượng làm bằng gỗ mít, sơn son, thiếp vàng, bạc (lớn nhỏ khác nhau) đại diện cho các vị thánh hàng Tứ phủ (Thiên phủ, Địa phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ) là tượng hàng quan, chúa, chầu, cô, cậu; tất cả được hội tụ thờ tự ở đây. Bởi vậy, đền Cốc không chỉ có giá trị về kiến trúc, tượng pháp, đồ thờ, thuyết phong thuỷ, nghi thức hành lễ của cha ông xưa truyền lại cho đến nay mà còn có giá trị nghiên cứu khoa học, tìm hiểu về sự hội nhập văn hoá, về tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam nói chung và ở Bắc Giang nói riêng. Với giá trị to lớn như vậy, đền núi Cốc thực sự là "Một bảo tàng sống" về tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam và đây cũng là 1 trong 3 ngôi đền tư gia xây dựng, quản lý lớn nhất ở miền Bắc Việt Nam.

Nói đến đền, phủ, điện là nói đến nghi lễ hầu đồng (hay còn gọi là nghi lễ múa thiêng, trình diễn dân gian). Lễ hầu đồng ở đền núi Cốc diễn ra quanh năm và nhộn nhịp nhất là vào 3 tháng mùa xuân và tháng 8, 9, 10 âm lịch. Ngoài nét chung của văn hoá lên đồng do các thanh đồng của đạo Tam phủ - Tứ phủ tiến hành nghi lễ giao tiếp với thần linh, còn có nét riêng do tính đặc thù văn hoá địa phương và bản mệnh của người đồng thầy giữ đền đã tạo nên một nét đặc sắc riêng của các giá hầu đồng liên quan đến 3 toà chúa bói, lễ Khai toà chúa bói cho các thanh đồng có căn lộc xem bói. Các giá hầu này đã tái hiện lại cuộc "hành trình" của 3 vị chúa bói là: Tây Thiên Công chúa, Nguyệt Hồ Công chúa, Chúa ót Lâm Thao và 7 toà chúa chữa bệnh được vị Tổ sư nghề bói là Quỷ Cốc Tiên sinh dạy nghề.

Ngoài ra, đền núi Cốc còn lưu trữ nhiều pho tượng được đúc bằng đồng đỏ, như: các pho tượng thánh ở cung vua cha Bát Hải, tượng mẫu Liễu Hạnh, mế Đặng Thị Tươi, cậu bé Tà Là Pụt Bay ở trên ban thờ nhà sàn và các bức hoành phi, câu đối, đại tự làm bằng gỗ mít, được viết bằng chữ Hán, ca ngợi cảnh đẹp, lịch sử đạo Mẫu và sự hưng vượng của đạo Pháp. Đặc biệt, ở đền còn bảo lưu kỹ thuật sơn son thiếp vàng theo kiểu truyền thống trên các pho tượng Quỷ Cốc Tiên sinh, tượng bà chúa Sơn Trang và khám thờ ban Sơn Trang..., không chỉ có tác dụng chống sự hại của mối, mọt, khí hậu mà còn tạo thêm nét mỹ thuật và sự linh thiêng vi diệu cho đồ thờ của bản đền.

ChauBe
27-01-2010, 15:21
Chúa Lâm Thao là con gái vua Hùng thứ 17, tên hiệu là Nguyệt Cư công chúa. Chúa là một người con gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành và tấm lòng yêu nước thương dân bao la trời bể. Ngay từ khi còn nhỏ, chúa đã từng dạo khắp muôn nơi, xem xét tình hình dân chúng. Đến tuổi thành niên, lúc đó trong triều có vị quan võ cận thần đứng trong hàng tứ trụ tên là Lí Văn Lang được vua cha cho sánh duyên cùng công chúa. Chúa cùng phò mã sống bên nhau rất hạnh phúc nhưng buồn thay cưới nhau đã lâu mà hai người chưa hạ sinh quý tử. Rất lấy làm khổ tâm và buồn bã, vào một hôm, chúa cùng phò mã vào tâu chuyện với đức vua. Đức vua cũng không biết làm sao đành khuyên 2 con về lập đàn tràng giữa trung thiên mà cầu đảo. Hai con vâng lời về lập đàn giữa trời y theo lời cha dặn. Đêm đó, chúa nằm thấp thỏm hi vọng trời đất thấu tình mà ban cho một đứa con. Gần đến sáng, chúa mới thiếp đi được một lúc và ngài nằm chiêm bao, ngài thấy từ trên trời cao có 12 con rồng bay xà xuống và bay hết vào miệng chúa. Chúa bừng tỉnh giấc và lạ thay, trên bụng người đâu ra có một cái bọc rất lớn. Chúa vội vàng mở ra và thấy trong bọc là 12 quả trứng rất to. Lòng chúa nao nao không biết nên mừng hay nên lo và kể lại giấc mơ lạ lùng cho phò mã. Phò mã nghe xong liền nở nụ cười mãn nguyện:" Vậy là trời đất đã thấu lòng của vợ chồng ta rồi, đây chắc chắn là 12 hoàng tử"( tay chỉ vào bọc trứng). Chúa nóng ruột vội vã chạy đến cung vua. Phò mã cũng chạy đuổi theo chúa. Trên đường 12 quả trứng đã dàn dần nở. Đầu tiên là 1 quả, rồi 3 quả,rồi 2 quả, xong lại 3 quả, 2 quả và khi đến chân núi Nghĩa Lĩnh (núi đền Hùng bây giờ) thì quả cuối cùng nở ra. 12 bé trai khôi ngô tuấn tú chào đời. Công chúa cùng phò mã mừng vui khôn xiết. Vua Hùng cũng rất đỗi mừng rỡ khi nghe chúa thuật lại chuyện giấc mơ và sự ra đời của 12 hoàng tử. Vua Hùng liền sai quân lập đàn để bái tạ trời đất. Lúc đó sấm sét nổi lên vang trời và lúc đó là lúc chúa được trời đất ban cho lộc bói và cả lộc chữa bệnh. 12 người con chúa lớn nhanh như thổi. Lúc này là lúc Thục Phán (sau là An Dương Vương) nhòm ngó cướp nước ta(sử sách ghi lại là cuối đời vua Hùng thứ 18 đã nhường ngôi cho Thục Phán nhưng thực chất từ thời này, Thục Phán đã có mưu mô cướp ngôi),vua Hùng rất lo lắng. Một hôm, phò mã cùng người con cả ra sông đánh cá, cả ngày mà hai cha con chỉ đánh được duy nhất một con cá chép rất to. Về nhà, chúa làm thịt cá,khi mổ bụng ra thì lạ thay, trong bụng cá có một thanh gươm. Chúa hốt hoảng gọi cả nhà vào xem sự lạ. Khi đó, người con cả rút gươm trong bụng cá ra vung lên, một luồng hào quang sáng chói toả ra. Chúa ngồi tĩnh tâm xem kĩ và nói rằng :"đây là thanh gươm thần mà trời ban cho ta để giết giặc". Ngay hôm sau, phò mã cùng con trai cả vào xin đức vua cho đi đánh đuổi giặc, vua đồng ý. Hai cha con ra chiến trường,cứ mỗi lần vung gươm lên là một luồng hào quang loé ra tiêu diệt quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Chúa ngồi nhà cũng đã bói trước được rằng 2 cha con sẽ thắng lớn. Quả đúng như vậy, hai cha con trở về với tin vui thắng lớn, từ đó dân chúng sống an lạc. Chúa thường xem bói cho muôn dân biết trước tai ương mà tránh, ai có bệnh âm chúa bảo cách cúng lễ cho khỏi, ai bệnh trần chúa bốc thuốc cho được bình an. Muôn dân ngàn lần biết ơn chúa. Khi mãn chân tu tròn quả kiếp, chúa cùng gia đình lần lượt qua đời. Nhân dân ghi nhớ công ơn nên lập đền mở đình thờ tôn nghiêm dốc lòng phụng sự.


Đền thờ Chúa Đệ Tam Lâm Thao ở cách mặt đường thị trấn Cao Mại huyện Lâm Thao 30m (đi qua cầu Trung Hà 8km). Ngôi đền không được to lắm nhưng giữ nguyên được nét cổ kính đơn sơ. Đền có ba gian. Gian ngoài cùng có ba ban thờ: ban giữa là Công Đồng (trên cùng là tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, dưới là trượng Vua Cha Ngọc Hoàng cùng 2 bên quan Nam Tào Bắc Đẩu, dưới nữa là 3 pho Tam Toà Quốc Mẫu nguy nga, dưới là 3 pho tượng nhỏ hơn là Tam Toà Chúa Bói, tiếp theo là Ngũ Vị Tôn Ông, và dưới cùng là Ông Bảy, Ông Mười), ban bên trái thờ nhà Trần gồm tượng Đức Ông và 2 vương cô, bên phải là ban Chúa Sơn Trang và Chúa Thác Bờ. Gian thứ 2 là ban thờ vọng vào cung cấm Chúa. Và cuối cùng là cung Cấm. Cung cấm thờ theo lối lầu son gác tía. Chúa ngồi trong cung ngang hàng cùng phò mã trên lầu, phía dưới là 1 tượng Chúa to hơn tượng chính do con nhang ở Hà Nội cung tiến về bản đền. Hai bên lầu là 2 chiếc cầu thang bắc lên trên lầu chúa. Cung cấm của Chúa là cung vàng lầu ngọc đẹp long lanh.Chúa hoá tại chính cung này nhằm ngày 12/12. Ngoài sân rộng là ban thờ Mẫu Cửu và dưới là Cô Bé Lâm Thao. Hội của bản đền là từ ngày mồng 3 đến mồng 6 tháng giêng. Mồng ba thì làm lễ mộc dục, mồng 4 rước Chúa cùng phò mã đi quanh thị trấn và sang đền thờ người con trai cả. Khi rước thì kiệu phò mã rước ra trước và đứng lại ở mặt đường, kiệu chúa rước ra sau nhưng khi ra đường thì kiệu chúa lại đi trước.Đến mồng sáu lại rước Chúa cùng phò mã về bản đền.Ngày 10/3 giỗ Tổ Hùng Vương thì rước Chúa sang đền Hùng Đền hiện còn 26 sắc phong và được hiệp hội câu lạc bộ UNESCO VN bảo trợ cụm di tích 13 đình đền thờ gia đình công chúa Nguyệt Cư.



Ở thị trấn Cao Mại còn một nơi thờ Chúa Lâm Thao nữa, gọi là đền Hải Phòng vì do con nhang ở Hải Phòng về đền chính của chúa rước chân nhang về lập điện thờ. Người dân địa phương gọi là điện cô Thắng(thủ nhang điện tên là Thắng). Điện thờ có phần khang trang hơn đền chính nhưng không thể nào có cái vẻ đẹp mộc mạc cổ kính như đền được. Ngõ rẽ vào điện cách đền khoảng 100m, đi vào ngõ 100m thì rẽ trái vào xóm khoảng 50m. Xong ta đi bộ vào bên phải 30 sẽ có 1 chiếc cổng điện màu vàng. Điện có 3 nhà gồm5 cung thờ.Nhà thứ nhất Cung ngoài thờ Công Đồng gồm hệ thống tượng( từ trên xuống dưới) Tam Tòa Quốc Mẫu, Tượng cổ Chúa Lâm Thao của bản điện, Ngũ Vị Tôn Ông, 3 Ông Hoàng. Phía trong là cung cấm thờ Tam Vị Chúa Mường, bên phải là ban thờ Cô Chín, bên trái là ban thờ Cô Bé. Nhà thứ hai là Cung to,nguy nga thờ Chúa Lâm Thao,bên phải là ban thờ Chầu Lục, bên trái là ban thờ Chầu Đệ Nhị. Nhà thứ ba gồm 2 cung, cung bên phải thờ Sơn Trang và cung bên trái thờ Nhà Trần. Ngoài sân thờ Mẫu Cửu và ban dưới thờ sơn thần. Cạnh ban Mẫu Cửu là lầu Cô Bé Lâm Thao. Hiện nay điện đang xây dựng 1 nhà nữa nhưng không rõ để làm gì. Điện có chỗ ăn chỗ ở cho khách đường xa và các đoàn về xin cung tỏa bóng.
-km4OzrzZok&feature=related

ChauBe
27-01-2010, 15:27
1.Thỉnh Tam Tòa Quốc Mẫu

2.Nhà Trần

*Đức Ông Trần Triều hiển thánh Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương

*Tứ vị Vương Tử

-Hưng Vũ Vương

-Hưng Hiến Vương

-Hưng Nhượng Vương

-Hưng Trí Vương

*Nhị vị Vương Cô

-Quyên Thanh Công Chúa

-Đại Hoàng Công Chúa

*Vương Tể Phạm Ngũ Lão

*Đức Ông Tả Hữu

-Ông Yết Kiêu

-Ông Dã Tượng

*Cô Bé Cửa Suốt

*Cậu Bé Cửa Đông

3. Hội đồng Chúa

*Tam Vị Chúa Mường(Tam Tòa Chúa Bói)

-Chúa Tây Thiên Đệ Nhất

-Chúa Nguyệt Hồ Đệ Nhị

-Chúa Lâm Thao Đệ Tam

*Chúa Thác Bờ

*Chúa Long Giao

*Chúa Cà Fê

*Chúa Năm Phương

*Chúa Mọi

4. Ngũ Vị Tôn Ông

-Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên

-Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát

-Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

-Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai

-Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

*Quan Điều Thất

*Quan Triệu Tường

5. Thập Nhị Chầu bà

-Chầu Đệ Nhất

-Chầu Đệ Nhị

-Chầu Đệ Tam

-Chầu Đệ Tứ

-Chầu Năm Suối Lân

-Chầu Lục Cung Nương

-Chầu Bảy Kim Giao

-Chầu Bát Nàn Tiên La

-Chầu Cửu Tỉnh Sòng Sơn

-Chầu Mười Đồng Mỏ

-Chầu Bé Bắc Lệ

6. Tứ Phủ Ông Hoàng

-Ông Hoàng Cả Quận Vân

-Ông Hoàng Đôi Người Mán

-Ông Hoàng Bơ Thoải Cung

-Ông Hoàng Tư

-Ông Hoàng Năm

-Ông Hoàng Lục Thanh Hà

-Ông Hoàng Bảy Bảo Hà

-Ông Hoàng Bát Quốc (Quan Bắc Quốc)

-Ông Hoàng Chín Cờn Môn

-Ông Hoàng Mười Nghệ An

7. Tứ Phủ Tiên Cô

-Cô Cả Thượng Thiên

-Cô Đôi Thượng Ngàn

-Cô Bơ Bông

-Cô Bơ Tây Hồ

-Cô Tư Ỷ La

-Cô Năm Suối Lân

-Cô Sáu Lục Cung

-Cô Bảy Kim Giao

-Cô Tám Đồi Chè

-Cô Chín Thượng Ngàn

-Cô Chín Giếng (Cô Chín Sòng)

-Cô Mười Mỏ Ba

-Cô Bé Đông Cuông

-Cô Bé Tân An

-Cô Bé Núi Dùm

-Cô Bé Minh Lương

-Cô Bé Mỏ Than

-Cô Bé Suối Ngang

-Cô Bé Thác Bờ

-Cô Bé Bản Đền

.............

-Cô Đôi Cam Đường

8.Tứ Phủ Thánh Cậu

-Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy

-Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn

-Cậu Hoàng Đôi

-Cậu Hoàng Bơ

-Cậu Hoàng Tư

-Cậu Hoàng Năm

-Cậu Hoàng Bé Đồi Ngang

-Cậu Bén Bản Đền

9. Quan Hạ Ban

-Hoàng Hổ Thần Tướng

-Thanh Hổ Thần Tướng

-Xích Hổ thần Tướng

-Bạch Hổ Thần Tướng

-Hắc Hổ Thần Tướng

-Thanh Xà Đại Tướng

-Bạch Xà Đại Tướng

ChauBe
27-01-2010, 15:29
-Tháng Giêng
+Thượng Nguyên
+Ngày 9: Tiệc Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
+Ngày 21: Tiệc Tứ Vị Vua Bà Cờn Môn Linh Từ

-Tháng hai
+Ngày Mão đầu: (Ngày 3) Tiệc Đức Quốc Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông Linh Từ
+Ngày 12: Tiệc Mẫu Tuyên Tam Cờ, Núi Dùm, Ỷ La ,Cảnh Xanh Linh Từ
+Ngày 14: Tiệc đản nhật sinh thần Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
+Ngày 15: Tiệc Chúa Bói Đệ Nhị Nguyệt Hồ Nguyệt Hồ Linh Từ
+Ngày 21: Tiệc Đức Quốc Mẫu Sòng Sơn Linh Từ

-Tháng ba
+Ngày 3: Tiệc Đức Quốc Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên Phủ Giầy Vân Cát
+Ngày 7: Tiệc Cậu Bé Đồi Ngang
+Ngày 14: Tiệc Chầu Đệ Tứ Khâm Sai quyền cai tứ phủ Duyên Trường Linh Từ
+Ngày 17: Tiệc Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân Tiên La Linh Từ

-Tháng tư
+Nhập Hạ
+Ngày 1 : Tiệc Chúa Bà Thác Bờ
+Ngày 18: Tiệc Chầu Bà Đệ Tam Thoải Phủ
+Ngày 24: Tiệc Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai

-Tháng năm
+Ngày 5 : Tiệc Đệ Nhị Vương Cô Đôi Trần Triều Đại Hoàng Công Chúa
+Ngày 10: Tiệc Chầu Lục Cung Nương Lục Cung Linh Từ
+Ngày 25: Tiệc Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh Ninh Giang,Kì Cùng Linh Từ

-Tháng sáu
+Ngày 12: Tiệc Đức Quốc Mẫu Thủy Phủ Hàn Sơn Linh Từ,
Tiệc Cô Bơ Ba Bông Linh Từ
+Ngày 16: Tiệc Chúa Bà Ngũ Phương Bản Cảnh Cấm Giang Linh Từ
+Ngày 24: Tiệc Quan Lớn Đệ Tam Lảnh Giang,Xích Đằng Linh Từ

-Tháng bảy
+Tán Hạ
+Ngày 12: Tiệc Mẫu Tuyên
+Ngày 13: Tiệc Quan Lớn Triệu Tường
+Ngày 17: Tiệc Ông Hoàng Bảy Bảo Hà Linh Từ

-Tháng tám
+Ngày 20: Tiệc Đức Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
+Ngày 22: Tiệc Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thái Ninh Phủ Đồng Bằng Linh Từ

-Tháng chín
+Ngày 2: Tiệc Cô Bé Suối Ngang
+Ngày 9: Tiệc Đức Quốc Mẫu Cửu Trùng
+Ngày 19: Tiệc Cô Chín Giếng Sòng Sơn Linh Từ
+Ngày 20: Tiệc Công Đồng Bắc Lệ- Chầu Bé Bắc Lệ

-Tháng mười
+Ngày 10: Tiệc Ông Hoàng Mười Nghệ An Khu Độc,Mỏ Hạc Linh Từ

-Tháng mười một
+Ngày 2: Tiệc Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát Đồi Ngang

-Tháng 12:
+Tất Niên
+Ngày 10: Tiệc Đức An phụ An Sinh Vương Huý Trần Quốc Liễu
+Ngày 12: Tiệc Đệ Tam Chúa Bói Lâm Thao Nguyệt Cư Công Chúa Lâm Thao Linh Từ

ChauBe
29-01-2010, 16:31
Chầu Bé vốn gốc người Nùng, dưới thời Lê Thái Tổ, chầu giáng sinh xuống miền Bắc Lệ, Lạng Sơn. Chầu cũng là vị có công giúp dân, giúp nước. Có tài liệu cho rằng Chầu Bé tuy là một vị chầu bà người Nùng trên Lạng Sơn, nhưng chầu lại chính là do Mẫu Thượng Ngàn hóa thân, giúp vua Lê Thái Tổ trong cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, và sau này được vua phong là Lê Mại Đại Vương. Vậy nên đôi khi Chầu Bé cũng được đồng nhất với Bà Chúa Sơn Trang. Chầu dạo chơi khắp chốn thắng cảnh hữu tình, dạy dân chúng trồng trọt chăn nuôi, lên rừng làm ruộng bậc thang, xuống sông suối đánh bắt cá tôm. Tương truyền, Chầu Bé có phép thần thông do Đức Thái Tổ ban quyền có thể lay núi chuyển ngàn, đôi lúc rong chơi chầu lấy tàu lá giả làm hàng bán để trêu đùa người trần gian. Tuy đành hanh sắc sảo nhưng chầu cũng hết sức nhân hậu, có việc dữ lành chầu đều mách bảo cho người trần.

Chầu Bé cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục, là một trong ba vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn hay về ngự đồng nhất. Tuy thứ bậc chầu gần như là cuối cùng trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà nhưng không một ai hầu mà chầu không ngự đồng. Chầu ngự về đồng thường hay mặc áo đen (hoặc xanh chàm, còn trước đây chầu chỉ mặc quầy và áo ngắn đến hông), chân đi xà cạp, trên vai đeo gùi hoa, chầu về đồng thường khai quang rồi múa mồi. Đôi khi Chầu Bé có thể giống như Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục: chầu về chứng tòa Sơn Trang trong đàn mở phủ, sang khăn cho tân đồng hoặc chứng mâm giầu trình.

Đền thờ chính của Chầu Bé là ngôi đền nhỏ bên cạnh đền Bắc Lệ ở xã Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn với ngày tiệc chầu thì có nơi nói là 12/9 âm lịch, có nơi nói là 19/9 âm lịch. Ngoài Chầu Bé Bắc Lệ ra thì ở một số bản đền có các Chầu Bé cũng trên Thượng Ngàn, là Chầu Bé coi giữ ở đền đó và chỉ khi về chính đền, các vị đó mới ngự. Đó là:

a.Chầu Bé Đông Cuông (Đền Đông Cuông, Yên Bái)
b. Chầu Bé Đồng Đăng( Đền Đồng Đăng, Lạng Sơn)
c. Chầu Bé Tam Cờ (ở Đền Tam Cờ, Tuyên Quang)
d. Chầu Bé Đền Ghềnh (ở Đền Ghềnh, Hà Nội)

Nhưng thông thường, người ta chỉ hay hầu về Chầu Bé Bắc Lệ (cũng bởi vì có khi người ta coi các vị Chầu Bé kia cũng chỉ là Chầu Bé Bắc Lệ, giáng hiện ở khắp nơi, được phụng thờ ở đền đó làm Chầu Bé bản đền nên mang các tên gọi khác nhau). Khi chầu ngự, văn thường hát rằng:
“Ai lên tới Lạng Sơn châu thổ
Hỏi thăm đền Chầu Bé nơi nào
Hỏi thăm Bắc Lệ mà vào
Đền thờ Chầu Bé thấp cao mấy tầng”
Hay khi nói về những cuộc dạo chơi nơi non bồng nước nhược, nơi cảnh trí hữu tình của chầu:

“Thường dạo cảnh Bảo Hà Thác Cái
Đền Đông Cuông đức đại tối linh
Tuyên Quang cảnh trí hữu tình
Núi Giùm Mẫu ngự thác ghềnh nguy nga
Vào rừng cấm một tòa bích động
Đền Ỷ La lồng lộng ngôi cao
Cây Xanh chầu mắc võng đào
Mỏ Than chầu ngự thấp cao mấy tầng
Cảnh núi rừng đèo heo hút gió
Thú lâm sơn hoa cỏ tốt tươi
Minh Lương suối lượn quanh đồi
Chầu thường dạo cảnh khắp nơi hữu tình
Lai Châu, Suối Rút, Hòa Bình
Đỉnh non Bắc Kạn một mình cheo leo
Hài xanh đủng đỉnh lưng đèo
Trên dòng sông Vị mái chèo đua bơi
Khi về xứ Lạng rong chơi
Nức danh Chầu Bé nơi nơi phụng thờ
Đền Ghềnh cảnh đẹp nên thơ
Chầu lên Hương Tích hái mơ đem về”


Hay khi nói về sự tích và vẻ đẹp của Chầu Bé, văn cũng hát rằng:

“Chầu Bé vốn người Nùng chính gốc
Quả áo lam, khăn lục vấn đầu
Đai xanh kiềng bạc túi chầu
Một bên dao quắm che tàu lá gai
Chân hài xảo đầu cài trâm nhím
Vòng kim cương tam khí lồng tay
Hây hây mặt nước vơi đầy
Như bông hoa nở giữa ngày đầu xuân
Tuổi Chầu Bé đương tuần trăng độ
Trên Sơn Lâm Thái Tổ ban quyền
Phép tiên lay núi chuyển ngàn
Bẻ ba tàu cọ làm hàng bán chơi”

Văn Chầu Bé Bắc Lệ
Núi xếp núi mấy tầng cao thấp
Cây xen cây tràn ngập màu lam
( Ngôi Đền thờ chầu bé trên ngàn )x2
Có con suối nhỏ vắt ngang sườn đồi

Đàn cá lội đua bơi rẽ sóng
Nước lung linh in bóng trăng thu
( ngàn thông vang cất tiếng hát ru )x2
Hoa thơm trái ngọt bốn mùa ngát hương

Chầu bé Thượng vốn Nùng chính gốc
Áo tứ thân khăn thắm đội đầu
( Đai xanh kiềng bạc túi trầu )x2
Tay cầm dao quắm , vác bầu nước khe

Dận hải sảo , đầu cài trâm trí
Vòng kim cương tam khới lồng tay
( Hây hây mặt nước vơi đầy )x2
Chầu bé xinh đẹp như hoa nở trước ngày đầu xuân

Tuổi Chầu bé đương tuần trăng độ
Phép sơn trang đức tổ ban quyền
Có Phép tiên biến lá làm thuyền
Bẻ ba tàu cọ giả hàng bán chơi .


Bạn Thổ Mán nơi nơi tìm đến
Vượt cửa ngàn cung tiến quả hoa
Tử Long Bảo Lạc Tam Cờ
Sông Thao sông Cả sông Bờ sông Dâu

Khắp đâu đâu nức danh Chầu Bé
Tự cổ triều quốc sử còn ghi
Danh thơm Nam Bắc trung Kỳ
Giúp dân hộ quốc độ trì bốn phương

Sắc phong tặng đại vương trường trị
Trên Bắc Lệ ngàn tú khí danh lam
Chim kêu vượn hót trên ngàn
Tả thời bạch hổ hữu thời thanh long

Dòng bích lãng nước trong leo lẻo
Dải sông Tô uốn éo xinh ghê
Thông reo trúc mọc tứ bề
Đền thờ cao ngất trông về Bắc Ninh
Vẻ tinh tú bên ghềnh vị thuỷ
Chầu giáng đền trấn trị yêu ma
Chầu về trắc giáng điện tòa
Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường

Hầu giá Chầu Bé Bắc Lệ tại bản đền Cô Chín Suối Rồng, Đồ Sơn, Hải Phòng:
http://blog.com.vn/Video/Chau-Be_152471.html

ChauBe
29-01-2010, 16:36
Đền Tranh hay đền Quan lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn (thị xã Ninh Giang hiện nay). Đây là một ngôi đền lớn thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngưỡng dân gian, hằng năm có hai mùa lễ hội lớn vào tháng 2 và tháng 5.

Khoảng năm 1960, đền Tranh bị giải hạ để lấy đất xây dựng công trình khác. Đồ tế tự được chuyển về một ngôi miếu nhỏ ở phía nam thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, cách di trích cũ khoảng 300m về phía bắc. Năm 1995, đền được phép khôi phục. Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng ngót một tỷ đồng do nhân dân công đức. Đền Tranh xưa lập ban thờ như thế nào nay chưa có cứ liệu nghiên cứu. Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh. Nghiên cứu thấu triệt từng nhân vật được thờ ở đây là điều không đơn giản.

Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10-20 / 2, trọng hội vào 14 - ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26 / 5, trọng hội vào 25 - ngày hoá của Đức thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn. Chúng ta biết rằng, một ngôi đền mới được khôi phục và chưa được xếp hạng mà đã có ngót một tỉ đồng công đức là vấn đề không bình thường. Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà , sôi nổi.
5TenHWNyUA4
VplsaoBKFQM&feature=channel
n905b1DF5fA&feature=channel

Văn Quan Lớn Đệ Ngũ



Ra oai lẫm liệt tung hoành

Trừ tà sát quỉ Quan tuần chanh toàn tài

Cảnh thiên Thai quan tuần ngự giá

Các bộ Tiên nàng náo nức vào dâng hoa

Ninh Giang chính quán quê nhà

Dấu thiêng ghi để ngã ba sông Kì Cùng

Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy

Quan lớn tuần đã dậy thần cơ

Muôn dân đâu đáy phụng thờ

Lạng Sơn lại nổi ngôi đền thờ Quan Lớn Tuần Chanh

Cảnh Thanh nhiều nơi lịch sự

Vốn đặt bầy tự cổ truyền lai

Có phen xuất nhập trang đài

Đào lan quế huệ tiệc bầy xướng ca

Trên bát ngát long chầu hổ phục

Dưới tam đầu cửu vĩ chầu lên

Lâu đờn điệu múa đôi bên

Quan Tuần trắc giáng ngự trên sập công đồng

----------------------------------------------

Ngâm Thơ

Sông Chanh ơi sông Chanh ơi hỡi sông Chanh

Trăng nước còn in trận tung hoành

Lẫm liệt tung hoành oai tráng sĩ

Ngàn năm ghi để dấu anh linh

Hỡi ai qua bến sông Chanh

Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời

Cho dù nước chảy hoa trôi

Bến sông Chanh còn đó công Quan lớn Tuần Ngài còn vang

Loa đồng hỏi nước sông Chanh

Thanh long đao giết giặc tung hoành là ai

Sông Chanh lên tiếng trả lời

Thanh long đao giết giặc chính người Quan Lớn Tuần lập chiến công

---------------------------------------------

Hát Phú Nói

Quyết mở đường cho dân an quôc thái

Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn

Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu

Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh

Tuổi niên thiếu Quan Lớn tuần kiêu đao trên yên ngựa

Sống vì đời thác chợ cho muôn dân

Bao phen lẫm liệt tung hoành

Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu

Gương anh dũng sáng ngời muôn thủa

Chí hào hùng rạng rỡ bốn phương

Vinh quang thay con Lạc cháu Rồng

Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao

Công hộ quốc quan Lớn Tuần Vua phong thượng đẳng

Tước long hầu truy tặng đại vương

Biển vàng chúc thánh thọ vô cương

Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai

Sắc ban phong kim chi tam giới

Hay tróc tà sát quỉ trừ tinh

Quan lớn Tuần vạn pháp anh linh

Quyền ngài cai quản tướng âm binh nhà trời

Ngự đồng ai ngự quyền bóng quí

Nương oai trời thuỵ khí đoan trang

Quan lớn Tuần hiển thánh không ai đang

Ra tay tế độ người trần gian được nhờ

Oai quan gia thông mây thét gió

Hay có tà ngoài dục tà da

Mặc dầu ai vận hạn vẫn chưa qua

Kêu Quan Đệ Ngũ bệnh đà hết tan ngay

ChauBe
29-01-2010, 16:46
Hầu Giá Tam Tòa Thánh Mẫu
geAoBYMheJY&feature=channel
Hầu Giá Chúa Mường Đệ Nhất Tây Thiên
xErDjYjTsek&feature=channel
Hầu Giá Chúa Mường Đệ Tam Lâm Thao
-km4OzrzZok&feature=channel

ChauBe
29-01-2010, 16:47
CHẦU ĐỆ NHỊ THƯỢNG NGÀN
Dâng văn tiên chúa thượng ngàn
Đông Cuông tuần quán giáng đàn chứng đây
Trên ngày gió cuốn rung cây
Dưới khe cá lội chim bay về ngàn
Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào
Gập ghềnh quán thấp lầu cao
Khi ra núi đó lúc nào ngàn xanh
Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh
Ngôi cao công chúa quyền hành núi non
Anh linh đã khắp tiếng đồn
Sấm ran mặt bể chớp mưa tuôn đầu ghềnh
Da ngà mặt phượng long lanh
Mặt hoa tươi tốt tóc xanh rườm rà
Nhị hồng tuyết điểm mầu da
Cổ tay tựa ngà đầu vấn tóc mai
Vốn dòng công chúa Thiên Thai
Giáng sinh hạ giới quản cải Thượng Ngàn
Quản cai các lũng các lang
Sơn tinh cầm thú hổ lang khấu đầu
Khắp hoà tam thập lục châu
Chín từng khe suối một bầu tiêu dao
Dong chơi ngàn quế ngàn đào
Khi ra thác cái lúc vào thác con
Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đồi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc lại thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non bồng
Phố Cát đền Sòng sông Cả sông Thao
Lân rờn Phượng múa thấp cao
Ngày mây thấp thoáng trăng sao lững lờ
Nón buồm vai quẩy lẵng hoa
Đền khi phủ nọ vào ra chơi bời
Khi thanh vắng lúc lại êm trời
Ngồi trên đỉnh núi ghẹo người Hằng Nga
Tang tính tình thôi đọc lại ca
Bẻ bai giọng Xá ê a giọng Mường
Tiếng Kinh tiếng Mán tỏ tường
Lục châu quan hoả lúi lường líu lo
Dong chơi bát cảnh ngũ hồ
Đua chèo bẻ lái hò dô lại về
Khi chơi ngàn mái ngàn ngàn me
Ngàn giang ngàn nứa trúc tre ngàn vầu
Đôi cô Thổ Mán theo hầu
Cô xe chỉ thắm cô xâu hạt vàng
Sơn Lâm dọn quán bán hàng
Non xanh đủng đỉnh tuyết sương gieo hò
Khăn xanh áo lục nhởn nhơ
Khi vào ba dội lúc vô đường chèo
Môi son má phấn mỹ miều
Miệng cười hoa nở mọi chiều mọi hay
Đèn trăng quạt gió màn mây
Bóng thông che tán bóng mai tựa hình
Đi suối lúc lại về ghềnh
Đua chèo tiếng phách tiếng sênh reo hò
Chè tàu ba chén tính ưa
Thanh bông hoa quả ngự thừa lại ban
Yêu ai tài lộc chầu ban
Ghét ai chầu quở khôn ngoan được nào
Xem trong sự tích tân la
Vậy nên phúc đẳng hà sa vô cùng
Đệ tử dốc một lòng thành kính
Dâng bản văn trình chầu ngự giáng lâm
Mời chầu giáng phúc từ trung
Khuông phù đệ tử tăng long thọ trườn

ChauBe
29-01-2010, 16:54
Phủ Nội ( Phủ Nội Tiên Hương ) hay còn gọi là Phủ Nội Tiên Đình là nơi cội nguồn nội tộc sinh ra Công Chúa Liễu Hạnh – là nơi thờ Tổ Tiên, Ông Bà, Bố Mẹ và Thánh Mẫu từ lâu đời.



Phủ Nội cũng là nơi thờ Ngũ Vị Tôn Quan, Trần Trỉều, Chúa Sơn Trang … và đặc biệt ở đây có ban thờ Tổ Tiên sinh ra Thánh Mẫu và thờ Tam Toà Thánh Mẫu mang tính chất cội nguồn dòng họ Trần – Lê, nghĩa là Thánh Mẫu Liễu Hạnh là cao cao tổ Mẫu, là người sinh ra trong dòng họ Trần Lê.

Theo gia phả của dòng họ thì Công Chúa Liễu Hạnh vốn là Tiên Chúa Đệ Nhị Quỳnh Nương con của Ngọc Hoàng Thượng Đế do nỡ tay đánh rơi chén ngọc nên bị sắc giáng xuống trần gian, đầu thai làm con của Ông Lê Công Chính và Bà Trần Thị Phúc ( Là cụ đời thứ ba của họ Tràn Lê ). Vì thế mà trong hát văn có câu:

“ An Thái thôn quê đất Phủ Dầy

Thánh sinh vào cửa họ nhà Lê cải Trần ”.

Trong dòng họ hiện nay vẫn còn gia phả ghi chép về sự tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đặc biệt còn giữ lại được những sắc phong của các triều đại phong kiến ngày xưa ban sắc phong cho Thánh Mẫu và dòng họ từ thời Vua Vĩnh Khánh cho hết tới các thời Vua tiếp theo. Hiện nay trong dòng tộc vẫn còn lưu giữ và tu tạo các phần mộ của Tổ Tiên để lại như Cụ Thuỷ Tổ người sinh ra dòng họ, hay phần mộ của Vương Phụ Vương Mẫu ( Lê Thái Công và Thái Bà ) người sinh ra Công Chúa Liễu Hạnh.

Phủ Nội cách Phủ Tiên Hương ( Phủ Chính ) khoảng chừng 200m được xây dựng hàng trăm năm theo lối kiến trúc cổ truyền dân tộc, hiện nay do bị thổ cư che khuất nên chỉ nhìn thấy chiếc Cổng Chòi làm theo kiểu chồng diêm, đi vào bên trong mới nhìn thấy không gian của Phủ Nội.

Trong Phủ Nội hiện nay còn lưu giữ được tấm bia đá có tên “ Sỹ lâm hội “ trạm khắc hai mặt bằng chữ nho có niên hiệu Vua Duy Tân (1907). Trên tấm bia có đoạn khắc như sau :

“ Danh hương tiên ích ngô huyện lục kì chi nhất dã, anh phong viễn bá pháp vũ bàng chiêm, phù Tiên nhi thực chúng Mẫu dã cận lai chiêm bấi nhật dĩ ích chúng, xa mã bức tẩu phi cận nhất ngô huyện dĩ dã, viễn dã thả nhĩ nhi huống ư cận hồ. Ngã tiên công viên mưu hạt nội chư đồng nhân quyên xuất gia tư hiện mãi tự diền nhất mẫu, thanh tiền ngũ thập quán… ”.

Tạm dịch như sau:

( Dấu Tiên trong làng ta là một trong sáu sự lạ của huyện nhà. Tiếng thiêng liêng vang dội, mưa pháp thấm khắp mọi nơi. Tuy là Tiên nhưng cũng là sự thực là Mẹ của dân vậy, gần đây lễ bái ngày càng nhiều xe ngựa tấp lập kéo về, không phải chỉ huyện nhà mà là khách tự mọi nơi, xa còn như vậy gần thì sao đây. Tổ Tiên ta bàn với người trong hạt xuất tiền của và quyên góp các nơi mua được một mẫu ruộng thờ, tiền xanh 50 quan để lo công việc tế lễ …).

Chánh chi hội trưởng xã Tiên Hương, tri huyện Trần Bình Hành, cựu hào tú tài Đỗ Văn Nghi lậy viết…

Khi vào trong phủ Nội sẽ thấy một bức đại tự dã có từ lâu đời được sơn phủ tinh tế đề chữ :

“ Thụ Tư Giới Phúc “

( Mọi người nhận được sự ban phúc )

Trong phủ có quả chuông “ Cải Tạo Cư Chung “ (mới làm lại chuông) có niên hiệu vua Tự Đức (1876).

Nội dung ghi như sau:

- Tiếng chuông cảnh giới những ai chậm hiểu, truyền đức tốt đẹp cho mọi người, nơi Dao Trì tuy không xa ( cảnh Tiên ), nhưng nếu không có chính tâm thì không tới được…

Sau khi nêu tiếng chuông giáo hoá lòng thiện cho đời, chuông còn ghi chép việc tiến cúng của mọi người địa phương, thập phương để lo tu tạo cũng như kính lễ.

Chuông còn có bài minh khuyên con cháu và người đời hướng làm diều thiện tích đức để hưởng phúc lâu dài, có cuộc sống hạnh phúc.

Trong phủ còn có một đôi câu đối niên hiệu vua Thành Thái Canh Tý ( 1900 ) như sau:

“ Hữu Tiên tắc danh lãng uyển bồng hồ thế giới

Dầy đức vô cương hiển nhiên tiên cảnh nhân gian “

(Có Tiên tất có tiếng, thần ở cõi đời cũng là Tiên nơi Lãng Uyển

Đức lớn không có bờ, rõ ràng là cảnh Tiên của người chốn nhân gian).

Ở trong cung có dựng hai tấm biển sơn son thiếp vàng rất đẹp, ý nghĩa lại sâu sắc đề chữ cả hai mặt có niên hiệu thời nhà Nguyễn.

Một tấm biển đề như sau :

“ Trương phụ dĩ đức
Liệt huyện dương huy ”

( Có đức để giúp chồng

Nêu đức tốt trong huyện ).

Một tấm biển khác đề :

“ Lương môn biểu tắc
Trợ tử phu thành ”

( Cửa tốt nêu phép đúng

Giúp cho con thành đạt ).

Trong phủ hiện nay còn lưu giữ được một bộ cửa theo kiểu bức bàn có từ thế kỉ 19 rất tinh tế. Bộ cửa trạm khắc họạ tiết :

“Mẫu long giáo tử ”

( Mẹ rồng dạy bảo rồng con )

Và nhiều đề tài khác như ly chầu, phượng vũ rất công phu và nghệ thuật. Đây là một trong những bộ cửa còn nguyên vẹn từ thời các cụ để lại thể hiện nghệ thuật độc đáo về trạm trổ và sơn thiếp của cổ nhân.

Như vậy Phủ Nội là một trong những di tích trong quần thể di tích Phủ Dầy rất đáng được quan tâm. Về với Phủ Dầy là về với quê hương sinh ra Thánh Mẫu, còn về với Phủ Nội là về với gia đình dòng họ sinh ra Thánh Mẫu. Đây là di tích càng ngày càng nhiều các khách hành hương về thăm quan chiêm bái lễ Tổ lễ Mẫu khi về với Phủ Dầy.

ChauBe
29-01-2010, 16:59
Phủ Tiên Hương là công trình được xây dựng lâu đời - được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia. Theo truyền thuyết, tư liệu và bi kí thì phủ Tiên Hương xây dựng từ thời Lê Cảnh Trị ( 1663 – 1671 ) đến năm 1841 được chuyển thành công trình gạch ngói và năm Duy Tân thứ chín ( 1915 ) do tổng đốc Đoàn Triển cho xây dựng lớn như ngày nay.

Năm Dương Hoà thứ 8 ( 1642 ), triều đình cho phép xây lập đền thờ. Đến khoảng năm Chính Hoà ( 1680 – 1705 ) hễ có việc gì thì cầu cúng càng thấy linh ứng. Hàng năm đến ngày 7, 8, 9 tháng 3 thì mở hội…lịch triều phong sắc Mã Vàng Công Chúa thượng đẳng thần, ông Trần Bình Hành cử nhân khoa Tân Mão tức là dòng dõi vậy. ( Trần Lê Hữu dịch – phòng tư liệu khoa sử trường đại học Tổng Hợp Hà Nội ).

Phủ được xây dựng trên khu đất một mẫu bốn sào bốn bề tiếp giáp nhà dân, đường cái xa xa là núi Tiên Hương che chắn mặt tây như bức bình phong khổng lồ.

Tổng thể công trình theo kiểu trùng thiềm, ngoại chữ quốc, lớn nhỏ có 10 toà với năm, bẩy gian. Nhưng công trình chính là các toà phủ thờ và ba toà phương đình mặt tiền.

Các toà thuộc đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, làm theo kiểu dáng cổ truyền dân tộc. Riêng cung đệ tứ có người gọi là bái đường gồm 7 gian dài 22m, rộng 8m hệ thống cột xà vuông lác cạnh, làm rất cầu kì, chạm khắc nhiều đề tài trên bẩy, trên xà, trên mê cốn khá tinh tế, công phu như gợi cho con người nhận biết cảnh “ đào tiên trường thọ ”, cảnh “ kim tiền phú lộc ” mà thế gian dang có sự ước muốn “ phúc, lộc, thọ “. Những đề tài tứ quí, tứ linh cũng rất hấp dẫn nên các toà nhà tuy lớn , dùng loại gỗ tứ thiết mà vẫn như thanh thoát nhẹ nhàng.

Trước sân là “ nguyệt hồ ” làm cân đối theo trục đối xứng, quanh hồ có tương hoa bằng đá làm cầu kì đẹp mắt cử xuống có đôi rồng chầu và giữa tường hoa gắn tấm bia làm kiểu quấn thư khá độc đáo, nội dung nói về việc xây dựng phủ.


Phía ngoài có ba toà phương đình, tuy qui cách to nhỏ, số gian khác nhau nhưng phong cách làm kiểu chồng diêm tám mái như nhau. Hai tào tả hữu cân đối hài hoà đẹp mắt, bên trong đặt những hàng bia đá theo trình tự cân đối, khiến tả hữu phương đình không chỉ là nghi thức tô điểm cho mặt tiền, mà còn có chức năng bảo vệ văn bia, những di sản vừa có giá trị nhân văn, vùa có giá trị sâu sắc mà tiền nhân để lại…

Toà phương dình ở giữa có ba gian trông bề thế hơn, cũng làm theo kiểu mê cốn, băy kẻ, những người thợ đã trau chuốt hơn, đục đẽo công phu hơn. Những cặp nghê đỡ trụ non đấu rế, những mảng đề tài cùng, cúc, trúc, mai trên từng lá cốn ở các vì.

Xung quanh phương đình được diễu tường hoa song tiện, cửa phía Tây có rồng chầu, hai cử phía Đông tạo đôi cặp hổ rất sinh động từ trên nhao xuống lại ngước đầu ngoái cổ nhìn nhau, tựa đón mừng người vào cửa, khiến tào phương đình tạo cho mặt tiền Phủ Tiên Hương thêm ý nghĩa, hấp dẫn gợi cảm cho ai mỗi khi vào hành hương.

Phủ Tiên Hương có khá nhiều đồ thờ tự, tượng pháp câu đối, đại tự được gia công cầu kì, ví như bộ đèn bằng đồng có 36 nơi cắm nến, bộ đỉnh đồng hạc đồng cũng được đúc với kĩ thuật cao, lại có trình độ hội họạ nên họạ tiết trang trí thật trang nhã, lắng đọng lòng người.

Ba bộ long ngai cỡ lớn, được trạm trổ cầu kì các cặp rồng chầu, phượng, ly, qui và hoa lá cách điệu. Lại sơn thiếp theo kĩ thuật truyền thống nên hàng trăm năm mà ánh vàng trong nền sơn sơn đỏ vẫn còn bóng sáng và ấm áp lạ thường.

Sập đá có kích thước 2.2m x 2.0m làm kiểu chân quỳ dạ cá, hoạ tiết bốn góc là chim thần cách điệu, một phong cảnh nghệ thuật từ lâu đời được bảo lưu kế thừa.rồi đường nét hổ phù cũng là đề tài quen thuộc, Những hiện vật này mặc dù thể hiện theo phong cách thời Nguyễn nhưng là những di vật cực kì có giá trị…

Phủ Tiên Hương còn 14 văn bia, song hầu hết là văn bia tiến cúng của thời Nguyễn, thế kỉ 19 và thế kỉ 20 (theo bảo tàng lưu trữ tỉnh Nam Định).Qua những hàng loạt văn bia này chứng tỏ ảnh hưởng của phủ rộng khắp. Từ quan tới dân, từ trong tỉnh tới ngoài tỉnh đều thành tâm với cửa Mẫu, Tấm bia đá :” Quan lại cúng ngân bi ký ” làm ngày 18 tháng 6 năm Duy Tân thứ tám ( 1914 ) có ghi các quan lại đóng góp tiền để sửa chữa Phủ Tiên Hương, thấy ảnh hưởng của phủ rất lớn, các Tổng Đốc, Tuần Phủ Nghệ An, Bắc Ninh, Hà Nam, Thái Bình, các quan đốc học, tiến sĩ đương chức hay về hưu, một số quan lại khác cúng tiến…

Tại Phủ Tiên Hương có thờ Thánh Phụ, Thánh Mẫu ( là người sinh ra Mẫu ) thờ Tam Toà Thánh Mẫu, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Ngũ Vị Quan Lớn, Quan Hoàng, Các Chầu, Các Cô, Các Cậu, Thủ Đền, Thổ Thần và có đền thờ riêng Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương cùng Nhị Vị Vương Cô. Do vậy số ban thờ ở đây rất phong phú và đều uy nghi lộng lẫy.

Tại cung đệ Nhị thờ Song Thân sinh ra Thánh Mẫu, có bài vị đặt trên ngai trạm rồng rất trang trọng.

- Bài vị để trên ngai tại giữa gian ghi về Thân Mẫu của Tiên Chúa:

“ Sắc tặng khải sinh Thánh Mẫu Trần môn chính thất, huý Phúc hiệu Diệu Phúc, dực bảo trung hưng trung đẳng thần ”

( Sắc tặng cho người sinh ra vị Thánh :

Bà là vợ Trần Công, tên huý là Phúc, tên hiệu là Diệu Phúc, vị thần bậc trung phò giúp cho cơ đồ nhà nước )

- Bài vị để trên ngai tại gian trái

“ Sắc tặng khải sinh Thánh Phụ Trần quý công , huý Chính tự Đức Chính, dực bảo trung hưng trung đẳng thần ”

( Sắc tặng cho người sinh ra vị Thánh, Thánh Phụ là Trần Quý Công, tên huý là Chính, tên tự là Đức Chính, vị thần bậc trung phò giúp cho cơ đồ nhà nước )

Phủ Tiên Hương được bài trí nhiều đại tự câu đối tán dương công đức, câu đối treo ở toà đệ Tứ ghi:

“ Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn ngũ Bách dư niên quang thực lục.

Lịch triều ba cổn, vi đề nữ, vi đại vương, vi chúng mẫu, ức thiên vạn cổ điện danh bang.

Long phi Quý Sửa thu

Thanh Hoá tỉnh Đốc học Lê Hy Vĩnh phụng soạn ”.

Tạm dịch :

( Ba đời thay đổi, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn đến nay đã hơn năm trăn năm, sự tích sáng ngời trong thực lực

Các triều phong tặng là con vua, là Đại Vương, là các mẹ, dù cho tới muôn vạn năm sau, tiếng tăm vang động khắp nhân gian.

Rồng bay mùa thu năm Quý Sửa

Đốc học tỉnh Thanh Hoá tên là Lê Hy Vĩnh kính cẩn viết ).

- Câu đối ở gian bên, sơn son thiếp vàng trên gỗ:

“ Giáng sinh tích tại Vân hương quýnh

Bất tử danh tiêu thái lĩnh cao

Long phi kỉ tỵ niên

Phú Lương huyện tri huyện Vũ Đình Hoán bái tiến ”.

Tạm dịch:

(Giáng sinh dấu vết làng Vân, đã xa rồi vậy

Bất tử tên nêu núi Thái, cao vút còn đây

Rồng bay năm Kỷ Tỵ

Quan tri huyện huyện Phú Lương tên là Vũ Đình Hoán lạy dâng) .

Câu đối treo ở tiền đường (cung Đệ Tứ)

“ Chân thân tòng đế khuyết, tam giáng sinh duy trinh duy hiếu, thiên cổ mẫu nghi. Thúc nhiên xa cái vân du, do yết tâm kinh phù thế đạo.

Linh thanh liệt Nam thiên, tứ bất tử thị Phật thị Tiên, vạn gia từ mộ. Đương thử giang hà nhật hạ, khởi duyên phong hội biến Thần quyền.

Duy Tân Quý Sửu trọng thu

Nam Định Tổng Đóc Thanh Oai Đoàn Triển bái đề “ .

Tạm dịch:

( Chân thân từ trên trời ba độ giáng sinh vẫn trinh vẫn hiếu, muôn thủa khuân mẫu người mẹ. Bỗng nhiên xe lọng xa vời, còn để tâm kinh dậy đạo lý cho mọi người.

Tiếng thiêng ở Nam Giao, thứ tư bất tử là Phật, là Tiên, mọi nhà kính mến lòng từ, đang buổi non sông ngày xuống, đâu vì phong vội thay đổi thần quyền.

Giữa mùa thu năm Quý Sửu (1913) niên hiệu Duy Tân

Tổng Đốc Nam Định quê ở Thanh Oai tên là Đoàn Triển lạy viết ).

Phủ Tiên Hương là công trình thờ tự lớn nhất tại Phủ Dầy hiện nay, là nơi thờ Mẫu được du khách về thăm quan chiêm bái lớn nhất tại Phủ Dầy, hàng năm có tới hàng triệu người về thăm quan lễ Mẫu và thăm quan ngắm cảnh.Vẻ đẹp nơi đây quả đúng như lời thơ ghi trên bia năm Minh Mệnh thứ 19 :

Đẹp nhất xưa nay chính chốn này

Muôn dân nhờ cậy phúc ơn dầy

Mây vùng An Thái luôn bao phủ

Nức tiếng anh linh mọi điều hay.

ChauBe
29-01-2010, 17:02
Đền Công Đồng là công trình thờ tự toạ lạc trên cùng đất cao, bao gồm bốn toà với 18 gian thiết kế theo kiểu trùng thiềm hài hoà và cân đối. Toà ngoài cùng là một hệ thống cột đá xanh với đấu cánh sen đầu trụ., đầu trụ còn có một nghê đá chầu, thân trụ tạo gờ chỉ nổi và chạm hoa lá long ly qui phượng đẹp mắt, phía trước là một hồ nước khiến cảnh quan hữu tình.

Cổ xưa Đền Công Đồng thờ thành Hoàng là Tả Lôi Công, hiện còn đặt bài vị tại chính cung ghi “Đương cảnh Thành Hoàng Tả Lôi Công thuần chính đại vương ”. Trong cung còn có pho tượng Tả Lôi Công, to gần như người thật, dáng bệ vệ đường hoàng oai phong, nhưng vẫn độ nét hiền hoà của vị tướng Thần độ trì cho dân cho nước.

Trong đền có một đôi câu đối tán dương công đức của Thần Thánh như sau:

“ Vân vũ thị hồng ân, Nam quốc sinh linh giai nhuận trạch

Giang sơn chung tú khí, Tiên Hương cảnh sắc mạc thanh cao ”

(Ân đức tựa mây lành, người vật nơi nơi đều mong đợi

Khi tốt ở núi sông, Tiên Hương cảnh sắc thật thanh cao ).

Ở toà đệ Tam có một đại tự nền gấm như sau:

“ Vạn phúc du đồng ”.

Hai cung ngoài Đệ Tam và Đệ Tứ thờ Tam Toà Thánh Mẫu, lại thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào Bắc Đẩu và các vị trong hệ tứ phủ.

Trong đền còn lưu trữ được hai tấm bia đá dựng cân đồi hai bên.

- Tấm bia bên phải ghi :

“ Tiên Hương Công Đồng từ bi kí “

( Bia ghi đền Công Đồng ở Tiên Hương ).

Bia cao 1m rộng 0.6m niên hiệu Duy Tân thứ sáu (1912), trạm lưỡng long chầu nguyệt triện lá công phu.

- Tấm bia bên trái ghi về việc phụng sự hội làng của các giáp. Ghi việc rước thần từ các đền phủ trong xã về Đình Ông Khổng vào ngày mùng 6 tháng giêng để tế lễ, ngày mùng tám và mùng chín rước hồi cung về các đền phủ sở tại.

Trong đền còn có một đôi câu đối khắc trên cột đá như sau:

“Địa chung tá thuỷ kỳ sơn tứ phương hoà hội

Thiên sinh ngọc sa giao thuỷ tam nguyệt thường như ” .

(Đất này núi đẹp núi kỳ, bốn phương về tụ hội

Trời sinh cát đẹp nước bay, tháng ba theo lệ cũ ).

Như vậy đền Công Đồng là một công trình thờ tự có từ lâu ( khoảng thế kỉ 17-18) thời Nguyễn và Hậu Lê. Đền Công Đồng là một di tích đẹp trong quần thể Phủ Dầy được đông đảo du khách về thăm quan dâng hương tế lễ.

ChauBe
29-01-2010, 17:05
Cây Đa Bóng hay còn gọi là Nguyệt Du Cung hay Phủ Bóng. Theo truyền thuyết là công trình được làm trên nền đất cũ mà Công Chúa Liễu Hạnh hiển linh về ngắm trăng mỗi khi về thăm quê, thăm mộ phần.

“ Có khi tới tổ tiên nhà

Xe loan đạp gió thăm qua cựu phần

Cây Đa Bóng mộ Phụ Thân

La Hào đất ấy Tổ phần đã lâu

Tiên trần nào khác nhau đâu

Chẳng qua chữ hiếu ở đầu mà thôi

Tấm lòng trời đất sáng soi

Ba đời sinh hoá, mây hồi bao dương…”

Đoạn thơ trong tập “ Cá Thiên Tam Thế Thực Lục ” do Đoàn Triển, Tổng đốc Nam Định chủ biên đã nói lên tình cảm của Liễu Hạnh Công Chúa đối với quê hương Phủ Dầy. Bà đã về thăm lại mộ phần, thăm mộ Phụ Thân, thăm mộ Tổ xứ La Hào.

Lại có quan điểm cho rằng Phủ Bóng là nơi thờ hội đồng các bóng các giá, người có căn mạng phải đến đây trình đồng như quấn “Đạo Mẫu Việt Nam ” của tiến sĩ viện trưởng Ngô Đức Thịnh chủ biên năm 1996, trang 121 có ghi: “ Phủ Bóng thờ hội đồng các bóng, các giá. Người có đồng phải trình đồng ở đây, trước khi hầu đồng trong các di tích quần thể Phủ Dầy ”.

Điều đặc biệt là Nguyệt Du Cung được Đào Chi đệ tử Hàn Lâm thi độc Hồ Hữu Du, tên tự chính là Nguyễn Mộng Thạch dâng câu đối, khắc trên đá tại lăng Thánh Mẫu:

“ Thiên Bản địa linh lưu thắng tích

Nguyệt Du thuỷ hoạt tố Tiên nguyên ”.

( Thiên Bản đất thiêng còn mãi dấu xưa nơi Thánh Ngự

Nguyệt Du nước chảy noi theo dòng dõi vị Tiên nương ).

Đền Cây Đa Bóng có hai tấm bia quí là “ Nguyệt Du từ bi kí “ và “ Nguyệt du cung bi kí ”, qui cách 0.8 x 1.3m chạm khắc long chầu phượng vũ, riềm chạm hoa sen, triện tàu cùng hoa lá cách điệu có niên hiệu Vua Bảo Đại (1929), văn bia nói việc hàng năm nhân dịp tháng tám và tháng ba kỉ niệm sinh hoá của Mẫu đều tế tại Nguyệt Du từ.

Trong Phủ còn lưu giữ được chiếc trống đồng làm theo kiểu trống da có tang trống và mặt trống nhưng chất liệu bằng đồng đỏ . Đây là chiếc trống đầy đặn và hiếm thấy, khi đánh tiếng âm vang ấm áp, trên tang trống khắc hàng chữ “ Thành Thái Giáp Thìn niên (1904), Tri Phủ Nghĩa Hưng cùng vợ tiên cúng vào Nguyệt Du Cung - Tiên Hương “.

Trong đền còn có một đôi choé cổ có đường kính miệng chừng 40 cm trạm khắc chữ “ Tiên Hương Nguyệt Du Cung “ và quả chuông đồng “ Nguyệt Du Từ cung “ là những di sản văn hoá có giá trị.

Đền Cây Đa hiện nay đã được tu sửa một cách bề thế. Các ban thờ được bố đẹp và hài hoà. Các ban thờ công đồng, các quan, các cô, cậu, …Và hiện nay Phủ Bóng được tu sửa nạy một cách khá đồ sộ. Chỉ trong một thời gian ngắn Phủ được xây dựng kiên cố. Đặc biệt mới xây dựng cổng Tam Quan khá bề thế, được đắp các hoạ tiết một cách tinh sảo với kĩ thuật cao…

Phủ Bóng hiện nay cũng được đông đảo các du khách về dâng hương chiêm bái. Và trở thành một di tích ngày càng quan trọng trong quần thể di tích Phủ Dầy.

ChauBe
29-01-2010, 17:06
Đền Ông Hoàng Mười
Ở làng Xuân Am, xã Ân Công, nay là làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh,huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An có một ngôi đền thờ lớn. Nếu lấy địa danh đặt tên thì gọi là đền Xuân Am, nếu lấy thế đất theo thuyết phong thuỷ gọi là Mỏ Hạc Linh Từ, nếu lấy nhân vật được thờ chính gọi là đền Đức Thánh Hoàng Mười.

Tương truyền các ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Bát Hải đại Vương ở hồ Đông Đình nên đều là Long Thần nhưng trong các văn chầu từng ông cũng như truyền thuyết ở từng địa phương thì phần lớn các ông là nhân thần, những danh tướng có công đánh giặc, khai phá đất đai.
Ông Hoàng Mười được thờ tại đền là một danh tướng thời nhà Lê, gốc ở tỉnh Nghệ An, được nhân thế hoá, phàm tục hoá thành Thái uý Vĩ quốc công, trở thành vị thần chính ở đền Xuân Am hay đền đức thánh Hoàng Mười, còn gọi là Mỏ Hạc Linh Từ.
Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924), vua Khải Định có sắc Phong “Quang uý Trung đẳng thần”, trong tín ngưỡng tâm linh nhân dân tôn vinh là “Thượng đẳng thần”.

Lễ hội Đức thánh Hoàng Mười


Địa điểm: Tại đền thờ và mộ đức thánh Hoàng Mười - Xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An
Lễ hội diễn ra hai lần trong một năm, gọi là lễ hội rước sắc vào ngày 15/3 âm lịch.
Lễ khai điển vào ngày 10/10 âm lịch - ngày kỵ ông Hoàng Mười để ghi nhớ công đức của Ngài

Phần lễ:

- Sáng ngày 14/3 âm lịch: lễ yết cáo

- Tối ngày 14/3 âm lịch: lễ đại tế

- Sáng ngày 15/3 âm lịch: Lễ dâng hương

- Tối ngày 15/3 âm lịch: lễ yết cáo

- Tối ngày 09/10 âm lịch: lễ đại tế

- Sáng ngày 10/10/âm lịch: lễ tưởng niệm,dâng hương

- Tối 10/10 âm lịch: Lễ tạ

Phần hội :

- Chiều ngày 14 tháng ba và chiều ngày 09 tháng mười âm lịch: Rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền.

- Chiều ngày 15 tháng ba và chiều ngày 10 tháng 10 âm lịch: Hát chầu văn, thi chọi gà, đánh cờ người.

- Sáng ngày 16 tháng ba và chiều ngày 11 tháng mười âm lịch: Rước sắc bằng thuyền từ đền về nhà thờ họ Nguyễn tại làng Xuân Am

ChauBe
29-01-2010, 17:13
Lễ mở phủ còn được gọi là lễ ra đồng sau khi làm lễ thì người có đồng mới chính thức là 1 con đồng tứ phủ.
Trong 3 năm tính từ ngày mở phủ người đó được gọi gọi là tân đồng. sau ba năm tân đồng làm lễ tạ đàn bốn phủ và được coi là đồng thuộc . Những người có căn số làm thầy sẽ được phong quan ( thanh đồng đạo quan) và họ có thể đi mở phủ cho người khác. Những ai có khả năng xem bói , bói bằng linh cảm thì thường Khi mở phủ có đàn chúa bói và cách thức mở phủ có hơi khác bình thường 1 chút . người ta gọi những con đồng này là đồng bói....
Tân đồng khi làm lẽ mở phủ phải chuẩn bị rất nhiều thứ trong đó rất quan trọng là phải có 1 khăn phủ diện 1 áo công đồng khăn tấu hương.... Khăn áo cũng rất nhiều tùy vào điều kiện họ phải sắm mỗi giá 1 bộ khăn áo Đây là nguyên tắc chung còn nhiều khi người ta chỉ cần 5 bộ áo dài 5 màu gồm đỏ xanh trắng vàng và xanh lam hay mượn khăn áo của người khác. Nhưng đặc biệt là khăn áo công đồng (do tiên thánh sang khăn sẻ áo cho ) không được mượn và cũng không được cho ai mượn khăn áo đó
Đại Lễ trình đồng ( tiếp)
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu thì (lên đồng) bắc ghế hầu thánh là nghi lễ phổ biến và quan trong
Lễ mở phủ là buổi lễ ra đồng của 1người có căn đồng số lính.Để tiến hành lễ mở phủ đệ tử phải mời về 1 đồng thầy ( người sẽ mở phủ và dạy phép nhà thánh cho tân đồng). và pháp sư cung văn , tứ trụ hầu dâng cây quỳnh cây quế ( những người thay khăn thay áo ,lên hương cho thanh đồng)

Lễ mở phủ về cơ bản cũng giống như 1 lễ hầu đồng bình thường .trong lễ mở phủ có các nghi lễ sau

Lễ phát tấu thỉnh ngũ phương (lễ mặn)
thỉnh phật tụng kinh dược sư
Khoa trình đồng tứ phủ( có lễ tam sinh thường là lợn, gà, ngan hoặc lợn gà cá( cá rán hoặc cá nướng))
Khao sơn trang
khao thiên quan
Khao hạ ban ( ngũ dinh)
cúng chúng sinh
Có nơi còn có khoa cúng trần triều

Sau đó đồng thầy mới vào hầu thánh và làm lễ mở phủ cho đồng mới

Trong tín ngưỡng Tứ phủ có nhiều khoa cúng khác nhau như khoa cúng Phật, khoa cúng Mẫu, khoa cúng Tứ phủ trình đồng (dành cho người bắt đầu xin gia nhập tín ngưỡng Tứ phủ để đi hầu bóng), khoa Tam phủ đối kháng (cúng để xin cắt tình duyên cho người người trần khỏi cõi người âm), khoa Tam phủ thục mệnh di cúng hoán số (cúng Nam tào Bắc đẩu để xin đổi số, phê cho số trường sinh), Cúng Thục án Diêm Vương, cúng trăm phù cửu đỉnh, là những đàn cúng cho người mười phần chết tám
v.v.. Người ta thường cúng khoa cúng Phật (nếu đền thờ vọng Phật), khoa cúng Mẫu, hoặc cúng chung cả hai khoa cúng trên gộp thành khoa cúng Phật-Mẫu. Nội dung khoa cúng có thể chia làm ba phần. Phần đầu để khai quang đàn tràng, dâng hương Phần giữa với mục đích để thỉnh chư Phật, chư Thánh theo thứ tự từ cao xuống thấp. Phần cuối mời chư Phật, chư Thánh an tọa, thụ hưởng và cuối cùng các vị thần trở lại nơi mình ngự trị.

Trong lễ trình đồng,đồng mới có thể mòi pháp sư làm lễ trung cúng và tiểu cúng hoăc có thể làm lễ đaị cúng.trong lễ đại cúng có múa Sái tịnh với ý nghĩa làm sạch sẽ đàn tràng là một hiện tượng văn hóa khá độc đáo trong khoa cúng Phật-Mẫu. Pháp chủ mặc áo cà sa năm điều, đội mũ thất Phật. Một tuần Sái tịnh gồm múa khai hoa, kết ấn, múa vòng thuận nghịch, thư chữ trong chén ngọc chản, cầm cành dương liễu vảy sái chữ tâm.Trong khoa cúng, ngoài am hiểu khoa giáo, các thầy cúng cũng phải sử dụng các nhạc cụ thích hợp chư chuông trống bạt thanh la.... Mỗi thầy cúng đảm nhiệm ít nhất một nhạc cụ. Vị trí ngồi trong dây của họ bị chi phối bởi sự sắp xếp theo quy định của các nhạc cụ. Thông thường, pháp chủ sẽ đảm nhiệm một mõ, một chuông. Người đầu dây tả đảm nhiệm trống canh, người thứ hai chơi trống cái, người thứ ba gõ thanh la. Người đầu dây hữu chơi tiêu cảnh, người thứ hai xóc đôi nạo và người thứ ba gõ bạt

LỄ PHÁT TẤU thỉnh năm vị sứ giả đồ lễ 1000 vàng ngũ phương( 5 màu)

5 ngụa bé +5 xiêm y +mũ +hài

lễ mặn

mâm phát tấu gồm

5 trứng năm mầu
5 vở+bút ( ngày xưa dùng bút lông có thêm thỏi mực tàu còn bây giờ dùng bút bi cho tiện)
5 gương +5 lược
5 khăn bông+5 khăn mùi xoa
5 quạt 5 màu
5dao+5 kéo+thuốc lào
5 nước hoa + 5 bật lửa
thỉnh phật tụng kinh dược sư



trong lễ mở phủ quan thầy hầu 6 giá quan trọng nhất để mở phủ là 5 giá quan và giá chầu đệ nhị>Ngoài ra còn hay thấy hầu giá đức ông trần triều và chúa nguyệt hồ

trong ngũ vị tôn quan thường là 4 vị quan từ quan đệ nhất tới quan đệ tứ mỗi quan mở 1 phủ tương ứng và quan tuần tán đàn

có nơi quan đệ nhất chỉ chứng đàn quan đệ nhị mở 2 phủ quan tam mở 2 phủ lại cũng có nơi quan đệ tam và quan đệ tứ mỗi vị mở 2 phủ

thường mỗi phủ có 1 mâm lễ và 1 ché nước tượng trưng cho mỗi phủ khi mở phủ các quan về chứng lễ và dùng gáo để đập ché và tưới nước tắm cho đồng mới ( tương trung thui bây giờ dùng nước hoa phun lên đồng mới)

mâm bốn phủ có các lễ vật giống mâm phát tấu với số lượng đồ lễ là trai 7 gái 9

ngoài ra còn có cầu giấy 4 mầu và khăn 4 phủ( 4 mầu)

gạo muối cau tiền

mâm sơn trang đồ lễ gồm 13 ( hoặc 15 phần)

gồm 1 đĩa nếp cẩm. 1 quả dừa tôm cá mực cua cành măng tươi ....

mâm sơn trang dâng cô bé thượng gồm chanh ớt gừng dứa ,,,

mâm sơn trang dùng để chứng đàn gồm 13 quả trứng xanh và đồ lễ gần giống mâm phát tấu


trên ban công đồng thường được bày như sau

Mũ ngọc hoàng, mũ quan nam tòa bắc đẩu mũ bình thiên

mũ các quan 5 bài vị 5 màu bốn phủ (đỏ xanh vàng trắng tím) 1 bài vị bản mệnh mầu hồng

bày bốn mâm bốn phủ cùng với 4000 vàng bốn phủ tương ứng và 4 ché nước 4 phủ được bịt kín bằng giấy trang kim hoặc giấy 4 màu tương ứng với bốn phủ

4 gáo nước ( hoặc 2 gáo nếu chỉ có 2 quan về mở phủ)

Long chu phượng mã

đại mã dâng các quan

1 ngựa đỏ thiên phủ
1 ngựa xanh nhạc phủ
1 thuyền rồng trắng,tam đầu cửu vĩ
1 voi vàng địa phủ
1 ngựa tím dâng quan tuần
trên ngụa có tráp áo
5000 vàng năm mầu dâng các quan
rắn nghê và 5 hình nhân 4 hình nhân bốn phủ 1 hình nhân hồng bản mệnh

dâng sơn trang
4 toà sơn trang 4 màu (xanh,đỏ,trắng,vàng), mỗi toà gồm 1 hình chúa bà ngồi trên bệ,2 hình chầu cầm quạt chầu vào,12 hình cô, 1 thuyền nhỏ,1 bè nhỏ,1 thoi nhỏ,1 núi giùm,1000 vàng đại,1000 vàng cô 12,1bộ hải sảo

thường chỉ dâng tòa sơn trang màu xanh

dâng 3 tòa chúa bói cũng giống tòa sơn trang nhưng thường nhỏ hơn 1 tý

dâng ông hoàng
3 ngựa 3 màu: trắng ,tím ,vàng nhỏ hơn ngựa dâng các quan lớn 1 chút

tráp áo và 3000 vàng 3 màu trăng tím vàng

dâng cô 5000 vàng cô 5 màu dâng 5 cô :cô đôi ,cô bơ ,cô sáu ,cô chín ,cô bé

dâng cậu 2 ngựa nhỏ hơn ngựa dâng ông hoàng màu trắng và xanh cùng vàng hoa dâng cậu bơ và cậu bé

Có nơi dâng cả mã trần triều gồm ngựa tráp áo đỏ + vàng thiếc

ChauBe
29-01-2010, 17:20
Lên Đồng ( Hầu Bóng ) là nghi lễ chính của thờ Mẫu tứ Phủ.

Đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác các ông Đồng, Bà Đồng, là sự tái hiện các hình ảnh các vị thánh nhằm phán truyền , chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. Nghi thức lên đồng mang những sắc thái địa phương, trong đó có kể đến Hà Nội, Huế, Sài Gòn.

Trong lên đồng, mỗi lần một vị Thánh nào đó nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng ( nhập đồng ) rồi lại xuất hồn ( thăng đồng ) thì gọi là một Giá Đồng . Trong một giá như vậy , đầu tiên là một vị Thánh nhập đồng , thay trang phục, làm lễ cúng Thánh Mẫu, nhảy múa , ban phúc lộc, phán truyền rồi thăng đồng ( xuất đồng ).

Trong nghi thức hầu bóng , để cho Thánh nhập người hầu đồng phải thoát khỏi trạng thái tâm lý bình thường, họ không còn là họ nữa , mà chỉ là cái xác để Thánh nhập vào, do vậy mà tuỳ từng vị thánh mà người hầu đồng có những hành động , tư thế nét mặt khác nhau sao cho phù hợp với vị thánh đó. Để tạo lên trạng thái tâm lý như vậy, Ông đồng , bà đồng phải đưa mình vào trạng thái ngây ngất này, ngoài bàn thờ và hương khói các màu sắc mạnh của đồ thờ , quần áo còn có vai trò của âm nhạc, lời hát, tiếng trống, rượu, trầu , thuốc lá…

Nghi lễ mở đầu
Trước khi hầu đồng, Ông Đồng, bà Đồng thông qua người chủ đền phải làm lễ chúng sinh và lễ Thánh. Đồ lễ chúng sinh được đặt trên một cái mâm, trên đó có các đồ vàng mã cắt thành hình quần áo, tiền , vàng, thỏi bạc, những bát cháo, bánh trái và thức ăn khác. Có khi trên mâm còn có mấy đồng tiền bỏ vào mâm, chậu nước dành cho những vong hồn chết đuối. Lễ chúng sinh có mặt trong tất cả các nghi lễ của tín ngưỡng Tứ Phủ và các tín ngưỡng dân gian khác, dành cho những vong hồn chết dữ hay không có người thừa nhận, không có người hương khói cúng giỗ.

Trang Phục
Về nguyên tắc mỗi vị thánh nhập đồng thì phải có trang phục riêng, do vậy có bao nhiêu giá thì có chừng ấy bộ trang phục tương ứng.Những trang phục cơ bản không thể thiếu được trong các buổi hầu đồng là khăn phủ diện màu đỏ dùng chung cho tất cả các giá đồng khi Thanh đồng giáng đồng hay thăng đồng , các loại áo dài , các loại mũ , khăn , thắt lưng, đai , thẻ ngà vòng…điều đặc biết là màu sắc trang phục phải phù hợp với từng Phủ của vị thánh đó như Tiên Phủ - màu đỏ, Nhạc Phủ - màu xanh, Thoải Phủ - Màu trắng, Địa Phủ - màu vàng.

Con nhang đệ tử

Là tín đồ của đạo Mẫu, con nhang là những người đã làm lễ đội bát nhang, gửi bản mệnh của mình ( bát nhang ) vào một đền phủ nào đó để thờ thần linh Tứ Phủ che chở.

Hàng tháng , cứ ngày mồng một và ngày rằm phải đến đền mà mình gửi bát nhang để cúng lễ.

Đệ tử có thể là những người chưa gửi bát nhang vào đền phủ nhưng có lòng tin vào sự linh thiêng của Thánh Mẫu. Do vậy vào dịp lễ tết hay lên đồng họ thường tham dự và cầu xin Thánh Mẫu ban tài lộc.

ChauBe
29-01-2010, 17:23
Đền Lạng Sơn thấy cổ tự rêu phong bên sườn núi, với những hàng thông cao gió reo, những khóm lan tươi tốt….Và xa xa chim lạc ngậm hoa, vượn khỉ dâng quả.

Trong chùa thì bia đá phủ rêu xanh, tượng Phật bụi thời gian bao phủ… Thức cảnh sinh tình Tiên Chúa ngẫu hứng ngồi ghế gẩy đàn theo ý thơ ở góc ba cây thông.

“ Cô Vân lai vãng hề sơn thiếu nghiêu

U điểu xuất nhập hề lâm yêu kiều

Hoa khai mãn ngạn hề hương phiêu phiêu

Tùng minh vạn hác hề thanh tiêu tiêu

Tứ cố vô nhân hề quỳnh trần hiệu,

Phủ đàn trường khiêu hề độc tiêu dao

Hu ta hề, sơn lâm chi lạc hề

Hà giảm linh tiêu”.

Dịch nghĩa ( Vũ ngọc Khánh )

Đám mây bây đi bay lại chừ, núi cao ngất

Chim đàn lượn ra lượn vào chừ,rừng um tùm

Hoa nở đầy bờ chừ, hương thoang thoảng ,

Thông reo muôn hàng chừ,tiếng rào rào

Bốn mặt vắng tanh chừ,cách bụi trần

Gẩy đàn ca hát chừ,tư ý tiêu giao

Than ôi chừ, cái thú sơn lâm chừ, kém gì trên cung mây.

Tiên Chúa vừa hát vừa ca ngợi cảnh núi rừng hao lá, trời mây thiên nhiên song, bỗng có tiếng người ngoài đường xướng rằng:

“ Tam mộc xâm đình, tạo trước bảo hề nữ tử ”

( Ba cây mọc tốt tươi trước sân, ngồi đó một nàng gái đẹp )

Tiên Chúa liền ngước nhìn thấy một người mặc áo đẹp, chít khăn kiểu thư sinh, cưỡi ngựa tốt, lại có cờ mao, lính hầu đi theo liền ứng khẩu:

“Tùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân ”

(Điệp trùng non xanh cùng nối bước, đâu tới sứ giả quan nhân )

Viên quan xuống ngựa hỏi:

Nàng là người ở đâu mà thông minh,tài giỏi như thế?

Tiên Chúa bèn trỏ tay vào trong khe núi và bảo :

- Tôi là người trong núi này !

Viên quan liền xuống:

Sơn nhân bằng nhất, kỉ, mạc phi tiên nữ làm phàm

( Người trong núi ngồi một ghế, phải chăng Tiên nữ giáng trần )

Tiên Chúa ứng khẩu đáp:

-Văn Tử đới trường cán, tất thị học sinh thị trướng

( Chàng văn nhân khăn dài, hẳn bậc nho sinh tài giỏi )

Viên quan nghe song vội vàng cúi chào, nhưng khi ngẩng đầu nên thì không thấy hình bóng người Tiên đâu nữa. Tìm trong chùa cũng biệt tăm, chỉ có cây gỗ “ mộc ” nằm ngang bên đường, nhìn kĩ trên thân cây thấy bốn năm chữ “ Mão khẩu công chúa ”, trên cây gỗ còn có biển đề “ Băng mã dĩ tẩu ” .

Những người tháp tùng không hiểu bèn hỏi ý nghĩa, viên quan liền giải thích:

- Mão Khẩu Công Chúa, lại thêm chữ mộc là Liễu Hạnh Công Chúa. còn biển đề băng mã dĩ tẩu nghĩa là đợi ta, hộ Phùng ( chỉ Phùng Khắc Khoan vì chấm băng bên chữ mã là chữ Phùng ) khởi công vậy ( chữ dĩ trong chữ tẩu là chữ khởi ). Nghĩa là người Tiên giao cho Phùng Khắc Khoan khởi công tu sửa chùa nơi đây.

Quan trạng liền cho gọi các lão làng vùng sơn trang này giao cho một khoản tiền để tu sửa ngôi chùa bên núi. Ông còn để lại một bài thơ ( tạm dịch như sau ):

“ Rừng tùng tịch mịch bóng chùa xa

Tiếng hát đâu từ phía núi xa

Một khúc vờn mây người chẳng thấy

Đầy trời sắc núi cảnh nguy nga ”.

Từ đó về sau hành tung của Tiên Chúa nay đây mai đó không định. Lúc thì chơi trăng cợt gió, khi qua sông lớn núi cao hoặc vãn cảnh danh lam chùa Tháp khắp mọi nơi. Tiên Chúa còn trở lại thăm cảnh Đông kính như Báo Thiên, Hoàng Đình Đồng Tân…

ChauBe
29-01-2010, 17:27
Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian(1)

(1)Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).

Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

Cụ Bùi Bằng Đoàn(() Cụ Bùi Bằng Đoàn (1886 – 1953) là người xã Liên Bạt, huyện Sơn Lăng tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Cụ đỗ Cử nhân năm Thành Thái thứ 18 (1906), làm Thượng thư Bộ Hình. Sau Cách mạng tháng tám 1945, cụ được làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bài thơ này cụ viết vào tháng 2/1907.) khi viết về công lao đánh giặc của ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương thờ tại Đền Lảnh Giang trong tập sách “Giang Sơn cổ tích đề vịnh”, có bài thơ như sau:

“Hùng gia quý thế tam huynh đệ

Phạm tộc giang hương phả tượng truyền

Phá tặc an dân nhân dĩ viễn

Anh thanh thiên cổ nguyệt cao huyền”.

Dịch là:

Anh em ba vị cuối triều Hùng

Họ Phạm quê nhà xóm bãi sông

Đánh giặc cứu dân người đã khuất

Còn nêu sự nghiệp sáng trăng trong.

Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc... Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.

Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia

ChauBe
29-01-2010, 17:29
Chợ Viềng hay còn gọi là chợ Viềng xuân ,họp đêm ngày mùng 7 và cả ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch hàng năm. Chợ Viềng được tổ chức nhiều nơi nhưng trong đó chợ viềng tại Phủ Dầy có số lượng khách về lễ và tham gia hội chợ là đông nhất.

Có người cho rằng chợ Viềng là do đọc chệch đi từ chữ Viền ( về ), tức là về nơi thờ Mẫu đo du xuân để lấy lộc đầu năm. Nên chợ Vỉềng hễ có là đem bán, và thấy thích là mua không ngại đắt rẻ. Nhưng có người cho rằng chợ Viềng là chợ trời, chợ thần tiên bởi lẽ chữ Nôm viết chữ trời gồm chữ thiên và chữ thượng ở dưới hợp thánh chữ trời, hay còn gọi là chợ đêm hay chợ âm phủ vì sưa kia hay bán đồ hàng mã.

Chợ Viềng Phủ Dầy thường họp ở ven đường 56 và khu đất trước đình Ông Khổng thuộc thôn Tiên hương kéo dài về tận Phủ Tiên Hương.

Chợ họp tự nhiên ngoài trời, nhưng vô cùng tấp lập và đông người, mặt hàng phong phú nhưng chủ yếu là các mặt hàng phục vụ cho nông nghiệp hay cúng lễ, và đồ sinh hoạt. Các sản phẩm được bán như đồ thờ bằng đồng, nồi song chậu, các loại hàng mây tre đan như thúng nia, đòn gánh…các đồ mộc tinh sảo chạm trổ như đồ thờ bà ghế, giỏ ấm đến con trâu của các làng nổi tiếng như La Xuyên, Ninh Xá, Cát Đằng hay Hổ Sơn. Các đồ chơi dân gian cảu trẻ nhỏ…

Đặc biệt chợ Viềng được đông đảo du khách mua nhất vẫn là các loại cây như cây ăn quả, cây giống đặc biệt là cây cảnh được cắt tỉa một cách tinh tế của các làng nghề cây cảnh nổi tiếng trong cả nước.

Gần đây, khi khách hành hương về chợ Viềng chơi hội không thể bỏ qua là việc mua cành vàng lá ngọc tại các sân phủ để lấy lộc đầu năm để mang sự tốt lành làm an thịnh vượng cho cả một năm. Đặc biệt là không quên mua một ít thịt bò thui ở chợ Viềng để cầu may cả năm.

Khi về chợ Viềng thì ngoài việc đi mua lấy lộc đầu năm, các du khách thường vào thăm quan chiêm bái lễ Mẫu tại Phủ Dầy tại các đền phủ cầu cho một năm gặp nhiều may mắn. Vì vậy mà trong nhân dân thường lưu truyền mấy câu thơ như sau:


Mồng một ăn tết ở nhà

Mồng hai chơi điếm mùng ba chơi đình

Mùng bốn chơi chợ Quả Linh

Mồng năm chợ trình mồng sáu non Côi

Qua ngày mồng bẩy thì thôi

Bước sang mồng tám sang chơi chợ Viềng.

Admin
29-01-2010, 17:48
Chào bác ChauBe,

Chúng tôi thấy bác post liền nhiều bài viết mang tính chất tôn giáo, tín ngưỡng lên diễn đàn phuot.com, một diễn đàn chuyên về du lịch.

Chúng tôi đang có một số băn khoăn về loạt bài này và đang xem xét kỹ nội dung của từng bài xem có phù hợp với điễn đàn phuot.com không.

Trước mắt, chúng tôi cũng có mấy câu hỏi với bác:
1. Những bài viết đó là do bác tự viết hay bác copy từ nguồn khác? Nếu là bài bác viết thì trước khi đăng lên phuot.com, bác đã đăng ở trang web/ấn phẩm nào khác chưa? Nếu có, vui lòng bác cho biết tên của các trang web/ấn phẩm đó.
2. Bác đăng ký nick vào diễn đàn phuot.com chỉ với mục đích quảng bá về tín ngưỡng?

Trong khi chờ bác trả lời những câu hỏi trên, và cho tới khi chúng tôi có quan điểm chính thức về loạt bài viết của bác, yêu cầu bác không tiếp tục post tiếp bài có nội dung tương tự. Chúng tôi tạm thời gộp tất cả các topic thành một và sẽ tạm khóa nó lại. Topic sẽ được mở và chia tách lại nếu chúng tôi quyết định cho đăng.

Mong bác hợp tác!

ChauBe
29-01-2010, 18:29
Chùa tọa lạc trên núi Bái Đính, thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa Bái Đính cũ ở độ cao gần 200m, tương truyền được dựng vào thời Lý. Một số tài liệu ngày nay cho biết Thiền sư Nguyễn Minh Không đã vào núi Bái Đính tìm thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Thiền sư đã phát hiện động Tối, động Sáng là những hang động đẹp và dựng chùa ở đây. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 1997.

Dựa lưng vào núi Bái Đính, nhìn ra thung lũng chùa rộng khoảng 3 ha, Khu chùa Bái Đính mới đang được Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Xuân Trường đầu tư và thi công với quy mô hoành tráng trên diện tích 107 ha với nhiều công trình kiến trúc to lớn đạt kỷ lục quốc gia. Khu chùa nằm trong tổng thể dự án xây dựng Trung tâm du lịch văn hóa Tràng An rộng gần 2.000 ha do ông Nguyễn Xuân Trường làm chủ đầu tư.

Ngôi điện thờ Tam Thế Phật là công trình kiến trúc lớn đã được khánh thành vào ngày 17-5-2008. Trong buổi đại lễ khánh thành chùa giai đoạn 1, chùa vinh dự được đón tiếp nhiều đoàn đại biểu Phật giáo Quốc tế và đoàn đại biểu Phật giáo các tỉnh, thành phố trong cả nước (đến Hà Nội dự Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2008) đến viếng chùa, lễ Phật, trồng cây Bồ đề (được đem về từ Ấn Độ) lưu niệm và dùng tiệc chay. Ngôi đại điện có 2 tầng với 12 mái. Tầng trên thờ Phật, bộ tượng Tam Thế Phật bằng đồng đúc nguyên khối, mỗi tượng có trọng lượng khoảng 50 tấn, được tôn trí trang nghiêm. Tầng dưới có nhà hàng Vạn Tâm Chay khai trương vào tháng 01 năm 2009 với hơn 100 món ăn chay và Trung tâm hàng lưu niệm Phật giáo Lộc Tài.

Dưới chân núi, giếng Ngọc có nước màu xanh ngọc, đã được tôn tạo và mở rộng năm 2006 với chu vi 97,3m, đường kính 30m, sâu 10m. Tương truyền ngày xưa, Thiền sư Nguyễn Minh Không thường lấy nước ở đây để sắc thuốc trị bệnh cho dân

Một số công trình lớn đang hoàn thiện, chưa khánh thành là:

Ngôi điện Thích Ca hay điện Pháp Chủ là ngôi điện lớn 8 mái tôn thở tượng đức Phật Thich Ca bằng đồng đúc nguyên khối có trọng lượng 100 tấn, cao 10m, được Công ty trách nhiệm hữu hạn thủ công mỹ nghệ Đoàn Kết do nghệ nhân chính Nguyễn Trọng Hạnh đúc thành công ở Yên Tiến, Ý Yên, Nam Định. Trong điện còn có tôn thờ bộ tượng Bát Bộ Kim Cương bằng đồng và trang trí cặp Hạc bằng đồng lớn nhất nước.

Tháp chuông bát giác 3 tầng 24 mái treo quả đại hồng chung nặng 36 tấn đồng, cao 5,40m, đường kính 3,45m do nghệ nhân Nguyễn Văn Sính ở phường Phường Đúc, thành phố Huế thực hiện. Ông Sính đã đúc thành công 2 đại hồng chung lớn nhất nước (27 tấn và 36 tấn) cho chùa Bái Đính, phá kỷ lục đại hồng chung chùa Cổ Lễ nặng 9 tấn.

Điện thờ và tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Điện được xây bằng những cột gỗ lim lớn với diện tích 800 m2 , đỉnh điện cao 15m, tượng Bồ tát Quán Thế Âm ngàn mắt ngàn tay được đúc bằng đồng cao 11m, nặng 70 tấn.

Tam quan nội được dựng bằng gỗ, trong đặt hai tượng Hộ Pháp bằng đồng, mỗi tượng nặng 12 tấn.

Hành lang La Hán tôn thờ bộ tượng 500 vị La Hán bằng đá do các nghệ nhân làng đá Ninh Vân (Ninh Bình) thực hiện tại xưởng đá của nghệ nhân Phạm Ngọc Hoàn hơn 3 năm qua. Mỗi tượng cao từ 2m đến 2,5m, nặng khoảng 2 tấn đến 2,5 tấn.

Ghi nhận các thành quả đã đạt được trong 3 năm 2006, 2007 và 2008, Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam đã xác lập 5 kỷ lục chùa Bái Đính:
1. Pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam (xác lập kỷ lục ngày 04-5-2006).
2. Bộ tượng Tam Thế Phật bằng đồng lớn nhất Việt Nam (xác lập kỷ lục ngày 12-12-2007).
3. Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam (xác lập kỷ lục ngày 12-12-2007).
4. Giếng nước lớn nhất Việt Nam (xác lập kỷ lục ngày 12-12-2007).
5. Lễ trồng cây Bồ Đề lớn nhất Việt Nam (xác lập kỷ lục naêm 2008).

Ngôi phạm vũ lớn nhất Việt Nam đang xây dựng giai đoạn 2. Nhiều công trình kế tiếp sẽ được xác lập kỷ lục hoặc phá kỷ lục Phật giáo Việt Nam. Rất mong chùa có một số công trình được ghi vào sách Guinness thế giới.

Viện chủ ngôi chùa hiện nay là Hòa thượng Thích Thanh Tứ, đương nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Hằng ngày, các đoàn chư vị Tôn đức Tăng Ni, Phật tử và du khách gần xa không ngớt đến lễ Phật, viếng chùa, chiêm bái những công trình kiến trúc, điêu khắc và cảnh quan lớn đẹp của Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

Đặc biệt, vào ngày 06 tháng 6 năm 2009 tới đây, chùa sẽ tổ chức đại lễ cung nghinh 6 viên ngọc Xá Lợi Phật và 3 viên ngọc Xá Lợi Thánh Tăng từ Thái Lan và Tổ đình Giác Quang (TP. Hồ Chí Minh) về tôn thờ.

Chùa sẽ tổ chức đại lễ khánh thành vào lễ năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời Đô và quyết định chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.

Vào ngày 6-6-2009 nơi đây đã diễn ra lễ cung nghinh Ngọc Xá Lợi Phật do một vị Sư Thái Lan trao tặng GHPGVN. Hiện nay hàng nghìn tín đồ Phật tử thập phương từ mọi miền đất nước đã đến chiêm bái Xá Lợi Phật và tham quan quần thể chùa Bái Đính.

Chitto
29-01-2010, 21:11
1. Đề nghị bạn ChauBe khi sử dụng bài không phải của mình viết PHẢI ghi rõ nguồn. Ít nhất cũng phải nói rõ đây là bài sưu tầm chứ không phải bài bạn viết.

2. Mục đích topic lập ra không rõ ràng: Từ bài đầu đến giờ toàn là bài viết về tín ngưỡng, trong khi đây là diễn đàn du lịch.

3. Những thông tin bạn đưa rất dễ để tìm kiếm trên mạng, không có tính cá nhân của bạn, chỉ đơn thuần là đưa những gì bạn đã đọc về một vấn đề.

4. Vì vậy, topic sẽ được chuyển sang phần "Chia sẻ và cảm nhận" cho phù hợp.

ChauBe
30-01-2010, 13:16
Chùa tọa lạc số nhà 50 phố Lý Quốc Sư , quận hoàn Kiếm – Hà Nội . Xưa kia đây vốn thuộc thôn Tiên Thị , tổng Tiên Túc , huyện Thọ Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị . Đền được xây dựng thờ quốc sư Minh Không . Ngài họ Nguyễn húy Chí Thành sinh ngày 14 – 8 – năm Bính Ngọ , niên hiệu Long Chương Thiên Tự thứ nhất triều Lý Thánh Tông ( 1066 ) tại làng Điềm Xá , phủ Trường Yên ( nay thuộc thôn Quốc Thanh , xã Gia Thắng , huyện Gia Viễn tỉnh Ninh bình ) .



Năm 11 tuổi ( 1077 , ngài từ biệt song thân dốc lòng xuất gia tu Phật , cầu đạo với thiền sư Từ Đạo Hạnh , được thầy khen là tài giỏi thông minh và ấn chứng sau sẽ trở thành bậc “ Pháp khí “ trong thiền môn , ban pháp danh Minh Không , đời thứ 13 dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi . . Qua thời gian dài theo thầy học đạo , chứng ngộ chân không Bát nhã , ngài về trụ trì chùa Giao Thủy – Nam Định .

Không chỉ là bậc Đại sư thông tuệ Phật Pháp , được giới tăng ni ngưỡng vọng , danh tiếng của ngài còn vang xa và được Quốc vương kính trọng, tháng 5 năm 1131 đích thân vua Lý Thần Tông sai dựng nhà cho Ngài ( Đại Việt sử ký toàn thư . Tập 1 – NXB KHXH . H,. 1983. tr 322 ) . Ngôi nhà là nơi Quốc sư thường nghỉ lại trong những lần về kinh chữa bệnh cho vua , quan và bách tính cũng chính là vị trí của ngôi đền Tiên Thị sau này .

… tháng 3 năm 1136 vua Lý Thần Tông bị bệnh nặng , lông lá mọc khắp cơ thể , gầm thết như hổ suốt ngày , các danh y tài giỏi được triệu đến chữa trị nhưng bệnh không thuyên giảm , chính Đại Sư Minh Không là người chữa khỏi bệnh cho vua . Sau khi khỏi bệnh , cảm phục tài năng , vua Lý Thần Tông phong Ngài làm Quốc sư , tha thuế dịch cho vài trăm hộ . Trong Quốc sử còn ghi rằng : “ Tục truyền khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác , trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại cho học trò là Nguyễn Chí Thành , tức Minh Không , dặn lại rằng 20 năm sau thấy quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay , có lẽ là việc này ” .

Ngày 1/8 niên hiệu Đại Định thứ 2 – Tân Dậu ( 1141 ) , sau khi phó chúc môn đồ , Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi . Đễ ghi nhớ công ơn , vua Lý Anh tông và nhân dân đã lập đền thờ Ngài tại đền Tiên Thị . Không chỉ khi còn tại thế mà cả khi đã thác hóa ngài vẫn luôn luôn hộ quốc cứu dân , Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng : “ Quốc sư Minh Không rất linh ứng . Phàm khi có tai ương, hạn lụt, cầu đảo đều linh nghiệm cả ” trải qua gần 09 thế kỷ nhân dân vẫn hương khói phụng thờ , cầu đảo linh ứng “.



Năm 1930 Hòa thượng Thích Thanh Định tự Quang Huy trụ trì đã tôn trí thêm tượng Phật , bồ tát và đổi tên đền thành chùa Lý Triều Quốc Sư .



… Hiện còn thấy dấu vết của 2 lần trùng tu lớn đó là vào mùa xuân năm Giáp Dần niên hiệu Dương Đức thứ 3 ( 1674 ) thời Hậu Lê mà các di sản còn để lại là hệ thống tượng chân dung tiêu biểu được tạc bằng đá rất đẹp gồm tượng Phụ Mẫu Quốc sư Minh Không , tượng thiền sư Từ đạo Hạnh và thiền sư Giác Hải , cột trụ đá có niên hiệu thời hậu Lê , trên đỉnh nóc an trí tượng Quan Thế Âm Bồ Tát , Thiện tài , Long Nữ . Lần trùng tu lớn thứ 2 vào năm 1855 Lần này đền được xoay lại hướng Đông như cũ và mở rộng quy mo kiến trúc với 3 gian tiền tế 5 gian hậu cung , 2 dãy giải vũ mỗi dãy 3 gian , xây thêm tam quan phía trước và sơn thiếp các tượng thờ trong đền , tạc lại tượng Quốc sư Minh Không . Trong lần trùng tu này , để tưởng nhớ đến công lao của gia đình quan huyện Thọ Xương họ Phan – gia đình đã có nhiều công sức đóng góp trong việc sửa chữa đền nên đã tạc tượng thờ .

Trải qua 145 năm tồn tại ( tính từ năm 1855 đến nay ) các hạng mục công trình đã bị mối mọt , hư hỏng và xuống cấp nghiêm trọng . Từ năm 1992 được sự ủng hộ của các cấp chính quyền trung ương và địa phương , cùng với sự đóng góp của các Phật tử và nhân dân , chùa dần dần được sửa chữa các hạng mục như nhà Tàng kinh , điện Mẫu , Tổ đường ...

Ngày 5 – 6 – 2000 đã chính thức khởi công trùng tu Đại Hùng Bảo Điện . Lần trùng tu này những đặc điểm kiến trúc , trang trí kiến trúc … vốn có của chùa đều được giữ nguyên . Đặc biệt phần trang trí trên kiến trúc được chú ý , vẫn là các đề tài “ tứ linh “ , “ tứ quý “ nhưng đều được trạm khắc rất tỉ mỉ , công phu bởi những người thợ giỏi trong làng trạm khắc nổi tiếng vùng Nam Định .

Ngày 13 – 11 – 2000 ( tức ngày 18 -10 năm Canh Thìn ) , Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm đương kim trụ trì cùng Thành Hội Phật Giáo TP Hà nội , chính quyền , nhân dân , Phật tử địa phương đã chính thức cắt băng khánh thành Đại hùng bảo điện chùa Lý Triều Quốc Sư . Đây là một trong những công trình được gắn biển “ Công trình chào mừng Kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà nội “

ChauBe
12-02-2010, 20:03
Phần 1: Hầu Khai Đàn Mở Phủ
Giá Hầu Quan Đệ Nhất
L9MUf65WNZI
Giá Hầu Quan Đệ Nhị
zOymCcHZDKI
q95dif6ThaE
Giá Hầu Quan Đệ Tam
0ls4FYJH588
Giá Hầu Quan Đệ Tứ
SzQb582HIwg
Giá Hầu Quan Đệ Ngũ
5TenHWNyUA4
VplsaoBKFQM
n905b1DF5fA
7LpCk-Bt0d0
XtYAPVaDBVE
Giá Hầu Chầu Đệ Nhị Đông Cuông Tuần Quán
TF9J4jFBCW8
INL7VhjxSfo
Giá Hầu Chầu Lục Cung Nương
9D0pXQvs3A8

taydoc
12-02-2010, 20:32
Cảm ơn bạn Chaube nhiều nhé. Bài viết của bạn công phu và chất lượng hơn cả wikipedia.org nữa.
Năm mới chúc bạn Chaube sức khỏe dồi dào để có thêm nhiều bài tương tự như vậy cho mọi người nhé

ChauBe
15-02-2010, 12:27
Cảm ơn bạn Chaube nhiều nhé. Bài viết của bạn công phu và chất lượng hơn cả wikipedia.org nữa.
Năm mới chúc bạn Chaube sức khỏe dồi dào để có thêm nhiều bài tương tự như vậy cho mọi người nhé

Dạ cảm ơn bác taydoc.Em cũng là nhờ Phật thánh để tâm xếp nếp mới được như thế đấy ạ. Nhân dịp năm mới Canh Dần em cũng chúc bác mạnh khỏe bình an và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.

ChauBe
20-02-2010, 09:31
Thanh Đồng Đặng Văn Thành bắc ghế hầu thánh Giá Chầu Bé Bắc Lệ khai đàn mở phủ và sang khăn cho tân đồng Phạm Ánh Thủy nghệ vu Thượng Đoạn Linh Từ
dVLCqDU6UUI

Chitto
20-02-2010, 11:16
Các clip của bạn Chaube đưa lên có lẽ vẫn chỉ là các canh đồng chưa lớn và đầy đủ tiêu chuẩn.

Những canh đồng tôi đã xem ở Phủ Giày, Bảo Hà, Thác Bờ xung quanh đều có 4 cơ cánh, và cơ cánh còn phải mặc đồ giống nhau, hoạt động nhịp nhàng thứ tự rất chuyên nghiệp, không quay chụp lung tung (cái này đã có người bên ngoài làm rồi). Thanh đồng thì nghiêm chỉnh lạnh lùng, không làm các động tác thừa và nói riêng bên ngoài nhiều (trước khi phủ diện).

Trong hầu đồng cũng có đẳng cấp hơn kém, cao thấp... tuỳ vào nhiều yếu tố, trong đó có lẽ quan trọng là yếu tố có nhiều hay ít tiền để sắm trang phục, mời cung văn, cơ cánh...

ChauBe
20-02-2010, 13:01
Các clip của bạn Chaube đưa lên có lẽ vẫn chỉ là các canh đồng chưa lớn và đầy đủ tiêu chuẩn.

Những canh đồng tôi đã xem ở Phủ Giày, Bảo Hà, Thác Bờ xung quanh đều có 4 cơ cánh, và cơ cánh còn phải mặc đồ giống nhau, hoạt động nhịp nhàng thứ tự rất chuyên nghiệp, không quay chụp lung tung (cái này đã có người bên ngoài làm rồi). Thanh đồng thì nghiêm chỉnh lạnh lùng, không làm các động tác thừa và nói riêng bên ngoài nhiều (trước khi phủ diện).

Trong hầu đồng cũng có đẳng cấp hơn kém, cao thấp... tuỳ vào nhiều yếu tố, trong đó có lẽ quan trọng là yếu tố có nhiều hay ít tiền để sắm trang phục, mời cung văn, cơ cánh...

Cảm ơn bác chitto đã có những nhận xét chân thành và xác thực như vậy. Đây không phải em hầu nên có những khiếm khuyết nhưng em không sửa được

@chitto: em phải công nhận những video hầu bóng của em up lên còn nhiều khiếm khuyết. Bác dạy thế chí phải. Nhưng em quan niệm thế này:
-Không phải cứ nhiều tiền mua sắm lễ lạt vàng mã mâm cao cỗ đầy thì Mẫu mới thương cái chính là mình phải thành tâm.

"Nhất Thiết Duy Tâm Tạo"
-Bây giờ nhiều thanh đồng mê tín quá mức (cuồng tín) thường nói với con nhang đệ tử những điều trái với tinh thần tín ngưỡng thờ Mẫu để chuộc lợi.Đó mới là những điều trái tai gai mắt nhức nhối trong hoạt động tín ngưỡng.Còn những thanh đồng còn đang trong tình trạng "đồng nghèo lính khó" chưa đủ tiềm lực kinh tế thì phải chịu hầu đơn giản gọn nhẹ chứ không thể với tới sự xa hoa phô trương được.
Trên đây là 1 vài suy nghĩ chủ quan của em, có gì chưa phải mong bác chít và mọi người chỉ dạy

Chitto
20-02-2010, 22:12
..cái chính là mình phải thành tâm.
...
Còn những thanh đồng còn đang trong tình trạng "đồng nghèo lính khó" chưa đủ tiềm lực kinh tế thì phải chịu hầu đơn giản gọn nhẹ chứ không thể với tới sự xa hoa phô trương được.

Không cần thiết phải xa hoa phô trương, nhưng có những điều rất đơn giản, nhưng chính Thanh đồng dễ dãi bỏ qua, thì rồi càng về sau càng tệ.

Ví dụ: xem clip cuối cùng bạn vừa post:

- Cơ cánh không nên ăn mặc quá tệ như thế: dù "lính khó" thì cũng không nên mặc áo cộc tay, áo phông, trông tự nhiên đã thấy thiếu hẳn sự tôn trọng, lễ nghi tối thiểu. Tốn hàng (chục) triệu sắm y, phục sức, mà không thể có hai tấm áo tràng cho cơ cánh, thì ít ra cũng nên bảo mặc cái áo dài tay cho tử tế.

- Thanh đồng đã bỏ khăn phủ diện rồi, tức là người nhà Thánh rồi, thế mà lại cứ thò tay sửa áo sửa quần, nói nhỏ với cơ cánh, thầm thì rất là chán. Việc đó là do cơ cánh, người hầu thánh làm, đã là giá của Thánh mà còn có những cử chỉ phàm tục thế thì có vẻ cái "thành tâm" cũng yếu quá.

Tôi cũng từng xem một canh đồng do một bà đồng già tóc bạc lên ở một đền nhỏ, xung quanh toàn người rất bình thường, nhưng rất vui, và thành kính, cử chỉ đoan chính, trang nghiêm, giá nào ra giá đó. (Nói thêm là lần đó tôi được phát lộc là một cái bánh chưng nhỏ, so với lần được mấy chục nghìn và hoa quả ở phủ Giày thì lại thấy thích hơn nhiều - dù cả hai lần đều chỉ là khách vãng lai đi qua).

Tôi không chê những canh đồng ít tiền, mà chê là cái cách Thanh đồng và cơ cánh thể hiện sự thành tâm của mình nhiều lúc thật là hời hợt giả tạo. Có nhiều người nghĩ rằng khoác tấm áo gấm lên người, tung khăn phủ diện là làm người nhà Thánh được rồi, thì chỉ càng làm cho tín ngưỡng hầu Thánh bị phàm tục đi. Đấy là không muốn nói đến chuyện ra khỏi cửa nhà Thánh là chửi tục văng bậy, hành xử tệ hại chợ búa.

ChauBe
22-02-2010, 11:32
@chitto:cảm ơn bác đã góp ý cho những video e up lên

tuanmr
05-03-2010, 16:21
Hay các bác ạ. Em thấy bài viết thật sâu sắc, rất nhiều thông tin đặc sắc và cần thiết. Em học cơ sở văn hóa việt nam rồi mà thấy các bác viết còn kỹ càng hơn nhiều.

minhnguyet22
17-03-2010, 04:29
Rất hay bác ạ, đầy đủ về đạo Mẫu, không biết còn nguồn trên web nào nữa không nhỉ, tìm trên mạng không thấy có

ChauBe
17-03-2010, 14:29
bạn có thể tìm hiểu thêm tại web: daomau.com hay http://ttvnol.com/forum/nhacdantoc/1031311.ttvn . Thân !

TriMinh
01-12-2010, 12:57
Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian(1)

(1)Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).

Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

Cụ Bùi Bằng Đoàn(() Cụ Bùi Bằng Đoàn (1886 – 1953) là người xã Liên Bạt, huyện Sơn Lăng tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Cụ đỗ Cử nhân năm Thành Thái thứ 18 (1906), làm Thượng thư Bộ Hình. Sau Cách mạng tháng tám 1945, cụ được làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bài thơ này cụ viết vào tháng 2/1907.) khi viết về công lao đánh giặc của ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương thờ tại Đền Lảnh Giang trong tập sách “Giang Sơn cổ tích đề vịnh”, có bài thơ như sau:

“Hùng gia quý thế tam huynh đệ

Phạm tộc giang hương phả tượng truyền

Phá tặc an dân nhân dĩ viễn

Anh thanh thiên cổ nguyệt cao huyền”.

Dịch là:

Anh em ba vị cuối triều Hùng

Họ Phạm quê nhà xóm bãi sông

Đánh giặc cứu dân người đã khuất

Còn nêu sự nghiệp sáng trăng trong.

Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc... Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.

Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia

Có thuyết nói, Quan lớn đệ tam thủy chiến trên sông Lảnh Giang thì hóa quân giặc phạt thủ cấp của ngày bay sang bên Xích Đằng nên Xính Đằng thờ Đầu, còn An Lạc thờ Thân là làm sao. bạn chầu bé giúp mình chỗ nghi này với.