PDA

View Full Version : [Chia sẻ] Thông tin về thành lũy cổ ở Việt Nam



tungvk1781
09-06-2011, 11:16
Chào các bạn.
Mình mới tham gia diễn đàn, thấy mọi người có những chuyến đi thật tuyệt. Hôm nay mình sẽ gửi các bạn những thông tin về chủ đề " Thành lũy cổ Việt Nam " (Thông tin sử dụng nguồn từ internet). Các bạn đã đi hoặc có thêm thông tin, hình ảnh hãy cùng đóng góp nhé. Chúc các bạn thượng lộ bình an.

Theo từ điển tiếng Việt thì THÀNH là tường cao xây quanh nơi cần được bảo vệ. Còn LŨY là công trình bảo vệ một vị trí.

Thành lũy ở Việt Nam có thể chia ra làm 3 loại :
1- Thành lũy Champa
2- Thành lũy Việt Nam trước thời Nguyễn
3- Thành lũy Việt Nam thời Nguyễn
Thành Cổ Loa là tòa thành cổ nhất ở Việt Nam, nó được xây dựng từ thế kỷ III TCN.

Sau đây là danh sách các thành lũy cổ ở Việt Nam:
1- Thành lũy Champa
1-1 : Óc eo - Thế kỷ I - An Giang
1-2 : Thành Ninh Viễn - ??? - Quảng Bình
1-3 : Khu Túc - Năm 380 - Quảng Bình
1-4 : Kandapurpura - Thế kỷ IV - Huế
1-5 : Simhapura - Thế kỷ IV~V - Quảng Nam
1-6 : Thành Phước Thuận - Thế kỷ III - Bà Rịa Vũng Tàu
1-7 : Virapura - Năm 757 - Nha Trang
1-8 : Indrapura - Năm 875 - Quảng Nam
1-9 : Cổ Lũy - Thế kỷ IX~X - Quảng Ngãi
1-10: Thành Châu Sa - Thế kỷ IX~X - Quảng Ngãi
1-11: Vijaya - Năm 1005 - Bình Định
1-12: Thành Cổ Lũy - Thế kỷ XIII~XVI - Quảng Trị
1-13: Sri Banoy - Thế kỷ XIII - Bình Định
1-14: Thành Thuận Châu - ??? - Huế
1-15: Thành Hồ - ??? - Phú Yên

2 - Thành lũy Việt Nam trước thời Nguyễn
2-1 : Thành Cổ Loa - Thế kỷ III TCN - Hà Nôi
2-2 : Thành Đại La - Năm 757 - Hà Nội
2-3 : Thành Sông Lũy - Thế kỷ IX - Bình Thuận
2-4 : Thành Thăng Long - Thế kỷ XI - Hà Nội
2-5 : Thành Hóa Châu - Năm 1362 - Huế
2-6 : Thành Nhà Hồ - Năm 1397 - Thanh Hóa
2-7 : Thành Phao Sơn - Thế kỷ XIII - Hải Dương
2-8 : Thành Xương Giang- Năm 1407 - Bắc Giang
2-9 : Thành Nhà Mạc - Năm 1592 - Tuyên Quang
2-10: Thành Nà Lữ - Năm 1594 - Cao Bằng
2-11: Thành Nhà Mạc - Thế kỷ XV - Hải Phòng
2-12: Thành Nhà Mạc - Thế kỷ XVI - Lạng Sơn
2-13: Thành Nhà Bầu - Thế kỷ XVI - Tuyên Quang
2-14: Thành Nhà Bầu 1 - Thế kỷ XVI - Yên Bái
2-15: Thành Nhà Bầu 2 - Thế kỷ XVI - Yên Bái
2-16: Thành Nghị Lang - Năm 1527 - Lào Cai
2-17: Lũy Thầy - Năm 1630 - Quảng Bình
2-18: Thành Bản Phủ - Năm 1758 - Điện Biên
2-19: Thành Hoàng Đế - Năm 1774 - Bình Định
2-20: Thành Lương Sơn - ??? - Hòa Bình
2-21: Thành Đoàn Thành- ??? - Lạng Sơn
2-22: Thành Núi Thành - ??? - Hà Tĩnh

3 - Thành lũy Việt Nam thời Nguyễn
3-1 : Thành Phú Xuân - Năm 1738 - Huế
3-2 : Thành Bát Quái - Năm 1790 - Tp. Hồ Chí Minh
3-3 : Thành Diên Khánh - Năm 1793 - Khánh Hòa
3-4 : Thành Cao Bằng - Thế kỷ XIX - Cao Bằng
3-5 : Thành Hà Nội - Năm 1802 - Hà Nội
3-6 : Thành Vinh - Năm 1803 - Nghệ An
3-7 : Hạc Thành - Năm 1804 - Thanh Hóa
3-8 : Thành Nam - Năm 1804 - Nam Định
3-9 : Thành Đông - Năm 1804 - Hải Dương
3-10: Thành Bắc Ninh - Năm 1805 - Bắc Ninh
3-11: Thành Núi Bút - Năm 1807 - Quảng Ngãi
3-12: Thành Đồng Hới - Năm 1812 - Quảng Bình
3-13: Thành Vĩnh Long - Năm 1813 - Vĩnh Long
3-14: Thành Điện Hải - Năm 1813 - Đà Nẵng
3-15: Thành Bình Định - Năm 1814 - Bình Định
3-16: Thành Biên Hòa - Năm 1816 - Đồng Nai
3-17: Trường Lũy - Năm 1819 - Quảng Ngãi
3-18: Thành Sơn Tây - Năm 1822 - Hà Nội
3-19: Thành Quảng Yên - Năm 1826 - Quảng Ninh
3-20: Thành Quảng Trị - Năm 1827 - Quảng Trị
3-21: Thành Vĩnh Tường- Năm 1830 - Vĩnh Phúc
3-22: Thành Gia Định - Năm 1830 - Tp. Hồ Chí Minh
3-23: Thành Hưng Yên - Năm 1834 - Hưng Yên
3-24: Thành An Thổ - Năm 1836 - Phú Yên
3-25: Tân Thành Mỹ Quý- Năm 1860 - Tiền Giang
3-26: Thành Tân Sở - Năm 1883 - Quảng Trị
3-27: Thành Tây Ninh - Năm 1889 - Tây Ninh
3-28: Thành Đồng Hới - ??? - Quảng Bình
3-29: Thành Vĩnh Điện - ??? - Quảng Nam
3-30: Thành Mỹ Tho - ??? - Tiền Giang
3-31: Thành Kỳ Anh - ??? - Hà Tĩnh
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/vietnam.jpg

nuamua
09-06-2011, 11:48
Em thấy còn thiếu thành Hoàng Đế - Bình Định, 1776 - 1814
và Lũy Bán Bich - TP.HCM, 1772 - 1915(?)

tungvk1781
09-06-2011, 14:12
1-1 Óc Eo

Ở vùng Thoại Sơn – An Giang có một di tích rất nổi tiếng được nhiều người trong và ngoài nước biết đến là khu di tích văn hóa Óc Eo – dấu vết của vương quốc Phù Nam xưa, vốn là một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á cách nay khoảng 2000 năm.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1.jpg

Đến với Óc Eo (An Giang) du khách sẽ có cơ hội tham quan, khám phá một địa điểm du lịch lịch sử của một nền văn minh cổ, khác hẳn với những thắng cảnh thiên nhiên đẹp khác của An Giang như núi Sam, núi Cấm… nhưng cũng không kém phần đặc sắc và thú vị khi khám phá ra một nền văn minh đã vắng bóng từ lâu.

Di chỉ khảo cổ học cũng là nền văn hóa khảo cổ học, có trung tâm là khu vực núi Ba Thê, thuộc địa bàn thị trấn Óc Eo và các xã Vọng Thê, Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Di chỉ được phát hiện và công bố năm 1944 bởi một học giả người Pháp tên là Louis Malleret. Đây là nền văn hóa hình thành và phát triển trong vùng đồng bằng Nam Bộ khoảng từ thế kỷ I đến thế kỷ VI sau Công nguyên. Nền văn hóa này đã và đang ẩn chứa những thông tin quý giá về những sáng tạo kỳ diệu của cư dân bản địa thời kỳ Vương quốc Phù Nam.

Hiện tại Óc Eo nằm sâu trong đất liền hơn 20 km nhưng theo các nhà địa chất, vào khoảng đầu Công nguyên, Óc Eo là một cửa biển thông qua vịnh Thái Lan. Khu vực này nằm trên trục đường thương mại hàng hải giữa một bên là bán đảo Mã Lai và Ấn Độ, một bên là sông Mê Kông và Trung Quốc, do đó Óc Eo trở thành một địa điểm trung chuyển rất thuận lợi. Đến thế kỷ VI - VII, các thương thuyền có thể di chuyển ngoài khơi xa với khoảng cách lớn hơn mà không phải dừng lại khắp nơi hay đi dọc theo bờ biển. Óc Eo mất dần vị thế hấp dẫn, sức thu hút giảm dần vì hàng hóa không phu phú lắm. Sự trỗi dậy của Chân Lạp và thương mại vùng Mê Kông góp phần đẩy Óc Eo bước vào thời kỳ suy sụp.

Quá trình khảo sát

Vào thập niên 1920, nhà khảo cổ học người Pháp tên là Louis Malleret đã dùng không ảnh chụp miền Nam Việt Nam và phát hiện ra khu vực quanh chân núi Ba Thê có nhiều khả năng ẩn chứa các di chỉ của một nền văn hóa cổ. Trước đó, năm 1913, người dân địa phương đã phát hiện tại đây một tượng Phật bốn tay có nguồn gốc từ Ấn Độ.

Ngày 10-02-1944, nhóm chuyên gia khảo cổ do Louis Malleret chủ trì đã tiến hành khai quật khu vực Giồng Cát, Giồng Xoài chạy dài qua 2 huyện Thoại Sơn (An Giang) và Hòn Đất (Kiên Giang), trung tâm là xung quanh chân núi Ba Thê. Họ đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ cùng với nhiều hiện vật như: hạt cườm, mảnh vàng, đồ trang sức được chế tác tinh xảo....Khu vật tìm thấy hiện vật có diện tích khoảng 450 ha. Malleret nhận định đây có lẽ là một trung tâm thương mại lớn của Vương quốc Phù Nam, từng được miêu tả qua các thư tịch cổ Trung Hoa, ông đặt tên cho khu di chỉ là Óc Eo.

Óc Eo đã từng được nối bằng một kênh đào dài 90 km về phía Bắc với Angkor Borei, nơi có lẽ là thủ đô của Vương quốc Phù Nam. Từ kênh đào này, có các kênh đào nhánh tách ra xung quanh tạo thành các hình chữ nhật đều đặn. Bên trong các khu vực hình chữ nhật này còn sót lại những dấu tích của các khu sản xuất đồ nữ trang, thủ công mỹ nghệ, các móng nhà bằng gỗ và bằng gạch....Các viên gạch được trang trí bằng các hình sư tử, rắn mang bành, động vật một sừng và các động vật khác.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/Oceo.jpg

Cuộc khai quật đầu tiên của Malleret đã tiến hành với 24 điểm. Cho tới nay, trên sườn núi Ba Thê và cánh đồng Óc Eo đã có trên 50 địa điểm có giá trị khảo cổ học đã được ghi nhận và nghiên cứu. Tính đến năm 1975, bộ sưu tập về văn hóa Óc Eo - Ba Thê đã có 3.969 hiện vật. Trong đó bao gồm: 498 đồ vàng, 137 đồ bạc, 4 chì, 83 thiếc, 149 đồ đồng, 2.749 đồ đá màu (trong đó có 2.522 chuỗi hạt, 79 đồ đá khác, 285 đất nung, 7 đồ gỗ và một số hiện vật không xác định rõ). Theo Louis Malleret, thành thị Óc Eo được thiết kế theo hình chữ nhật có chiều rộng khoảng 1.500 m, chiều dài 3.000 m.

Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành nhiều đợt khảo sát, khai quật tại hầu khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ và miền Đông Nam Bộ. Họ đã tìm thêm nhiều di chỉ thuộc nền văn hóa Óc Eo ở các vùng Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, ven biển Tây Nam, vùng rừng sác Duyên Hải, vùng ven biển Đông, vùng Đông Nam Bộ. Năm 1983, phát hiện thêm di cốt động vật như: lợn, trâu bò, hươu, voi, rùa, chuột, cá các loại. Dấu tích hoạt động của các ngành nghề thủ công như nghề gốm, nghề kim hoàn… quan hệ thương mại, sự thịnh hành của tôn giáo… còn lưu lại qua các vật liệu kiến trúc, đồ trang sức, tượng thờ, và phế tích các ngôi đền, mộ đá hỏa táng tại các di chỉ này.

Trong những năm qua, Bảo tàng An Giang đã phối hợp cùng Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khảo cổ Hà Nội tiến hành khảo sát và khai quật một số loại hình tại khu vực núi Ba Thê và một số nơi khác trong tỉnh. Liên tiếp trong 3 năm, từ 1998 đến 2000, các nhà khảo cổ khai quật 2 di chỉ ở núi Ba Thê là khu kiến trúc, mộ táng nằm phía Nam chùa Linh Sơn và khu Gò Cây Thị nằm dưới đồng bằng. Kết quả cho thấy, đây là một dạng kiến trúc cung đình mang tính cách tôn giáo, được xây dựng rất xưa và tồn tại đến thế kỷ thứ IX. Đặc biệt, qua đợt khai quật cũng phát hiện mộ chum cải táng bằng gốm thô đường kính 0,67 m, cao 0,4 m, trong chum có vài mảnh nhỏ chất hữu cơ, 5 hạt chuỗi bằng vàng và một mảnh chuỗi vỡ. Tỉnh An Giang đã xây dựng mái che cho 2 di tích này, với tổng kinh phí hơn 1 tỷ đồng, nhằm phục vụ khách tham quan và công tác nghiên cứu khoa học. Đồng thời, tỉnh cũng đã cho xây dựng nhà trưng bày cổ vật Óc Eo trên núi Ba Thê. Từ năm 2004 đến nay, các nhà khảo cổ tiến hành khai quật trên diện tích trên 400 m2, thu được gần 50.000 hiện vật đa dạng về chủng loại và phong phú về loại hình. Xét về chất liệu, số hiện vật này gồm đồ gốm, đá, kim loại và xương.

Các di chỉ tiêu biểu thuộc văn hóa Óc Eo

- Bình Tả
- Giồng Am
- Giồng Cá Vồ
- Gò Ba Động
- Gò Bảy Liếp
- Gò Bắc Bung
- Gò Bói
- Gò Chòi Tiên
- Gò Chùa
- Gò Công Éc
- Gò Hàng
- Gò Ô Chùa
- Gò Thành
- Gò Tháp
- Gò Xoài

tungvk1781
09-06-2011, 14:16
Kết quả nghiên cứu

Kết quả khai quật đã đem về cho các bảo tàng ở Nam Bộ hàng vạn hiện vật có giá trị lịch sử và văn hóa, đa dạng về chất liệu cũng như nguồn gốc. Những hiện vật này cho thấy trình độ kỹ thuật khéo léo cũng như độ tinh xảo trong nhiều nghề thủ công của cư dân Óc Eo. Văn hóa Óc Eo đã hình thành và phát triển trên một cơ tầng văn hóa bản địa vững chắc. Các nhà khảo cổ học đã bước đầu lần tìm và chứng minh sự phát triển trực tiếp của văn hóa Tiền Óc Eo tới Óc Eo. Những kết quả nghiên cứu này đã bác bỏ ý kiến của các học giả nước ngoài cho rằng văn hóa Óc Eo hình thành từ các vùng đất thực dân của người Ấn Độ.

Hiện vật Óc Eo được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua các hiện vật này, du khách có thể thấy được đời sống vật chất, đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân Vương quốc Phù Nam. Đồ gốm trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo rất phong phú về loại hình. Điểm nổi bật là có cổ và miệng hẹp, những chiếc ấm có vòi với nhiều loại nắp mang phong cách riêng, hoa văn khắc vạch được vẽ bằng loại bút nhiều răng. Cư dân Óc Eo đặc biệt ưa thích đồ trang sức bằng vàng và đá quý. Bộ sưu tập tiền với nhiều loại chất liệu: bạc, đồng, kẽm, có những đồng tiền được cắt tư, cắt tám để làm tiền lẻ khá phổ biến ở nhiều di tích ven vịnh Thái Lan, bán đảo Mã Lai và Myanmar. Điều này cho thấy cả một dòng thương nghiệp nối liền Óc Eo với Ấn Độ Dương bằng đường biển thông qua vịnh Thái Lan và có thể có cả đường bộ theo đường nội địa.

Những nhận định của các nhà nghiên cứu

Có nhiều nhận định khác nhau về vai trò của thành thị Óc Eo trong vương quốc cổ:

- Nhà khảo cổ học người Pháp - Louis Malleret cho rằng Óc Eo “Là một đô thị rộng lớn, một thị cảng phồn vinh, một trung tâm kinh tế sống động với mối quan hệ giao thương Âu - Á khá rộng rãi. Đồng thời, đô thị Óc Eo xưa cũng là một di tích tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ hình thành vào loại sớm nhất ở Đông Nam Á”

- Nhà nghiên cứu Lê Xuân Diệm khẳng định: “Vùng di tích quanh núi Ba Thê với phạm vi rộng lớn tập trung nhiều di tích thờ cúng, lăng mộ, thật sự là một trung tâm lớn, đã quy tụ nhiều tinh hoa kỹ thuật - nghệ thuật các mặt của nền văn hóa này. Từ vị trí được xác định như vậy, chắc hẳn vùng này cũng là một trung tâm quyền lực"

Dù hiện nay các học giả trong nước và quốc tế còn đang cố gắng để xây dựng hệ tiêu chí chuẩn nhằm phân lập và định diện những đặc tính tiêu biểu cùng vòng ảnh hưởng của văn hoá Óc Eo, nhưng đại đa số các nhà nghiên cứu đều coi Óc Eo là nền tảng đồng thời là sự phát triển sớm nhất, tiêu biểu của văn hóa Phù Nam và vương quốc Phù Nam.

Sức sống Việt trong văn hóa Óc Eo

Cư dân Óc Eo cổ cư trú trên nhà sàn ven hệ thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo. Hình thức này được duy trì và phát triển trở thành một “truyền thống” thể hiện qua hệ thống di tích kiến trúc và những di vật khảo cổ có niên đại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ 10 -12 .

Óc Eo đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7. Nơi đây minh chứng khả năng thích ứng cao của người dân đồng bằng sông Cửu Long cổ với điều kiện tự nhiên.

Cụm di tích này được phát hiện từ những năm 90 của thế kỷ 20 do nhà khảo cổ học người Pháp L.Malleret khi ông dùng không ảnh chụp miền Nam Việt Nam và phát hiện ra địa điểm này cùng với nhiều kênh đào và các thành phố cổ khác. Ông cũng nhận thấy một kênh đào đã cắt tường thành của khu vực này rất rộng. Malleret nảy ra ý định tìm hiểu các cấu trúc khu vực này. Ngày 10/2/1944, ông bắt đầu đào các hố khai quật và phát hiện được di vật cùng nền móng các công trình chứng minh cho sự tồn tại của một địa điểm thương mại lớn mà trong nhiều thư tịch của Trung Hoa cổ đã miêu tả về vương quốc Phù Nam.

Núi Ba Thê, một địa điểm nằm trong quần thể di chỉ Ốc Eo. Theo L.Malleret, khu vực này rộng chừng 450 ha. Cuộc khai quật đầu tiên của ông đã tiến hành với 24 điểm. Cho tới nay, trên sườn núi Ba Thê và cánh đồng Óc Eo đã có trên 50 địa điểm có giá trị khảo cổ học đã được ghi nhận và nghiên cứu. Các đợt khảo sát, nghiên cứu khai quật tại Óc Eo từ sau ngày miền Nam giải phóng đến nay chủ yếu do Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học xã hội tại TP HCM phối hợp với Bảo tàng An Giang, Kiên Giang và Trường Viễn Đông Bác Cổ thực hiện.

Quần thể di tích phân bố trên sườn núi Ba Thê và cánh đồng Óc Eo. Cánh đồng Óc Eo, phẳng và thấp, trải rộng trên địa bàn hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Khu vực này có hình tứ giác, mỗi cạnh khoảng 15 km, với đường biên phía Bắc chạy từ núi Sập đến vùng núi Ba Thê, phía Tây từ núi Ba Thê (An Giang) đến khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang), phía Nam từ khu di tích Nền Chùa đến di tích Đá Nổi (Kiên Giang).
Núi Ba Thê là đỉnh cao nhất trong nhóm núi tạo thành từ hoa cương. Gò Óc Eo cách chân núi Ba Thê khoảng hơn 1km về phía Tây Nam. Dấu vết của con kênh cổ, gọi là Lung Lớn (đường nước trung tâm của thành thị Óc Eo), nối liền hai di chỉ Óc Eo và Nền Chùa vẫn còn đậm nét trên hiện trường.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/091229-oc-eo.jpg

Xưa kia, Óc Eo là một thương cảng nằm trên bờ Lung Lớn, có vòng thành bằng đất, hào nước xung quanh dạng chữ nhật, dài 3 km (hướng Đông Bắc - Tây Nam), rộng 1,5 km. Lung Lớn chạy xuyên qua trục dọc của thành phố theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, với tiền cảnh là Nền Chùa, cách 15 km về hướng Tây Nam, và đổ ra Vịnh Thái Lan.

Các di vật văn hóa Ốc Eo

Hiện, ở Nam Bộ còn lại các kiến trúc cổ đền tháp, di tích cư trú kiểu nhà sàn kéo dài dọc sông rạch và trên các giồng gò cao giữa đồng bằng (nhiều nơi đã thành phế tích)... Các cuộc khai quật đã tìm thấy dấu tích khoảng 30 “đường nước cổ” là các kênh đào ngang dọc ở vùng tứ giác Long Xuyên. Các kênh đào này được coi là thành quả nhân tạo đầu tiên về lịch trình mở mang kênh đào ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Hệ thống kênh đào này tiện lợi cho giao thông đường thủy vừa là hệ thống thủy lợi thoát nước trong mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây khảo cổ học đã phát hiện những cổ vật quý giá, nhiều di vật như tượng thờ ngay trong các di tích đền tháp, mộ táng, vật dụng phục vụ sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần tồn tại ngay trong địa tầng văn hóa (in-situ)... Đặc điểm nổi bật của cư dân văn hóa Óc Eo là lối cư trú trên nhà sàn ven hệ thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo, hoặc chọn các gò, giồng cao xây dựng những trung tâm sinh hoạt tinh thần, mở rộng khu vực xung quanh làm nơi cư trú, tiến đến mở rộng địa bàn canh tác. Cư dân cổ đã duy trì và phát triển cuộc sống này, trở thành một “truyền thống” thể hiện qua hệ thống di tích kiến trúc và những di vật khảo cổ có niên đại từ đầu Công nguyên đến thế kỷ 10 - 12.

Gần đây, trong ba đợt khai quật liên tiếp từ năm 2004 đến nay, trên diện tích trên 400m2, các nhà khảo cổ đã thu được gần 50.000 hiện vật đa dạng về chủng loại và phong phú về loại hình. Xét về chất liệu, số hiện vật này gồm đồ gốm, đá, kim loại và xương. Những hiện vật đó thuộc nền văn hóa Óc Eo. Qua khảo sát và nghiên cứu địa tầng, cổ vật cho thấy: Để có thể tồn tại và phát triển, cư dân Óc Eo - điển hình là tại tiểu vùng thượng châu thổ - đã tạo dựng một lối sống thích hợp với những điều kiện đặc thù, biết và dám chấp nhận khai thác những mùa nước nổi, nước lên theo chu kỳ hàng năm để mang lại nguồn lợi cho mình.

Đồng Tháp Mười (phần đất thuộc Đồng Tháp và Long An) có những địa danh nổi tiếng đều bắt nguồn từ tên gọi một khu di tích phân bố trong vùng trung tâm như: Gò Tháp thuộc thời kỳ văn hóa Óc Eo. Gò này cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 3,8m, diện tích chừng 4.500 m2. Từ những cuộc khảo sát của L.Malleret đã phát hiện trên gò có nhiều gạch và hàng chục khối đá lớn, yoni, cột... (như 3 cột lớn bằng đá hoa cương mặt cắt ngang hình vuông cạnh 0,48 m, dài 1,56 m, 1,10 m và 1,42 m, một đầu có chốt đầu kia có mộng để ghép nối theo chiều cao). Dấu tích rõ ràng nhất là kiến trúc gạch dài 17,30 m theo hướng Đông - Tây, rộng 12 m (Bắc - Nam), cạnh bẻ góc, đối xứng hai phần Bắc - Nam, cho thấy kiến trúc khá quy mô và có liên quan đến nhiều kiến trúc khác xung quanh. Di vật gồm những mảnh gốm bình ấm có vòi, một số mảnh vỡ của Yoni, tượng Visnu, khuôn đúc, đặc biệt có 2 tượng Visnu rất đẹp tuy không nguyên vẹn. Ngoài những phát hiện của các học giả Pháp, có những nghiên cứu mới từ sau năm 1975. Nhiều cổ vật của Văn hóa Óc Eo còn được phát hiện tại di chỉ cư trú Gò Minh Sư, đã được các nhà nghiên cứu tổ chức khai quật 3 lần. Dấu tích cư trú phân bố dưới chân gò và rộng khắp cánh đồng thấp xung quanh. Người ta tìm thấy trong di chỉ nhiều di vật đá, đồ đất nung gồm mảnh ngói, tượng khỉ, dấu ấn, mảnh phù điêu, vòi yoni... Đồ gốm khá phong phú. Tại đây có tới hơn 18.000 mảnh, gồm các loại bình, vò nồi, nhiều mảnh lớn có thể phục nguyên được, có lẽ đây là những hiện vật nguyên vẹn đã bị sụp vỡ. Nhóm hiện vật vàng ở Gò Tháp có đến 321 mảnh, chạm khắc hình tượng các vị thần, linh vật, hoa văn... Từ các cứ liệu C14, văn khắc và tiếu tượng học những mảnh vàng này đã cho biết niên đại của chúng không đồng nhất, thể hiện ảnh hưởng từ nền văn hóa Ấn Độ trong thời gian khá dài, từ TK 4 - 5 trước Công nguyên đến TK 5 sau CN.
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2.jpg

tungvk1781
09-06-2011, 14:19
Khu di tích Gò Tháp nổi tiếng với các pho tượng Phật bằng gỗ - di vật đặc trưng của nghệ thuật Phật giáo trong văn hóa Óc Eo. Tuy phần lớn tượng Phật gỗ được phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đìa, làm ruộng nhưng số lượng lớn, sự phong phú và đa dạng về kích thước và kiểu dáng vừa phản ánh sự tiếp thu các ảnh hưởng của nghệ thuật mới, vừa bộc lộ nét bàn địa chân chất, giản dị trong chất liệu tạc tượng là nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào tại chỗ. Chất liệu gỗ mù u làm nên các pho tượng này vừa bền vững đồng thời vẫn thỏa mãn được sự sáng tạo, tính đa dạng của nghệ nhân Óc Eo, tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo ở đây. Thế kỷ 6 - 7 là thời kỳ phát triển rực rỡ của điêu khắc Phật giáo bản địa mà sưu tập tượng Phật bằng gỗ ở vùng Đồng Tháp là một minh chứng.

Tại di tích Linh Sơn Nam (Ba Thê - An Giang) trong cuộc khai quật của trường Viễn Đông bác cổ và Trung tâm Khảo cổ học Viện Khoa học Xã hội TP HCM cũng xuất lộ vò chứa than tro nhưng đơn lẻ và có tính chất khác biệt về hình thức chôn cất cũng như niên đại so với di tích mộ táng ở Gò Minh Sư.

Hình thức cư trú theo mùa của cư dân xưa thể hiện khá trên các đồi gò thấp bên cạnh các lạch trũng nhỏ và quá trình bồi đắp để mở rộng diện tích sử dụng là một đặc điểm phổ biến của giai đoạn văn hóa Óc Eo ở đây. Bên cạnh các di vật Óc Eo điển hình, một số di vật ngoại nhập còn có những mảnh gốm có đặc điểm của thời tiền sử, cho thấy di tích này trong khu di tích Gò Tháp không chỉ là một trung tâm văn hóa Óc Eo phát triển, có mối quan hệ rộng rãi với thế giới bên ngoài mà còn có lịch sử phát triển lâu đời hơn những gì đã biết đến nay.

Ngoài di chỉ cư trú ở chân Gò Minh Sư, trong khu di tích Gò Tháp còn có một số di chỉ khác như Miếu Bà chúa Xứ, Đìa Phật, Đìa Vàng, khu mộ Đốc Binh Kiều, một vài gò nhỏ xung quanh... Trong các di chỉ này tìm thấy vết tích bếp lửa, mảnh gốm ám khói, than củi, phế thải bếp núc, xương trâu bò, vỏ dừa, hạt lúa, trái cây, gỗ có vết gia công, nhiều cọc gỗ nhà sàn, đặc biệt nhiều tượng Phật bằng gỗ và có dấu hiệu của một xưởng thủ công chuyên chế tác loại tượng này... Niên đại của những di chỉ cư trú này kéo dài từ thời kỳ Tiền sử muộn đến thời kỳ văn hóa Óc Eo. Cùng với những di chỉ cư trú khác trong vùng Đồng Tháp Mười thuộc tỉnh Long An, nhóm di chỉ cư trú ở khu di tích Gò Tháp đã mang lại nhiều tư liệu mới để tìm hiểu về chủ nhân văn hóa Óc Eo.

Các cuộc điều tra và khai quật còn ghi nhận dấu tích của nhiều con kênh đào cổ từ khu vực di tích này tỏa đi nhiều nơi trong Đồng Tháp Mười như: Gò Đế, Gò Hàng, Gò Bảy Liếp, Đìa Tháp, Gò Vĩnh Châu A. Gần đây, qua các đợt khai quật khảo cổ học, các nhà nghiên cứu còn phát hiện nhiều khu đất giồng có lưu trầm ẩn tích nhiều di chỉ, hiện vật thời văn hóa Óc Eo ở Giồng Nổi (Bến Tre) và một số nơi khác. Trên địa bàn Long An có tới 100 di tích văn hóa Óc Eo với 12.000 hiện vật, đặc biệt là quần thể di tích Bình Tả, gồm ba cụm di tích: Gò Xoài, Gò Đồn và Gò Năm Tước. Ở Tiền Giang, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật văn hóa Óc Eo ở Gò Thanh (huyện Chợ Gạo). Di tích này được Bộ VHTT công nhận Di tích quốc gia (Quyết định số 3211 QĐ/BT ngày 12-12-1994)...

Theo nhà nghiên cứu khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu, nhiều thế kỷ qua, dù có những thay đổi về kinh tế, xã hội từ thế kỷ 7 nhưng sau đó, cuộc sống của cư dân cổ ĐBSCL vẫn tiếp diễn trong sự thích ứng cao nhất với điều kiện tự nhiên và bằng sự duy trì truyền thống (vật chất, tinh thần) của văn hóa Óc Eo.

Đây là toàn bộ di tích nhìn từ trên cao:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/3.jpg

Số 1:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/4.jpg

Số 2:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/5.jpg

Số 3:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/6.jpg

Số 4 (Khu khảo cổ di tích Óc Eo):
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/7.jpg

Tổng thể gần hơn:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/8.jpg

Từ hình trên các bạn có thể thấy quy mô, hình thể bố trí của thành Óc Eo xưa. Trải qua hàng nghìn năm vẫn giữ lại được một số di tích có diện tích khá lớn.
Có thể hàng nghìn năm trước nó có hình dạng thế này chăng?
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/9.jpg
Mời các bạn cùng khám phá nhé.

tungvk1781
10-06-2011, 11:46
1-2 Thành Ninh Viễn

Mặc dù tồn tại qua rất nhiều tên gọi (thành Lồi, thành Chàm, thành Uẩn Áo, thành nhà Ngo/Ngò/Ngô, Ninh Viễn thành...) nhưng tên gọi phổ biến là thành Ninh Viễn.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/vitri.jpg

Các thư tịch cổ đều chép Ninh Viễn thành được xây dựng bên nhánh sông Ngô Giang ở cách huyện Lệ Thủy 10 dặm về phía Nam. Phủ Biên Tạp Lục nói đó là con sông nhỏ Quy Hậu, nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí có sự phân biệt khá rõ “sông Quy Hậu ở phía Tây Nam huyện Lệ Thủy, nguồn ra từ núi An Trạch chạy quanh co về phía Bắc chừng một dặm rồi đổ vào vực An Sinh”. Thực tế, sông (hói) Uẩn Áo, Quy Hậu hay Ngô Giang là một, nay chính là con hói Mai). Đây là khu thành mà các cuộc Nam chinh thời Lý, Trần, Lê thường hạ trại trú quân. “Thành Ninh Viễn một mặt dựa núi ba mặt cách sông hình thế hiểm trở thật là bức dậu của Hóa Châu”.

Tòa thành nằm trong phạm vi làng Uẩn Áo (xã Liên Thuỷ, Lệ Thủy), phía Tây - Bắc giáp làng Cổ Liểu, phía Nam giáp làng Trạm (Mỹ Trạch, Thuận Trạch), phía Đông là cánh đồng lúa, phía Tây - Nam là sông Ngô Giang. Tòa thành xây dựng trên vùng đất bằng, không bị phụ thuộc vào địa hình mà hoàn toàn có thể chủ động trong việc thiết kế quy mô, cấu trúc thành.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-2-1.jpg

Trong không gian lớn, ba mặt giáp sông: phía Tây Bắc là sông Kiến Giang (Bình Giang), phía Đông Nam là cả một vùng đồng trũng rộng lớn (trước là đầm nước, tục gọi là xứ Đầm), phía Đông Bắc là hói (sông) Chợ Mai, chi lưu của sông Kiến Giang chảy về Đông Nam, đổ vào Bàu Sen rồi ra biển, kích thước ở vị trí cầu bắc qua hói dẫn vào thành là 22m; lũy Tây Nam được dựng lên trong thế dựa vào núi (tục gọi là Xóm Rậy [xóm núi]). Ô Châu Cận Lục mô tả “một mặt dựa núi ba mặt cách sông” là vậy.

Trong một không gian hẹp, ngoài lũy thành hướng Tây Bắc và Đông Bắc, được bao bọc bởi con Hói Mai và sông Kiến Giang, dưới chân lũy thành Tây Nam và Đông Nam là những con mương nhỏ. Ở lũy Tây Nam (nay chỉ là dải đất) có một con mương nhỏ (rộng 6m), bị cắt ngang bởi đường liên thôn qua thành, gọi là hào Điền, nay là ruộng lúa. Mương ở lũy Đông Nam (rộng 5m), nối hào Điền với hói Mai, nay cũng là ruộng lúa. Ở góc Bắc thành, là nơi vị trí hồ trũng: Cồn Sói. Người dân cho biết hồ được tạo nên bởi sự xâm thực của sông Kiến Giang. Về sự xuất hiện các địa danh, được biết nó hoàn toàn mang tính dân gian, không lý giải rạch ròi được.

Thành có dạng cấu trúc hình chữ nhật không cân, theo trục Tây Nam - Đông Bắc. (Chiều ngang Đông Nam được mở rộng ra so với chiều ngang Tây Bắc do địa thế phía Đông). Kích thước đo được ở lũy thành hướng Đông Nam khoảng 370m (± 10m), và Đông Bắc (ở lũy thành Đông Bắc) là 480m (± 10m).(Có ý kiến cho rằng đây chính là thành cũ xưa nhất của Chiêm Thành, xây toàn bằng đá ong, thành có hình chữ nhật, ngang khoảng 300m, dọc khoảng trên 100m. Những người già trong làng Uẩn Áo cho biết xưa giữa thành có một tháp Champa, trước 1945 nền đất chân tháp còn khá cao, cùng với những khung nền xung quanh có thể là di tích các dinh thự).

- Mặt thành Tây Bắc không còn, nhưng không có nghĩa là thành chỉ có ba mặt như một số nhận định. Có lẽ, qua quá trình tồn tại, cùng với thời gian là sự xâm thực của sông Kiến Giang làm lũy bị xói lở, cho dù có sự gia cố ở những thời kỳ sử dụng tiếp theo (còn lại nhiều tảng đá lớn kè móng).

- Ngoài cửa thành phía Nam theo như mô tả của Đại Nam Nhất Thống Chí và một số tư liệu cổ: “phía cửa Nam thành có đá khắc chữ: Ninh Viễn Trấn thành”.

Có nhiều giả thuyết về chức năng và vai trò của Ninh Viễn thành trong quá trình bành trướng của đế chế nhà Hán và sự tranh chấp của vương quốc Lâm Ấp. Dù chưa có sử liệu để làm sáng tỏ vai trò chủ nhân của tòa thành trong từng giai đoạn lịch sử nhưng sự tồn tại của Ninh Viễn thành qua hàng nghìn năm đã cho thấy sự phát triển về tri thức quân sự và tài năng của con người Lệ Thủy xưa trong việc thiết kế và tổ chức xây dựng những công trình quân sự - dân dụng để làm nơi đồn trú và bảo vệ cho cuộc sống bình an của cộng đồng dân cư trên mảnh đất này.

Qua mô tả trên theo tôi có thể tạm thời có thể hình dung quy mô và vị trí như sau:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-2-2.jpg
Mọi người cùng đóng góp ý kiến nhé.

tungvk1781
10-06-2011, 17:00
1-3 Thành Khu Túc

Khu Túc là một thành cổ của vương quốc Lâm Ấp, là thành lớn thứ 2 sau kinh đô Kandapurpura trong thời kỳ Lâm Ấp trong lịch sử Chăm Pa

Dựa theo ghi chú của sách Thủy Kinh chú do Lịch Đạo Nguyên viết vào thế kỷ 5, các nhà khảo cổ người Pháp như R.A.Stein, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã xác định được vị trí của thành Khu Túc nằm ở khu vực ngày nay tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Phía bắc là sông Gianh, phía tây là sông Con, phía đông là đồng bằng.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-1.jpg

Theo ghi chép trong Thủy Kinh Chú, thành có chu vi 6 lý 170 bộ, chiều đông tây 650 bộ. Thành xây gạch cao 2 trượng, trên thành có tường gạch cao 1 trượng, có mở nhiều lỗ vuông. Trên tường gạch có dựng ván, trên ván lại dựng 5 tầng gác, trên gác có nóc, trên nóc dựng lầu, lầu cao 7,8 trượng, lầu thấp 5,6 trượng. Thành mở 13 cửa, phàm các điện đều quay về hướng nam. Nhà ở có hơn 2100 cái. Xung quanh thành có chợ. Địa thế hiểm trở cho nên binh khí của Lâm Ấp chứa hết ở đó,..

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-2.jpg

Theo sách Lâm Ấp ký viết vào cuối thế kỷ 5, Năm 248, Lâm Ấp tấn công ra phía bắc, đánh bại chính quyền cai trị Giao Châu của nhà Đông Ngô, chiếm được vùng đất từ sông Gianh vào tới dãy Bạch Mã. Sau khi mở mang lãnh thổ ra miền bắc, Lâm Ấp thường phải thường xuyên bảo vệ trước các cuộc tấn công giành lại lãnh thổ của các chính qưyền Giao Châu, thậm chí có lúc Lâm Ấp không còn kiểm soát được vùng này. Mãi tới năm 369, người Chăm mới thực sự kiểm soát được.

Theo sách Tấn thư, vào đời vua Thái Khang nhà Tấn (280-290) vua Lâm Ấp là Phạm Dật sang Trung Quốc cống tiến, Phạm Dật có người nô lệ là Phạm Văn đi theo, qua Trung Quốc học được kỹ thuật xây thành, sau cái chết của Phạm Văn, Phạm Dật cướp ngôi lên làm vua Lâm Ấp, đến thời cháu là Phạm Hồ Đạt (380-413) đã cho xây thành Khu Túc vừa thủ phủ vùng đất phía bắc vừa là nơi đồn trấn nhằm chống lại các cuộc tấn công từ Giao Châu

Thành Khu Túc được nhắc đến lần cuối cùng trong văn thư là trong cuốn Tùy thư, nói tới cuộc nam chinh của tướng Lưu Phương vào Lâm Ấp năm 605, trước sức mạnh của nhà Tùy, người Lâm Ấp bại trấn. Cùng với kinh đô, thành Khu Túc cũng bị hạ

Vào thế kỷ 11, sau cuộc nam chính của vua Đại Việt Lý Thánh Tông, Chiêm Thành đã phải cắt đất 3 châu phía bắc cầu hòa. Dựa theo các khảo cổ được phát hiện, sau khi tiếp tiếp quản vùng đất mới, quan quân người Việt đã dùng lại nền cũ của thành Khu Túc để xây dựng trị sở nhằm cai trị và bảo vệ vùng đất mới, tuy nhiên hiện nay người ngành khảo cổ và sử học chưa xác định được việc người Việt bỏ phế không sử dụng thành Khu Túc nữa vào thời gian nào.

Đây là một số hình ảnh tôi thử dựng lại, mời các bạn:
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-3.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-4.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-5.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-6.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-7.jpg

tungvk1781
10-06-2011, 18:21
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-8.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-9.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-10.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-3-11.jpg

tungvk1781
11-06-2011, 14:46
1-4 Kandapurpura

Kandapurpura (đô thị Phật) (các tên gọi khác của người Việt, người Trung Quốc là: Phật Thệ, Phật thành, Thành Lồi, Điển Xung) là một trong hai kinh đô của nước Lâm Ấp, kinh đô còn kế tiếp là Simhapura. Kandapurpura được xây dựng và sử dụng trong khoảng 1 thế kỷ từ đầu thế kỷ 4 đến cuối thế kỷ 4 (sau năm 380) trong thời kỳ phật giáo tiểu thừa (Thevada) và Ấn Độ giáo ảnh hưởng nhiều tới Lâm Ấp.

Theo các ghi chép trong Thủy Kinh chú và những khảo cổ phát hiện ra nhứng di tích còn sót lại, các nhà nghiên cứu kế tiếp nhau như L.Aurousseau, Đào Duy Anh, Ngô Văn Doanh...đã xác minh được vị trí của kinh đô Kandapurpura nằm ở vị trí mà ngày nay là xã Thủy Xuân, Huế, phía bắc và phía tây là sông Hương chảy vòng bao bọc, phía nam và phía đông là đồng bằng.

Thành được người Chăm xây dựng vào thời vua Phạm Dật với sự giúp đỡ của Phạm Văn học được kỹ thuật xây thành từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ 4, theo nghiên cứu sau khi chiếm được miền bắc mà khu vực ngày nay là từ đèo Ngang tới đèo Hải Vân của Giao Châu, lãnh thổ Lâm Ấp kéo ra đến dãy Hoành Sơn, vua Phạm Văn đã dời thủ phủ từ phía nam thuộc Tượng Lâm (Quảng Nam ngày nay) ra thành phố Huế

Sau các cuộc tấn công từ Giao Châu bởi Ôn Phóng Chi - thứ sử Giao Châu, Lâm Ấp đã phải dời đô về vùng Trà Kiệu với tên gọi kinh đô mới là Simhapura, tuy nhiên các triều đại Chăm Pa sau này vẫn sử dụng thành Kandapurpura như là một trong những trọng trấn ở miền Bắc

Vị trí-cảnh quan:

Thành Lồi hiện nay toạ lạc trên địa phận 2 xã Thuỷ Xuân, Thuỷ Biều và một phần của phường Đúc (thành phố Huế), cách trung tâm thành phố khoảng 7km về hướng tây. Toà thành này được xây dựng trên đồi Long Thọ, phía tả ngạn sông Hương. Về mặt hình thể, quả đồi này uốn cong hình móng ngựa mở ra hướng sông Hương. Con đường Huyền Trân Công Chúa được mở cắt ngang và chia toà thành ra làm hai nữa, tính trên phương vị tây-đông. So với nửa hướng đông, nữa hướng tây còn khá quy chỉnh.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-1.jpg

Chếch về hướng tây bắc của toà thành, bên kia sông Hương là chùa Thiên Mụ, xây dựng trên ngọn đồi Hà Khê. Long Thọ Cương-Hà Khê được các nhà địa lý học xem là toả khẩu thứ nhất của sông Hương-đoạn chảy qua thành phố Huế.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-2.jpg

Phía tây thành Lồi là khe Long Thọ chảy cặp theo luỹ thành hướng tây và đổ ra sông Hương. Bao bọc góc thành đông nam và luỹ thành hướng đông là khe Đá, cũng uốn khúc đổ ra sông Hương ở địa phận phường Phường Đúc. Nhìn trên tổng thể, đây là 2 khe nước chảy theo mùa, mùa mưa thì đầy ắp nước, mùa khô thì lại khô cạn chỉ còn lại những đoạn của dòng chảy nông, sâu khác nhau. Xa hơn về phía Tây là làng Nguyệt Biều. Ba mặt của vùng khu vực này được sông Hương bao bọc như là con hào tự nhiên, tạo nên địa thế thuận lợi về giao thông đường thuỷ và chiến lược phòng ngự.

Cấu trúc

Trên tổng thể, thành Lồi được xây dựng trên địa phận làng Dương Xuân Thượng (xã Thuỷ Xuân-thành phố Huế), có hình dạng gần vuông, các luỹ thành nằm đúng theo phương vị tây-nam-đông-bắc . Vùng đồi Dương Xuân Thượng có độ cao từ 30m-50m, thoải dần từ nam xuống bắc, sát với giới hạn xâm thực của sông Hương.

Từ kết quả khảo sát, căn cứ vào những diễn tiến của các luỹ đất cao và các dấu vết gạch vỡ có đặc điểm Chàm phân bố không định hình trong từng đoạn tường thành, chúng tôi đo được kích thước các luỹ thành như sau:

- Luỹ thành hướng tây dài 350m, nơi rộng nhất 12m, nơi hẹp nhất 8,5m, cao 3m-3,7m, bề mặt ken đầy dây dại và tre gai, phần lớn được dùng làm đất canh tác và trồng cây công nghiệp. Phía bên ngoài là khe Long Thọ rộng chừng 2,2m-2,5m, sâu 1,8m, chảy cặp sát chân luỹ thành, đổ ra sông Hương. Bên trong luỹ thành, gần góc thành tây-bắc có một hồ nước nhỏ mà nhân dân địa phương gọi là hồ Điện. Cách hồ Điện 5m về hướng Bắc là điện Voi Ré, từ hồ Điện có một khe nước nhỏ chảy cắt ngang luỹ thành đổ ra khe Long Thọ. Hướng đông của hồ Điện là khu Hổ Quyển.

- Luỹ thành hướng nam dài 550m, nơi rộng nhất 14m, nơi hẹp nhất 4,5m, cao trung bình 2,3m-2,5m. Luỹ thành này chia làm 2 nửa bởi đường Huyền Trân Công Chúa:

* Nửa hướng tây, dọc theo bên trong là khu mộ táng, xen lẫn một số khu vườn của dân địa phương. Đạo gần đường Huyền Trân Công Chúa bị cắt xẻ, san bạt làm sạt lở, biến dạng (đất được san bạt dùng để đắp bồi nấm mộ của các khu mộ táng). Bề mặt luỹ thành, cách góc thành hướng Tây-Nam chừng 150m là nơi đóng cột mốc bảo vệ di tích của Tổng cục Địa chính Việt Nam.

* Nửa thành hướng đông bị san bạt nghiêm trọng, Bên trong gần góc đông-nam là nhà máy vôi thuỷ Long Thọ, bên ngoài là nhà máy thuốc sát trùng. Trên mặt luỹ thành trồng nhiều cây công nghiệp, đoạn thành gần đường Huyền Trân Công Chúa bị san bạt, chỉ cao còn 0,8m-1m. Tường thành được đắp bằng đất, cách mặt thành 0,5m là lớp đá sa thạch xen lẫn gạch vỡ dày hơn 1m. Trong quá trình đào móng để xây dựng hai nhà máy này, một số hiện vật được phát hiện như vòng bạc, các mãnh gốm và đá vỡ có khắc chữ. Tuy nhiên, do tín ngưỡng của dân địa phương, các hiện vật này đều được chôn trở lại.

Bên ngoài luỹ thành còn dấu tích của một hào nước rất đẹp, rộng khoảng 5m nối từ khe Đá đến khe Long Thọ, chảy cặp sát chân luỹ thành (nơi hiện nay DNTN Hồng Lợi đã san bạt làm nhà xưởng).

Cách luỹ thành khoảng 50m về hướng bắc là miếu Quốc vương Chiêm Thành (miếu bà Chăm theo cách gọi dân gian) (195) -nằm trong khu mộ táng nhưng ngày nay đã được dời đi nơi khác, thay vào đó là một Đài Phật Địa Tạng cao gần 1,8m, xung quanh Phật Đài và rải rác trong khu mộ táng là những tảng đá lớn có dấu vết gia công, dài 50cm, rộng 40cm, cao 20cm. Có lẽ trước đây là đá kiến trúc dùng trong miếu Quốc vương Chiêm Thành.

- Luỹ thành hướng đông dài 370m, chạy uốn khúc theo dòng chảy của khe Đá, lấy khe Đá làm hào nước tự nhiên. Dọc theo luỹ thành này là khu dân cư, góc đông-nam là khu mộ táng lớn, trong khu vực này có nhiều miếu Âm Hồn. Từ góc thành đông-nam nhìn ra xa là khu ruộng trũng của nhân dân địa phương.

- Luỹ thành hướng bắc dài 750m, sát với giới hạn của sông Hương-khi nước cạn sông Hương cách luỹ thành 50m-100m, khi nước cường có thể tiến sát đến chân luỹ. Luỹ thành này nay đã bị san bạt hoàn toàn làm nhà ở, bên trong có một bàu nước nhỏ, nước dẫn từ hồ Điện qua một khu ruộng trũng nối với bàu và từ bàu nước này đổ ra sông Hương ở chổ gần Dòng tu Thánh Tâm/Nhà thờ Trường Đá.

Dựa vào một số đoạn tường thành bị cắt xẻ, san bạt làm nhà ở của nhân dân địa phương, trong điều kiện không thể cắt thành, cũng có thể nhận biết được cấu trúc luỹ thành: được đắp bởi hai lớp đất, ở giữa có kè đá và gạch vỡ.

Thành Lồi được đắp dựa và lợi dụng triệt để địa hình tự nhiên, vì thế lớp đất đắp thêm tạo nên tường thành chỉ cao độ 5m, bên trong có gia cố thêm gạch vỡ lẫn đá cuội lớn (rõ nhất là ở luỹ thành nam và tây). Lớp gạch được gia cố thêm này thường cách mặt luỹ thành từ 1,8m-2,0m, dày trung bình 30cm-50cm, có một số nơi lên đến 1m. So với các toà tành khác, kỹ thuật xử lý móng chống sụt lở như ở thành Lồi là điểm khác biệt.

Ngoài hệ thống bàu và hào nước trong và ngoài thành, bàu Nguyệt Bàu ở hướng Tây và bàu Vá ở hướng Đông được xem là nơi dự trữ nước, điều tiết cho hệ thống mương hào bao quanh thành.

Đây là hình tôi vẽ lại, các bạn cùng tham khảo nhé:

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-3.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-4.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-5.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-6.jpg

tungvk1781
11-06-2011, 16:31
https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-7.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-8.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-9.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-10.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-11.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-12.jpg

tungvk1781
13-06-2011, 14:11
1-5 Simhapura

Simhapura hay Sinhapura, (đô thị Sư tử) là kinh đô của Chăm Pa thời kỳ Lâm Ấp tại vị trí mà ngày nay là làng Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-5-1.jpg

Mặc dù Lâm Ấp được thành lập từ năm 192 sau công nguyên, nhưng không để lại bất cứ bia ký nào cũng như các sử sách Trung Quốc nói tới về kinh đô của người Chăm. Mãi tới thời vua Bhadravarman (Phạm Hồ Đạt) trị vì từ (380-413), sách Thủy kinh chú của Trung Quốc mới ghi chép về kinh thành của người Chăm. Dựa theo các ghi chép này và các khảo cổ khai quật, các nhà nghiên cứu cho rằng kinh đô của Lâm Ấp nằm một trong hai nơi là Thành phố Huế hoặc vùng Trà Kiệu, Quảng Nam. Tuy nhiên dựa theo miêu tả của Thủy kinh chú về cuộc tấn công của Đàn Hòa Chi - thứ sử Giao Châu vào kinh đô Lâm Ấp năm 446, các học giả nghiên về hướng đặt kinh đô thời kỳ Phạn Hồ Đạt ở Huế với tên gọi là Điển Xung.

Sau các cuộc tấn công từ Giao Châu bởi các thứ sử Ôn Phóng Chi, Giao Tuấn, kinh đô Kandapurpura bị phá hủy. Lâm Ấp chuyển đô vào khu vực Trà Kiệu lập kinh đô mới với tên gọi Simhapura vào khoảng cuối thế kỷ 4 đầu thế kỷ 5, cuộc tấn công kế tiếp từ Giao Châu bởi tướng Lưu Phương năm 605, Lưu Phương đã phá hủy kinh đô Simhapura, vua Sambhuvarman (Phạm Chí) bỏ thành chạy ra biển, nhà Tùy chia Lâm Ấp thành ba châu là Đảng Châu, Nông Châu, Xung Châu, cai quản Lâm Ấp và đặt trị sở tại Simhapura. Tuy nhiên 10 năm sau đó Phạm Chí đã giành lại được Lâm Ấp khi nhà Tùy suy yếu

Vương triều Lâm Ấp kết thúc sự tồn tại của mình vào khoảng năm 749 và sau đó là các cuộc tranh chấp dẫn tới trung tâm hành chính - tôn giáo của Chăm Pa chuyển vào miền Nam nới kinh đô mới là Virapura của vương triều Hoàn Vương. Mặc dù hơn 100 năm sau, trung tâm hành chính - tôn giáo lại dịch chuyển ra bắc gần Trà Kiệu nhưng các vua của vương triều Indrapura đã không đặt quốc đô tại vị trí kinh đô cũ Simhapura nữa mà đặt tại khu vực mà ngày nay là làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình cách vị trí kinh đô cũ về phía nam khoảng 60km.

Simharura nằm gần thánh địa Mỹ Sơn, mặc dù từ trước đó Mỹ Sơn đã được người Chăm sử dụng làm thánh địa, nhưng mãi tới khi kinh đô chuyển về nam gần đó thì họ mới đẩy mạnh việc xây dựng đền tháp thờ phụng các vị thần của Ấn Độ giáo.

Theo sách Tùy thư, Lưu Phương truyện nói về cuộc tấn công Simhapura năm 605: Phương sang sông đến Khu Túc, vượt qua sáu dặm, trước sau gặp giặc, mỗi lần đánh nhau đều bắt được giặc. Quân tiến đến sông Đại Duyên, quân giặc giữ chỗ hiểm, Phương lại đánh phá được. Qua cột đồng Mã Viện đi về phía nam 8 ngày, đến quốc đô Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp là Phạn Chí bỏ thành chạy ra bể, Phương thu được miếu chủ ngôi vàng, phá hư cung thất của Lâm Ấp, khắc đá ghi công rồi về..

Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ người Pháp đã tìm ra được các di chỉ và di tích tại khu vực Trà Kiệu, Mỹ Sơn sau 13 thế kỷ bỏ phế và từ đây giới khoa học đã dần làm sáng tỏ về kinh đô Simhapura - thánh địa Mỹ Sơn trong thời kỳ Lâm Ấp.

Dựa theo dấu tích còn lại, các nhà nghiên cứu phần nào hình dung ra hình dáng và quy mô đô thành Trà Kiệu xưa. Thành có hình gần chữ nhật, chạy dài từ đông sang tây với chu vi gần 4000 mét. Hiện nay, các tường thành phía phía bắc và phía tây đã bị dân san phẳng đế làm nhà cửa. Chỉ còn các tường thành phía đông và nam còn thấy khá rõ. Tuy vậy, với những gì hiện còn chưa thể nói gì về cấu trúc của thành Trà Kiệu xưa.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-5-2.jpg

Những năm gần đây các nhà khảo cổ việt nam đã liên tục đào, điều tra và đã phát hiện thêm nhiều hiện vật quý ở vùng Trà Kiệu. Năm 1990, các nhà khảo cổ ở trường đại học tổng hợp đã khai quật ở chân núi Bửu Châu (phía bắc nội thành Trà Kiệu) và đào cắt ngang qua tường thành phía nam, cách góc đông nam của toà thành chừng 200 mét. Tại điểm cắt thành, các nhà khảo cổ thấy thành cao hơn mặt ruộng 3,10 mét, chân thành rộng tới 33 mét, thành đựợc đắp bằng đá ở giữa và xây ốp gạch ở hai bên. Phần ốp gạch ở hai bên có chân móng nằm sâu khoảng 0,5 mét so với mặt ruộng, dưới chân móng được gia cố bằng một lớp đá. Toàn bộ chân móng thành rộng 6 mét, trong đó chân móng phần ốp gạch phía trong rộng 1,4 mét. Tường gạch phía ngoài còn cao 2,86 mét và càng lên cao càng rộng (ở độ cao 2,44mét, tường dày 1,9 mét). Ngoài dấu vết của thành, các nhà khảo cổ còn tìm thấy ngói, gạch, mảnh gốm…

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/GajasimhaThapMam.jpg
Sư tử voi

Qua những hiện vật đã tìm thấy như hàng loạt các tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp (thuộc phong cách Trà Kiệu), các bia ký và rất nhiều gốm cổ, có thể thấy kinh đô simhapura xưa của Champa là một đô thành lớn mở ra biển qua chiêm cảng.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/Picture1.jpg

Simhapura do linh mục Antôn Trường Thăng tưởng tượng năm 1985

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/simhapura-thang-pict-1.jpg

Bàn chân nghìn năm trước trên viên gạch ở simhapura

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/img_8250.jpg

tungvk1781
13-06-2011, 14:48
1-6 Thành Phước Thuận

Trung tâm Khảo cổ (Viện Khoa học xã hội vùng Đông Nam bộ) và Bảo tàng tổng hợp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vừa phát hiện một di chỉ khảo cổ học - dấu tích của thành cổ Chămpa trên địa bàn thôn Gò Cát, xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-6-1.jpg

Thành lũy của thành cổ dài 400m, rộng 300m được xây bằng nhiều loại đá ong khác nhau. Nguồn tin ban đầu, lũy thành thành cổ bị chôn vùi dưới lòng đất từ 1-1,5m. Thám sát ở quy mô nhỏ, các nhà khảo cổ đã thu được nhiều mảnh gốm vỡ và một số công cụ Chămpa có niên đại cách nay khoảng 1.400 - 1.600 năm.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-6-2.jpg

Hiện Viện Khoa học xã hội vùng Đông Nam bộ và Bảo tàng tổng hợp tỉnh BR-VT đang xin phép các cơ quan chức năng thám sát trên diện rộng di chỉ này để có thể khai quật vào giữa năm 2008.

tungvk1781
13-06-2011, 15:34
1-7 Thành Virapura

Virapura (đô thị hùng tráng) là tên gọi kinh đô của Chăm Pa dưới thời Hoàn Vương từ năm 757 đến năm 859

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-7-1.jpg

Thời kỳ Hoàn Vương đánh dấu sự lên ngôi của các thủ lĩnh bộ tộc Cau ở miền Nam tại hai vùng Kauthara và Panduranga. Kinh đô chuyển từ Simhapura ở phía bắc về phía nam tại Panduranga với tên gọi mới là Virapura và thánh địa tôn giáo cũng dịch chuyển từ Mỹ Sơn ở phía bắc về khu thánh địa Po Nagar ở Nha Trang ngày nay.
Là thủ đô của Chăm Pa trong một thời gian tương đối ngắn khoảng 100 năm nên không có nhiều ghi chép lại về kinh đô này, các khảo cổ cũng chưa khai quật được dấu tích chắc chắn về đặc điểm và vị trí của kinh đô, vị trí được phỏng đoán là nằm ở phía nam Phan Rang hiện nay, quanh khu vực thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước. Bia ký cho biết kinh thành Virapura bị người Java tấn công và tàn phá vào năm 787, sau khi họ đã tấn công và tàn phá thánh địa tôn giáo ở Po Nagar trước đó vào năm 774.
Đây là thời kỳ kinh đô ở miền Nam nên các công trình tôn giáo phần lớn cũng nằm gần khu vực này, ngoài các công trình đã đổ nát hiện nay vẫn còn ngôi tháp Hòa Lai, tháp Po Nagar được xây dựng trong thời kỳ này

nuamua
13-06-2011, 16:14
1-6 Thành Phước Thuận

Trung tâm Khảo cổ (Viện Khoa học xã hội vùng Đông Nam bộ) và Bảo tàng tổng hợp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vừa phát hiện một di chỉ khảo cổ học - dấu tích của thành cổ Chămpa trên địa bàn thôn Gò Cát, xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc.
Hiện Viện Khoa học xã hội vùng Đông Nam bộ và Bảo tàng tổng hợp tỉnh BR-VT đang xin phép các cơ quan chức năng thám sát trên diện rộng di chỉ này để có thể khai quật vào giữa năm 2008.

Cuối năm rồi, theo vài dòng thông tin ngắn ngủi từ báo chí, em lò dò đến Gò Cát, Phước Thuận, Xuyên Mộc. Loanh quanh dò hỏi dân địa phương về di chỉ thành này, nhưng những người dân địa phương em hỏi đều không biết thông tin gì. Đành bỏ dở.
Cảm ơn những bài viết của bác tungvk1781.

tungvk1781
20-06-2011, 10:19
Cuối năm rồi, theo vài dòng thông tin ngắn ngủi từ báo chí, em lò dò đến Gò Cát, Phước Thuận, Xuyên Mộc. Loanh quanh dò hỏi dân địa phương về di chỉ thành này, nhưng những người dân địa phương em hỏi đều không biết thông tin gì. Đành bỏ dở.
Cảm ơn những bài viết của bác tungvk1781.
Nếu có điều kiện đến lại nơi đó, có thêm thông tin gì mới thì bổ sung thêm cho bài viết của tôi nhé. Cảm ơn nhiều nhé.

tungvk1781
20-06-2011, 10:24
1-8 Thành Indrapura

Indrapura (đô thị sấm sét) là kinh đô của Chăm Pa từ năm 875 đến 982. Kinh thành Indrapura nằm tại khu vực mà ngày nay là làng Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình, Quảng Nam.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-8-1.jpg

Vị vua Chăm Pa cuối cùng của vương triều Hoàn Vương là Vikrantavarma đóng đô tại Virapura (thuộc Phan Rang, Ninh Thuận) không có con trai sau kế thừa nên sau cái chết của ông nên triều đình đã chọn một người thuộc bộ tộc Dừa ở miền Bắc lên kế vị. Vị vua mới lên ngôi có tên hiệu là Indravarman II đã cho chuyển kinh đô ra miền bắc, tại vị trí mà dòng họ của ông ở từ trước và đặt tên thủ đô là Indrapura, đây cũng là thời kỳ Chăm Pa bắt đầu có tên gọi là Chiêm Thành.

Đây cũng là thời kỳ ảnh hưởng Phật giáo đại thừa ảnh hưởng mạnh vào vương triều này cũng như tinh thần của xã hội Chăm Pa. Phật giáo gần như trở thành tôn giáo chính của cả vương triều. Chính do lòng tin và thành kính đối với đức Phật mà ngay từ vị vua đầu tiên đã cho xây dựng cả một tu viện Phật giáo rộng lớn ngay kinh thành, được đánh giá là tu viện phật giáo lớn nhất Đông Nam Á thời đó.
Trong thời kỳ này, Chăm Pa có giao lưu nhiều với Chân Lạp và các nhà nước ở Java, chính vì thế các ảnh hưởng từ ngoài đã tác động một phần lên nghệ thuật kiến trúc của người Chăm

Sự phục hồi mạnh mẽ của hai quốc gia láng giềng là Đại Cồ Việt ở phía bắc và Đế quốc Khmer ở phía tây nam đã đe dọa tới Chăm Pa. Các cuộc chiến giữa Chăm Pa và vương triều Angkor (Chân Lạp) vào năm 945 và vương triều Tiền Lê (Đại Cồ Việt) vào năm 979 là hệ quả tất yếu dẫn tới sự suy yếu của vương quốc Chăm Pa. Tiếp đó cuộc tấn công từ phía Đại Cồ Việt do Lê Hoàn chỉ quy đã tàn phá kinh thành Indrapura vào năm 982, vua Paramesvaravarman (Hán Việt gọi là Phê Mi Thuế) bị giết. Sự kiện này đã đánh dấu sự chấm hết cho vai trò kinh đô Indrapura của Chăm Pa, sau sự kiện này Chăm Pa chuyển đô về phía nam ở Bình Định với tên gọi mới là Vijaya.

Thủ đô mới được bia ký Đồng Dương ca ngợi “thành phố được trang hoàng lộng lẫy như thành phố của thần Indra trên thiên giới”. Nhưng cũng các bia ký Đồng Dương Inrapura đã được lập lên từ xa xưa bởi Bhrgu và được gọi là Champa. Như vậy trước khi thành đô của cả vương quốc Champa vào năm 875, Inrapura đã là thủ phủ của tổ tiên vị vua mới Indravarman II.

Một điều rất đặc biệt đối với Inrapura là đô thành và thánh địa tôn giáo đều cùng nằm một chỗ. Chính tại trung tâm thủ đô Indra, các vị vua của vương triều Đồng Dương đã xây dựng lên một tu viện phật giáo lớn thờ thần Laksmindra – Lokesvara, một trong những tu viện Phật giáo lớn nhất Đông Nam Á.

Thế nhưng cho đến nay, chưa có một cuộc nghiên cứu đầy đủ nào về đô thị quan trọng của vương quốc Champa. Năm 1902 nhà nghiên cứu người pháp H. Parmentier đã đến khảo sát và mô tả khu phế tích này, nhưng chủ yếu là khảo tả khu thánh địa. Theo mô tả của ông, tổng thể chính (nơi có tu viện Phật giáo) là một cấu trúc dài 1330 mét chạy dài theo hướng đông tây. Trong khu vực này, có đền thờ chính nằm trong vành đai hình chữ nhật dài 326 mét, rộng 155 mét. Từ đó, một con đường dài 763 mét chạy tới một khu vực rộng hình chữ nhật (dài 300 mét, rộng 240 mét). Tiếp theo, hướng đông tây là những thánh đường nằm trong các khu khác nhau.

Toàn bộ khu vực chính được chia làm ba khoảng bằng nhau kéo dài từ tây sang đông. Điểm giữa của cả khu di tích là một tháp lớn đã bị đổ nát (nằm ở giữa khu vực tây của khoảng giữa). Chung quang tháp lớn có bốn điện thờ khác cùng dựng trên một nền chung (tháp nam, tháp tây – nam, tháp tây – bắc và tháp bắc). Một bức tường bao quanh khu vực này đã tạo thành khu sân chính (sân 1), có cổng mở ra phía đông. Nhiều kiến trúc phụ khác cũng nằm trong khu sân trung tâm: 7 ngôi miếu tựa lưng vào tường vây, hai tháp có 4 cửa, hai tòa nhà (tòa nam và tòa bắc). Trước cổng của sân có 2 cột trụ. Về phía đông của sân có 2 cột trụ. Về phía đông của khoảng sân 1 là một khoảng sân khác (sân 2). Trên sân 2 có gian nhà dài và một cổng có trụ. Ngoài ra, nằm dọc các tường vây còn có những trụ gạch khác. Tiếp đến, về phía đông của sân 2 là khu vực sân thứ 3. Trên sân 3 có một gian nhà dài nữa và có một cổng có 2 cột trụ phía trước. Dọc các tường vây bên trong cũng có các cổng hình tháp. Cuối cùng là một sân dài (khu 4) dẫn tới cổng ngoài.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-8-2.jpg

Trong khi điều tra, khảo cứu, các nhà khoa học người pháp đã phát hiện ra nhiều tác phẩm điêu khắc bằng đá và bằng đồng. Tuy nhiên, hiện nay cả khu Đồng Dương đã bị san phẳng không còn gì cả.

tungvk1781
20-06-2011, 11:15
1-9 Thành Cổ Lũy

Thành Cổ Lũy là một tiền đồn gồm ba thành liên kết nhau nhằm ngăn thuyền bè đối phương vào cửa Đại Cổ Luỹ, có sự liên kết với thành Châu Sa ở tả ngạn sông Trà Khúc. Thành nằm ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, do người Chàm xây dựng vào khoảng thế kỷ IX - X.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-9-1.jpg

Hệ thống phòng thành Cổ Lũy có ba vòng thành:

* Luỹ Cổ Luỹ : cách cửa Ðại 700 m về phía tây. Dấu vết còn lại là một đoạn lũy nhỏ. Theo lời kể của những người già, lũy cao 3-5 m, dày 2 m.

* Thành Bàn Cờ : đắp bằng đất, theo hình thang, đáy trên 52 m, đáy dưới 60 m; cạnh bên 25 m, chân xoãi xuôi, tạo thế khá vững chắc. Bờ thành được xây dựng bằng gạch to bảng, độ nung cao. Phía trong thành đất bằng phẳng, diện tích khoảng 1000 m2. Ðây là công trình chính trong hệ thống phòng thành Cổ Lũy nhằm quan sát và báo hiệu mọi tình hình ngoài khơi.

* Thành Hòn Yàng : nằm ở phía bắc thành Bàn Cờ, đắp bằng đất trên nền gò đồi tự nhiên, có chiều cao 40 m. Bờ thành thứ nhất và vòng thành thứ hai dày 2,5 m, tìm thấy nhiều gạch vỡ lẩn trong cát.
Hệ thống phòng thành Cổ Luỹ liên kết vững chắc, cấu trúc khoa học, để phòng thủ và báo hiệu cho thành Châu Sa.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-9-2.jpg

Sau người Chiêm dâng đất cho Đại Việt, đồn Cổ Luỹ được dùng làm trụ sở hành chính. Khi trụ sở dời đi nơi khác thì đồn bị bỏ hoang, thành luỹ đổ nát. Cư dân Cổ Luỹ đa số sống bằng nghề đánh cá. Cảnh vật trong thôn yên tĩnh, vắng vẻ như một vùng sương khói lờ mờ.

Nguyễn Cư Trinh từng ca ngợi qua bài Cổ Luỹ Cô Thôn, được xem là một trong số mười cảnh đẹp của xứ Quảng xưa:

Giặc giã đời mô đã dẹp rồi
Luỹ xưa còn đắp xóm mồ côi
Đá xây quanh quất theo bờ biển
Người ở cheo veo dưới cửa lồi
Trông thấy thuyền rinh ba bốn phía
Vẳng nghe trống giục một đôi hồi
Hỏi thăm tạo hoá bao giờ đó
Thạch trận về đây mới đắp bồi

Hiện nay di tích này không còn nữa do quá trình đô thị hóa.

tungvk1781
23-06-2011, 10:36
1-10 Thành Châu Sa

Ở Quảng Ngãi có một thành cổ của người Chăm. Thành cổ này có tên là thành Ðại La hay thành Châu Sa (vì nằm ở làng Châu Sa, nay là xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh) cách trung tâm thị xã khoảng chừng 7km về hướng đông bắc.

Thành nằm ở các xã Tịnh Châu, Tịnh An, Tịnh Thiện, Tịnh Khê thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, trên Quốc lộ 24B từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi đi Sa Kỳ, phía bắc sông Trà Khúc.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-10-1.jpg

Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử triều Nguyễn có đoạn chép: “Thành Châu Sa ở xã Châu Sa, huyện Bình Sơn, chu vi hơn 5 mẫu 5 sào. Tương truyền có 2 thuyết: một thuyết nói là thành Đại La của nước Chiêm Thành, có thuyết nói là vệ thành của Tam ti đời Lê, chưa rõ thuyết nào đúng”.

Khu vực thành Châu Sa có các dòng họ cư trú lâu đời như họ Lê (cư trú khu vực thành nội), họ Đặng, họ Võ, họ Nguyễn (cư trú khu vực thành ngoại). Họ Lê cư trú trong khu vực thành nội đến nay đã hơn 14 đời. Phả tộc họ Lê đã ghi lại về một ông thủy tổ họ Lê (không rõ tên) hiệu Tằng Giao, tự Quan ý, chánh quán làng An Định (Thanh Hóa). Đời vua Lê Trang Tông, niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ 2 phụng sắc chỉ triều đình đem quân vào trấn thủ thành Châu Sa gọi là Tam ti vệ thành, đồng thời mộ dân lập ấp, khai phá thêm đất đai, (bởi vậy con cháu họ Lê mới được ở trong nội thành). Như vậy thành Châu Sa do Chiêm Thành xây dựng mà đến cuối thế kỷ 15 trở đi nhà Lê mới phái tướng trấn đóng nơi này để bảo vệ thành và toàn bộ vùng đất Châu Tư và Châu Nghĩa trong đạo Thừa tuyên Quảng Nam (hai châu này nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi).

Năm 1924, H.Parmentier đã đến khảo sát và vẽ bình đồ thành Châu Sa. Bình đồ vẽ khá chi tiết song nó chỉ dừng lại ở mức độ miêu tả thành nội và một cạnh thành “càng cua” phía tây.

Đợt khảo sát năm 1988 của Viện khảo cổ và Bảo tàng tỉnh đã bổ sung thêm cạnh thành càng cua phía đông.

Đến năm 1993, tiếp tục nghiên cứu và khảo sát thành Châu Sa, chúng tôi phát hiện thành ngoại của thành Châu Sa. Thành ngoại đắp đất hai cạnh ở phía đông và phía tây, cạnh phía bắc đắp một đoạn ngắn và hoàn toàn dựa vào thế núi, cạnh phía nam không đắp. Thành ngoại phân bố trên một khu vực rộng lớn có tác dụng bảo vệ thành nội. Sự phát hiện này đã giúp xác định lại vị trí, quy mô, thời gian xây dựng của thành Châu Sa.

Niên đại xây dựng thành Châu Sa có thể ở vào khoảng thế kỷ thứ 8, khi vua lndra Varman 11 lập kinh đô lndrapura đánh dấu cho một triều đại mới và quyền lực từ phương nam vùng Panduranga chuyển về phương bắc vùng Amaravati. Thành Châu Sa có tác dụng bảo vệ kinh đô lndrapura ở phía bắc. Đồng thời khi kinh đô phía bắc bị uy hiếp, đây là nơi nương náu lý tưởng cho người Chàm trên đường rút lui về phương Nam (J.Léiba, 1923).

Những lần khảo sát trước đây của người Pháp đã tìm thấy ở làng Châu Sa một văn bia được dựng lên vào năm 893. Văn bia này do một triều thần tên là Po. Klung Pimilis, anh của hoàng hậu Surendradevi, tạo dựng để tôn vinh vua Cri Jaya lndra Varman (875′- 890). Đến năm 903 ông ta lại dựng một tượng thần Si va để tôn vinh vua Cri Java Simha Varman (890 – 899). (T. Bosselier).

Bia Châu Sa niên đại thuộc giai đoạn Đồng Dương, địa điểm cụ thể không ghi rõ song có lẽ bia được đặt ở tháp Gò Phố, cách khu thành nội 2,2 km về phía Bắc.

Tháp Gò Phố thấp, nằm ở triền đồi tranh của núi Đồng Danh, trong khu vực thành Châu Sa. Tháp Gò Phố là một kalan lớn bao gồm đền tháp. Tháp có bình đồ vuông mỗi cạnh đo được 20m. Đền nằm ở phía bắc có bình đồ vuông mỗi cạnh đo được 4m. Gò Phố sụp đổ do bị phong hóa chân móng gạch, đã tìm thấy khá nhiều tượng thuộc phong cách Trà Kiệu muộn, thế kỷ IX – X.

Năm 1993 chúng tôi đã phát hiện ở tại địa điểm Núi Chồi thuộc thành ngoại Châu Sa (xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh) những tiểu phẩm Phật giáo có đang như cút thờ của người Chàm, bằng đất nung được sản xuất từ một khuôn in. Cút có kích thước nhỏ chạm nổi 6 hình người chia làm 2 tầng. Tầng trên thô tả Phật Tam Thế gồm ba vị tọa thiền trên tòa sen (Pamasana), Tầng dưới gồm 3 vi, giữa là Phật Thích Ca (Sakyamuni) đang thuyết pháp theo kiểu ấn tay đưa phía trước ngực (Mudra), hai bên là hai đại đệ tử đứng hầu Ananda và Kasyapa (Đại ca Diếp). Các tiểu phẩm Phật giáo này tìm thấy trong lò nung dạng xếp đá ở ngoài trời của người Chàm. Dựa trên phong cách nghệ thuật, các tiểu phẩm Phật giáo này có niên đại khoảng thế kỷ VIl-Vlll, có thể nó được dùng cho cá nhân hoặc trang trí ở các đền thờ.

Qua trao đổi, Giáo s Tiến sĩ lvan Glover cho chúng tôi biết các tiểu phẩm Phật giáo này tìm thấy nhiều ớ Thái Lan, Srilanka. như vậy sự sản xuất các tiểu phẩm Phật giáo ở thành Châu Sa đã phản ảnh có thể có một trung tâm Phật giáo trong khoảng thế kỷ VII – X tại đây.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-10-2.jpg

Tổng thể thành Châu Sa gồm có hai vòng thành: thành ngoại và thành nội:

Thành ngoại:

Thành ngoại gồm ba cạnh thành tây, đông và bắc, trong đó cạnh thành tây và đông đắp kiên cố, cạnh thành bắc chủ yếu dựa vào núi non.

Cạnh thành ngoại phía tây chạy theo trục bắc – nam chiều dài của bờ thành là 3.000 m, thuộc địa phận hai xã Tịnh An và Tịnh Châu. Khởi đầu từ bở sông Tiểu Giang (chi lưu sông Trà Khúc) nơi xóm Vạn Chài, thành chạy về hướng Bắc giáp sông Bàu Sử đến Bến Bè (khu vực ngã ba sông Bàu Sử và sông Hàm Giang) thành rẽ ngoặc theo hướng tây – đông.

Bờ thành ngoại hướng phía tây được đắp quy mô đồ sộ. Tại khu vực xã Tịnh An, nơi xóm Vạn Chài chạy ra đến miếu Cây Búa hào thành rộng 53,4m, nơi đây có đầm Rộc Tình băng qua bờ thành. Tại đây có một công trình kiến trúc bị đổ nát gọi là Gò Gạch. Hào thành được đào nối sông Tiểu Giang thông ra sông Sứ và có lẽ công trình kiến trúc trên là đồn phòng thủ nhằm kiểm soát thuyền bè từ sông Trà Khúc tiến vào hào thành qua sông Sử để ra sông Hàm Giang.

Từ khu vực Gò Chùa chạy về sông Sử hào thành hẹp còn 30m. Khi tiếp giáp sông Sử, bờ thành lấy sông Sử làm hào và chạy về sông Hàm Giang. Những đoạn thành gần sông bị nước xói sạt lở. Những đoạn thành cách xa sông thì còn nguyên vẹn thuộc khu vực nghĩa địa cạnh đầm Rộc Tình và miếu Cây Búa, chiều ngang 38m, chân choãi 3m. Đoạn thành nơi Nghĩa Tự thuộc xã Tịnh Châu còn nguyên trạng có chiều ngang 20km, chiều cao 6m.
Bờ thành phía bắc chạy theo hướng đông, thành đắp một đoạn ngắn, đoạn còn lại lấy núi Chồi và núi Đồng Danh là bờ thành tự nhiên. Đoạn thành ngắn đắp từ Bến Bè đến chân núi Chồi dài 250m. Đoạn thành này đã bị phá làm đất canh tác chỉ còn lại dấu vết độ cao, chiều ngang của bờ thành là 14m.

Tổng cộng bờ thành phía Bắc dài 950m, trong đó có 150m đấp đất. Hai quả núi Chồi và núi Đồng Danh là bờ thành tự nhiên khá lý tởng, từ đây có thể quan sát nơi xa. Giữa hai quả núi có một con hẻm nhỏ gọi là Cửa Eo. Từ thành nội Châu Sa ra phía bắc phải đi con đường này. Bên cạnh Cửa Eo có đắp ụ đất cao để canh phòng. Từ chân núi Đồng Danh, bờ thành đắp đất theo hướng đông – tây đến chân núi Đầu Voi. Tổng chiều dài thành này là 2.550m, chiều ngang mặt thành là 14m, cao 2,50m. Hào rộng 20m. Cắt ngang bờ thành phía đông là con sông Làng và Bàu Khổng, bờ thành phía đông có một số đoạn còn tương đối nguyên vẹn thuộc xóm Khê Thượng và cánh đồng Minh U (xã Tịnh Khê) khi chạy về phía nam, bờ thành được đắp một đoạn dài 150m.

Hướng nam giáp sông Trà Khúc không có xây dựng bờ thành. Tổng chu vi thành ngoại gồm 3 cạnh thành là 6.750m trong đó bờ thành đắp đất là 5.800m, còn lại là dựa vào đồi núi để tạo thành bức thành thiên tạo.

tungvk1781
23-06-2011, 10:37
Thành nội:

Thành nội chạy theo hướng bắc – nam, có bình đồ hình chữ nhật gồm có 5 cửa thông thương với bên ngoài. Một số cửa đông, nam và tây – nam đều có công trình kiến trúc để phòng thủ. Tại góc đông – nam và tây – nam có hai đoạn thành bắt góc chạy theo hướng bắc – nam vươn về sông Trà Khúc, gọi là hai Càng Cua.

- Bờ thành nội phía đông dài 558m, cao 4,6m, mặt thành rộng 5m, đáy thành rộng 25m, choãi chân 12,5m. Đây là bờ thành còn nguyên vẹn nhất. Bờ thành có một cửa đi hướng đông. Cửa thành rộng 9m (do bị phá thêm). Nơi đây tồn tại một công trình kiến trúc phòng thủ, nền đất còn dấu vết gạch ngói vương vãi. Nầm ở góc đông – nam của thành còn có một công trình phòng thủ khác có chu vi 4 x 4m. Hào thành phía đông rộng 40m, từ chân bờ thành đến hào thành là khoảng đất bằng phẳng rộng 48m.

- Bờ thành phía tây dài 558m, mặt thành rộng 5m, cao 4,6m, hào rộng 40m, Tương tự như thành phía đông. Bờ thành này có 2 cửa, cửa phía bắc bị phá một đoạn dài 60m cửa phía góc tây – nam phá một đoạn dài 30m, nơi đây có một công trình kiến trúc phòng thủ.

- Bờ thành nội phía bắc dài 586m, cao 4m, mặt thành rộng 8m, đáy thành rộng 20m, chân thành choãi xuôi 11,5m. Bờ thành này có một cửa nam đắp rất quy mô có chiều rộng 6m. Nơi đây tồn tại một công trình phòng thủ. Phía ngoài cửa thành giáp với bờ tường thành là hai bờ đất đắp song song hai bên chạy về hướng nam, chiều dài 20m. Có thể đây là cửa chính thành. Hào thành có chiều rộng 40m, chiều dài từ chân thành đến hào là 46 mét.

- Bờ thành “Càng Cua” phía tây còn tương đối nguyên vẹn, dài 674m. Bắt đầu từ góc tây – nam của thành nội bị nhân dân xẻ làm đường đi để vào xóm An Thành, đoạn này mất đi 65m. Đoạn thành này lệch nam 10o, cao 3m, chân thành rộng 12m, dài 174m, hào thành rộng 40m, đào nối liền với hào thành nội. Hào được đào sát chân thành. Sau đó bờ thành bẻ góc về hướng nam, dài 540m, cao 6m. Thành bị cắt bởi đường lộ và khu cư trú cùng tuyến kênh Sơn Tịnh đi qua. Hào thành được đào sát chân thành rộng 40m, chạy nối ra sông Tiểu Giang. Thành chạy đến sát sông Tiểu Giang thì bẻ góc về đông với chiều dài 60m, song song với sông Tiểu Giang.

- Bờ thành “Càng Cua ” phía đông dài 443m, bắt đầu từ góc đông – nam của bờ thành nội kéo dài về phía đông 50m bị cắt bởi hào thành, nhân dân gọi đây là Đông Cụt. Phía bên kia hào, bờ thành tiếp tục chạy về hướng đông một đoạn 97m, sau đó bẻ góc chạy về hướng nam 296m đến bàu Cây Khế. Bờ thành này bị cắt bởi đường lộ chạy qua cùng với việc dân chúng làm nhà ở và đường đi trên mặt thành nên một số nơi độ cao chỉ 1 mét. Tuy nhiên đoạn thành hướng đông tây còn khá nguyên vẹn. Bờ thành có chiều cao 5,6m, đáy thành rộng 15m, bề mặt rộng 10m. Hào đào sát chân thành rộng 20m.

Tóm lại, thành Châu Sa là thành đắp đất hết sức quy mô. Đất đắp thành là loại đất sét pha cát thạch anh thô, loại đất phổ biến trong khu vực thành. Một lát cắt nơi cửa đông của thành nội có cấu tạo lớp trên là dăm đá ong pha đá cuội thạch anh, lớp dưới là cát tro màu xám. Nhìn chung hiện trạng các bờ thành Tương đối nguyên vẹn, nhất là khu thành nội.

Thành Châu Sa có các hào thành nội và thành ngoại. Hào thành được đào thông với dòng sông Bàu Ấu đổ về. Bàu Khổng qua sông Diêm Điền và đi ra cửa Sa Kỳ.

Thành nội gồm 5 cửa đông, bắc, tây, nam và tây nam. Các cửa đông, nam và tây nam đều có công trình kiến trúc bằng gạch có tính cách như vọng lâu bảo vệ thành. Thực tế qua sự gia cố, đắp công phu đã cho chúng ta thấu hiểu rằng cửa nam là cửa chính.

- Thành ngoại trải dài trên khu vực rộng lớn nhằm bao bọc, bảo vệ thành nội. Thành ngoại đắp đất, hào thành nằm sát chân tường được đào thông thương với sông Tiểu Giang, sông Bàu Sử và sông Hàm Giang tại chân núi Chồi, cắt ngang qua bờ thành ngoại chảy xuống Bàu Ấu thông thương với hào thành nội phía bắc xuôi chảy về Bàu Khổng, sông Làng, sông Diêm Điền đi ra cửa Sa Kỳ, sông Tiểu Giang là chi lưu của sông Trà Khúc chảy về hướng đông bắc nối với hào thành ngoại phía tây ở tại xóm Vạn Chài, nối với hào thành Càng Cua phía đông ở Bàu Khế, chảy về Bàu Sen, xuống Bến Trùm, Bến Tâm, thông với sông Làng và đi ra cửa Sa Kỳ.

Một hệ thống đường thủy chằng chịt như vậy rất thuận lợi cho giao thông bằng thuyền bè. Hiện nay các hào thành bị lấp cạn, dân chúng trồng lúa, đào ao lấy nước tưới ruộng thường hay bắt gặp mảnh ván thuyền, dây thừng.

Ngoài sự tiện lợi về đường thủy, thành Châu Sa được một hệ thống núi non tự nhiên bao bọc, che chắn, bảo vệ. Về phía Bắc dãy núi Chồi và núi Đồng Danh tạo thành một bức tường thành tự nhiên để bảo vệ thành Châu Sa. Về phía tây – bắc, thuộc bên trong khu vực thành là đồi Bàn Cờ nằm ở thôn An Định, xã Tịnh Châu, được xẻ đắp thành 6 bậc, trên đỉnh vuông vức bằng phẳng. Từ quả đồi này có thể nhìn bao quát khu vực cạnh thành ngoại phía tây và khu vực thành nội ở phía đông. Về phía tây có núi Thiên Ấn, ở đây có thể quan sát được khu vực xung quanh và bảo vệ cho thành ngoại phía tây. Về phía đông nam là dãy núi Đầu Voi núi Ngang tạo thành bức tường thành tự nhiên liền với phòng thành Cổ Lũy phía nam sông Trà Khúc, quan sát cửa Đại Cổ Lũy và ngoài biển, bảo vệ che chắn cho thành Châu Sa.

Thành Châu Sa là một trong những thành Chăm pa còn nguyên vẹn nhất hiện nay của nước ta. Thành có vị trí quan trọng về quân sự và kinh tế trong lịch sử người Chàm từ thế kỷ VIII – IX và trong lịch sử quốc gia Đại Việt từ thế kỷ XV. Những bằng chứng khảo cổ học cho thấy sự tồn tại của thành Châu Sa ở bắc sông Trà Khúc liên kết với phòng thành Cổ Lũy ở bờ nam sông Trà Khúc đã chứng minh vùng châu thổ đồng bằng Quảng Ngãi có tầm quan trọng về mặt quân sự và kinh tế trong châu Amaravati của vương quốc Chămpa.

Di tích thành Châu Sa đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích Quốc gia.

tungvk1781
29-06-2011, 14:30
1-11 Thành Đồ Bàn

Thành Đồ Bàn hay Vijaya còn gọi là thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định, Việt Nam) 27 km về hướng tây bắc, là tên kinh đô của Chăm Pa trong thời kỳ Chăm Pa có quốc hiệu là Chiêm Thành. Vijaya đồng thời cũng là tên gọi của một trong bốn địa khu/vùng/tiểu quốc của Chăm Pa, Địa khu Vijaya.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-11-1.jpg

Khu thành trải ra trên một cánh đồng khá bằng phẳng và có bình đồ là hình chữ nhật dài 1400 mét theo hướng bắc – nam và 1100 mét theo hướng đông-tây. Hiện nay, đường quốc lộ số 1 chạy qua những gò đống ở góc đông bắc tòa thành xưa. Con sông Bình Định ngày nay là con hào thiên nhiên bảo vệ mặt bắc của thành.
Hiện nay tòa thành cổ chỉ còn là một dải đất đắp gần như liên tục, đôi chỗ còn thấy tường ốp. Trên tường thành, đôi chỗ còn nhô lên những ủ đất cao-dấu tích của các chòi gác xưa. Tòa thành còn để lại dấu vết một cổng thành ở mặt đông, cách góc đông – nam 1/3 đoạn thành. Hiện nay bên trong thành chỉ là những cánh đồng và chỉ thấy một con đường cổ nối liền giữa mặt đông của thành với các gò cao ở giữa làm nền cho một ngôi tháp – tháp Cánh Tiên (hay tháp Đồng). Khu trung tâm và mặt tây của thành hơi cao hơn. Mặt đất ở khu trung tâm có nhiều đá, sỏi và gạch vỡ. Ngòai ra phía bắc còn có một gò đất cao chứa nhiều gạch vỡ - dấu tích của một kiến trúc xưa nào đó.

Toàn bộ mặt tây của thành bị choán gần hết bởi ngôi chùa của người Việt và lăng Võ Tánh. Tại đây, một số tác phẩm điêu khắc Champa đã được người việt sử dụng như những con sư tử đá trong lăng Võ Tánh. Tít ở góc tây-nam có một khu đất cao hai bậc, bậc trên hình vuông.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-11-2.jpg

Cách khu đất có 30m là một khu đất cao hơn, rộng hơn và có nhiều gạch vỡ - phế tích của một khu kiến trúc lớn (có thể là cung điện của nhà vua).

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-11-3.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-11-4.jpg

Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa láng nạn vào phương nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay.

Ở phía nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô vào kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005.

Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông.

Năm 982 dưới triều đại vua Yangpuku Vijaya (âm Hán-Việt là Ngô Nhật Hoan ?) thành Đồ Bàn được xây dựng. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chăm Pa và các vua Chăm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15.

Năm 1376, vua Trần Duệ Tông đem 12 vạn quân thủy, bộ đánh thành Đồ Bàn bị Chế Bồng Nga đánh bại, Trần Duệ Tông tử trận.

Năm 1403, Hồ Hán Thương sai tướng đem 20 vạn quân vây đánh thành Đồ Bàn ngót hai tháng trời, nhưng bị quân Chiêm Thành phản công quyết liệt liệt, phải rút quân về nước.

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đem một đoàn thủy, lục quân hùng mạnh sang đánh Chăm Pa. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy thành Đồ Bàn.

Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung Ương Hoàng Đế nhà Tây Sơn, đóng đô ở đây, nên còn gọi là Hoàng Đế thành, ông cho mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình lớn.

Năm 1799, thành bị quân Nguyễn Ánh chiếm, đổi gọi là thành Bình Định.

Ngày nay, Thành Hoàng đế là một trong những di tích giá trị, quan trọng trong nghiên cứu lịch sử quân sự và khảo cổ học.

Vijaya nằm tại vị trí mà hiện nay là xã Nhơn Hậu, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Cách quốc lộ 1A khoảng 2km, toàn thể kinh thành nằm trên một vùng đất cao so với các cánh đồng xung quanh

Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan - Doanh Nhai Thắng Lãm, thì kinh đô Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả:

Đi theo hướng tây nam một trăm lí bạn sẽ tới thành phố nơi nhà vua cư ngụ, tên gọi ngoại quốc của nó là Chiêm Thành (Chan city). Thành phố có một bức tường thành bằng đá, với lối ra vào qua bốn cổng, có người được lệnh đứng gác. Ngôi nhà trong đó nhà vua cư ngụ thì cao và rộng. Nó có một cái mái lợp ngói nhỏ hình thuẫn trên đó, bốn bức tường bao quanh được xây dựng với phần trang trí công phu bằng gạch và hồ, rất gọn ghẽ. Các cánh cửa được làm bằng gỗ cứng, được trang trí với các hình khắc các thú hoang và gia súc. Các ngôi nhà trong đó dân chúng sinh sống có mái lợp bằng tranh, chiều cao của gờ mái nhà (tính từ mặt đất) không thể quá ba ch’ih (1m = 2.79 ch’ih), (người ta ra vào phải khom lưng và cúi đầu xuống, và có chiều cao quá khổ là một điều bực mình)

Vijaya là kinh đô của Chăm Pa kéo dài 5 thế kỷ, từ năm 999 đến năm 1471. Trong khoảng thời gian này, các vua Chăm đã cho xây dựng rất nhiều đền tháp quanh khu vực kinh thành, mà hiện nay vẫn còn tồn tại 8 cụm tháp :

- Tháp Đôi (tháp Hưng Thạnh) ở thành phố Quy Nhơn
- Tháp Dương Long (tháp Ngà, tháp An Chánh) huyện Tây Sơn
- Tháp Cánh Tiên (tháp Đồng) ở xã Nhơn Hậu huyện An Nhơn
- Tháp Bánh Ít (tháp Bạc) ở xã Phước Hiệp huyện Tuy Phước
- Tháp Bình Lâm ở xã Phước Hòa huyện Tuy Phước
- Tháp Thủ Thiện ở xã Bình Nghi huyện Tây Sơn
- Tháp Phú Lốc (tháp Vàng) ở giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước
- Tháp Hòn Chuông ở núi Bà huyện Phù Cát

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-11-5.jpg

Sau khi mất miền bắc về Đại Việt, Vijaya bị bỏ hoang và đến cuối thế kỷ 18, Nguyễn Nhạc vua nhà Tây Sơn đã sử dụng lại nền cũ của thành Vijaya để xây dựng Thành Hoàng Đế. Và kế tiếp vào năm 1902, thành Hoàng Đế được nhà Nguyễn sử dụng lại và gọi là Thành Bình Định. Vào năm 1816, vua Gia Long cho phá bỏ thành Bình Định để chuyển thủ phủ về Quy Nhơn.

Hiện nay dấu tích của vương triều Chăm Pa tại Vijaya còn lại là đôi sư tử đá dùng để trang trí, được chạm đổ theo phong cách nghệ thuật Bình Định vào thế kỷ 12-14, và ngôi Tháp Cánh Tiên, một trong các phong cách nghệ thuật các tháp Chăm.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/kinh_272_vijaya.jpg

Di tích Đồ Bàn hiện nay không còn nguyên vẹn, chỉ còn sót lại các bức tường thành. Tường thành xây bằng đá ong, có hào, đường lát đá hoa cương. Trong thành có những di tích cũ của người Chăm như giếng vuông, voi, bên cửa hậu có gò Thập Tháp.

Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 m, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, 2 voi đá và nhiều tượng quái vật. Tháp này được đánh giá là tiêu biểu cho phong cách Bình Định, có niên đại nửa sau thế kỷ 11, đầu thế kỷ 12, nằm trong giai đoạn lịch sử từ triều Harivarman IV (1074-1081) đến triều Harivarman V (1113-1139).

Phía Bắc thành có Chùa Thập Tháp Di Đà (được xây trên nền của mười tháp Chăm cổ), phía Nam thành có chùa Nhạn Tháp, đều là những ngôi chùa cổ. Trong đó còn giữ được nhiều di tích, hiện vật liên quan đến văn hóa Chăm Pa và phong trào Tây Sơn như lăng Võ Tánh, lăng Ngô Tùng Châu, cổng thành cũ.

Thành Hoàng Đế còn chứng kiến những trận đánh giữa Nhà Tây Sơn và Nhà Nguyễn mà trận đánh bao vây thành của hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng với Võ Tánh vào tháng 5 năm 1801, biết cầm cự không nổi với quân Tây Sơn, Võ Tánh tự thiêu và quan văn là Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử.

Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, nơi đây làm nơi thờ "Song Trung" Võ Tánh và Ngô Tùng Châu mà khi chiếm thành, Trần Quang Diệu đã tha chết cho tám ngàn quân Nguyễn và chôn cất hai vị và cảm khái tự tay khắc hai chữ trên.

Trong lăng còn chiếc lầu bát giác cổ kính, trong lầu còn tấm bia đá khắc công tích của Ngô Tùng Châu và Võ Tánh (năm 1800). Bia bằng đá trắng, chịu nhiều gió bụi thời gian đến nay đã mòn cả những chữ Hán khắc trên đó.

Hiện nay thị trấn Đập Đá nằm ngay bên ngoài thành.

tungvk1781
29-06-2011, 14:52
1-12 Thành Cổ Lũy

Di chỉ khảo cổ học Cổ Luỹ được phát hiện trên một đồi đất bazan dài 2 km thuộc xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Di chỉ là một toà thành cổ toạ lạc ở bờ bắc sông Bến Hải. Nhân dân gọi toà thành với các tên khác nhau như: Thành Hồ, Luỹ Chiêm Thành.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-12.jpg

Thành được đắp bằng đất, gồm 2 vòng thành; vòng trong là Thành Nội, hình vuông mỗi cạnh từ 120 – 150m, phía trong còn các địa danh như Cồn Kha, Cồn Mạn… và gạch vỡ, mủn. Thành ngoài lợi dụng địa hình tự nhiên, còn rõ vết tích ở các hướng tây, nam và bắc. Trong khu vực Cổ Luỹ thu được nhiều bình, vỏ sành có nắp, một số tiền đồng. Có thể đây là toà thành là di tích có niên đại vào thời Trần – Lê.

nuamua
30-06-2011, 00:53
Re: Thành Đồ Bàn.
Xin phép minh họa 1 vài điểm của thành Đồ Bàn/Hoàng Đế/Bình Định bằng hình ảnh.

1 đoạn phía Bắc còn sót lại của Tử Cấm Thành:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63874&d=1309366852

1 đoạn Tử Cấm Thành phía Đông Nam:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63872&d=1309366852

Mộ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu (?):

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63873&d=1309366852
(Có giả thuyết cho rằng, ngôi mộ hình chữ nhật là mộ của người giám mã của Võ Tánh chứ không phải mộ của Ngô Tùng Châu)

Một trong 3 con sư tử đá trong khuôn viên lăng Võ Tánh. Con này nằm nơi cột cờ phía trước lăng, có dáng vẻ khác với 2 con sư tử đá còn lại nằm nơi hậu liêu, đứng chầu hai bên lầu bát giác:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63881&d=1309367741

Hai con voi đá, dấu tích của nghệ thuật điêu khắc Champa, đứng cách cổng lăng Võ Tánh khoảng 500m về phía Nam, nơi được cho là cổng thành Đồ Bàn:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63875&d=1309366852

Voi đực (?) - theo cách gọi người dân trong xóm.

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63880&d=1309367398

Voi cái (?) - theo cách gọi của người dân trong xóm.

Tháp Cánh Tiên:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63879&d=1309367398


P/S 2: bác tungvk1781 bảo xung quanh thành Đồ Bàn hiện còn tồn tại 8 tháp Chăm. Em lần mò chỉ tìm được 7 cụm tháp bao gồm:
Tháp Đôi (Hưng Thạnh) - 2 tháp
Bánh Ít (tháp Bạc) - 4 tháp
Phú Lốc (tháp Vàng) - 1 tháp
Bình Lâm - 1 tháp
Cánh Tiên (tháp Đồng) - 1 tháp
Dương Long (An Chánh, tháp Ngà) - 3 tháp
Thủ Thiện - 1 tháp.
Tổng cộng 7 cụm với 13 tháp còn tồn tại, không kể các phế tích. Nếu còn tháp thứ 8 thì nhờ bác chỉ hộ, em mò tới bằng được!
Không còn nút "thank" nên đành dùng lời để lần nữa cảm ơn bác tungvk1781 đã có những tư liệu thật quý giá cho anh em tham khảo. Trông đợi những bài viết tiếp theo của bác!

conlele
30-06-2011, 08:39
Thêm thông tin về Trường Luỹ ở Quảng Ngãi:

1) Trường Luỹ chỉ sau Vạn Lý Trường Thành (http://sgtt.vn/Van-hoa/129252/Truong-Luy-chi%CC%89-sau-Va%CC%A3n-Ly%CC%81-Truo%CC%80ng-Tha%CC%80nh.html)

2) Trường Luỹ được công nhận di tích cấp quốc gia (http://sgtt.vn/Khoa-giao/141497/Truong-Luy-duoc-cong-nhan-di-tich-cap-quoc-gia.html)

3) Trường Luỹ mang sứ mệnh hoà bình (http://sgtt.vn/Kien-truc-doi-song/Chi-tiet/142315/Truong-Luy-Quang-Ngai-mang-su-menh-hoa-binh.html)

4) Kết quả nghiên cứu của viện Viễn đông Bác cổ Pháp - Kỳ 1: Dấu xưa xe ngựa (http://sgtt.vn/Kien-truc-doi-song/Chi-tiet/142286/Ky-1-Dau-xua-xe-ngua.html)

5) Kết quả nghiên cứu của viện Viễn đông Bác cổ Pháp - Kỳ 2: Những gì còn lại (http://sgtt.vn/Kien-truc-doi-song/Chi-tiet/142400/Ky-2-Truong-Luy-%E2%80%93-nhung-gi-con-lai.html)

tungvk1781
30-06-2011, 16:56
Re: Thành Đồ Bàn.
https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63875&d=1309366852

Voi đực (?) - theo cách gọi người dân trong xóm.

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63880&d=1309367398

Voi cái (?) - theo cách gọi của người dân trong xóm.
P/S 1: ảnh minh họa tháp Cánh Tiên trong bài viết của bác tungvk1781 thật ra là ảnh của 3/4 tháp của cụm tháp Bánh Ít.
P/S 2: bác tungvk1781 bảo xung quanh thành Đồ Bàn hiện còn tồn tại 8 tháp Chăm. Em lần mò chỉ tìm được 7 cụm tháp bao gồm:
Tháp Đôi (Hưng Thạnh) - 2 tháp
Bánh Ít (tháp Bạc) - 4 tháp
Phú Lốc (tháp Vàng) - 1 tháp
Bình Lâm - 1 tháp
Cánh Tiên (tháp Đồng) - 1 tháp
Dương Long (An Chánh, tháp Ngà) - 3 tháp
Thủ Thiện - 1 tháp.
Tổng cộng 7 cụm với 13 tháp còn tồn tại, không kể các phế tích. Nếu còn tháp thứ 8 thì nhờ bác chỉ hộ, em mò tới bằng được!
Không còn nút "thank" nên đành dùng lời để lần nữa cảm ơn bác tungvk1781 đã có những tư liệu thật quý giá cho anh em tham khảo. Trông đợi những bài viết tiếp theo của bác!

Cảm ơn bạn. Còn 1 tháp nữa nằm trên núi Bà ở huyện Phù Cát, tháp này mới phát hiện năm 1997 nhưng rất tiếc hiện giờ chỉ còn nền tháp. Đây là ngọn tháp xây ở độ cao cao nhất Đông Nam Á (600m so với mực nước biển).

Hai tượng voi được các nghệ nhân Chăm Pa thể hiện dưới dạng tượng tròn, kích thước tương đối lớn, nhìn rất giống voi thật. Một con cao 1,8m, dài 2,1 m, tư thế đứng linh hoạt, trán trang trí vương miện hình cánh hoa nhọn kết dải; cổ đeo yếm rộng, có hai vòng lục lạc trang trí; vòi voi như đang thực hiện một động tác quấn lấy cọng sen ở dưới đất. Con thứ hai cao 1,9m, dài 2,2 m, trong tư thế đứng chân trước phía trái hơi đưa lên như nâng đỡ vòi cùng nhổ một gốc cây gì đó ở dưới mặt đất; hai tai vểnh ra, tạo dáng toàn thân một khối tròn khỏe mạnh như đang vươn về phía trước. Ngực con voi thứ hai này tuy không đeo yếm nhưng cũng có những băng trang trí hình ô trám, trong lồng cánh hoa. Voi thứ hai cao và to hơn, có u nổi gồ ghề, biểu hiện là voi đực.

Nhìn bề ngoài cũng thấy voi đực to lớn, khỏe mạnh còn voi cái được trang trí nhìn nữ tính hơn nhỉ. :D

Bạn tìm hiểu thông tin thêm nhé. Thank.

tungvk1781
11-07-2011, 11:25
1-13 Sri Banoy (Thành Thị Nại)

Thành Thị Nại , còn có tên gọi khác là thành Bình Lâm, Sri Banoy là một thành cổ nằm ở bên bờ Đầm Thị Nại, đóng vai trò là tiền đồn trấn giữ cho kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Chăm Pa.

Dựa theo các thư tịch cổ và các khảo cổ được phát hiện, Thành Thị Nại là tòa thành nằm trên địa bàn thuộc các thôn: Bình Lâm, Bình Nga Đông, Bình Nga Tây và Bình Trung, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Di tích còn lại cho thấy thành được xây dựng trên một dồi đất cao nằm kẹp giữa hai phân lưu phía hạ nguồn của sông Côn là sông Cầu Đun và sông Gò Tháp, phía bắc là sông Đập Đá.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-13-1.jpg

Di tích còn lại cho thấy thành được xây dựng trên một doi đất cao nằm kẹp giữa hai phân lưu phía hạ nguồn của sông Kôn là sông Cầu Đun và Sông Gò Tháp. Thành có cấu trúc hình chữ nhật, chiều dài chạy theo hướng Đông-Tây đo được 1.300m, chiều rộng hơn 600m.

Dấu tích thành còn rõ nhất ở mặt Bắc. tại đây tường thành chạy dọc theo sông Gò Tháp, dựa vào sông làm hào chắn tự nhiên. Vết tích còn lại là một dải gạch đổ dài trên 200m, trên đó còn một đoạn tường khá nguyên vẹn. Tuy đoạn tường còn sót lại chỉ dài gần 4m, cao 1,2m nhưng cũng đủ để hình dung về cấu trúc và kỹ thuật xây thành. Phần ngoài tường thành được bao bọc bằng gạch có kích thước lớn (0,36m x 0,20m x 0,07m), xây khít vào nhau, giật cấp từ dưới lên giống như kỹ thuật xây các tháp. Bề mặt phía trên tường rộng 0,8m. Bên trong phần gạch ốp, tường được đắp lèn đất rất chắc bằng đất trộn gạch vụn.

Tường thành phía Nam chạy dọc theo sông Cầu Đun. Dấu vết còn lại là một dải đất cao có bề mặt rộng tới 15-20m. Cấu tạo bên trong của dải đất này giống như phần đất đắp phía trong của bức tường thành phía Bắc. Rất có thể phần gạch ốp đã bị lấy đi để xây dựng các công trình khác.

Vết tích mặt thành phía Đông là một dải đất cao với hàng loạt các gò đống nối tiếp nhau, trên đó gạch xây dựng còn vương vãi ngổn ngang. Phía bên ngoài tường thành còn rõ dấu tích một con hào phòng thủ rộng đến 30m, nối thông hai con sông Gò Tháp và Cầu Đun. Rất có thể ở mặt thành này vào thời kỳ chống quân Nguyên-Mông, người Chămpa đã gia cố thành bằng một hàng rào gỗ.

Tường thành phía Tây chỉ còn lại dấu vết trên một dải đất trộn lẫn gạch vỡ lèn cứng rộng khoảng 4-6m.

Đất trong thành hiện nay đã biến thành ruộng. Khi canh tác dân địa phương thường gặp các vỉa gạch Chàm và mảnh ngói vỡ. Đặc biệt, rải rác ở khắp nơi còn có nhiều gò, đống như gò Nhang, gò Miếu, gò Đôi, gò Hời… Rất có khả năng đó là nền móng của các công trình kiến trúc xưa trong thành.
Trong quần thể kiến trúc liên quan đến thành Thị Nại, còn rõ nhất là một ngôi tháp nằm ở phía Đông thành là tháp Bình Lâm.

Theo Nguyên sử ghi chép lại thì vào thế kỷ 13 khi đạo quân Toa Đô tiến vào đây, thành được làm bằng gỗ.

Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan - Doanh Nhai Thắng Lãm, thì thành Thị Nại thời kỳ này được miêu tả:

Ở về phía đông bắc tính từ kinh đô, có một hải cảng mang tên Tân Châu Cảng. Trên bờ họ có dựng một tháp cao bằng đá tạo thành một thắng tích. Tàu thuyền mọi nơi đến đây với mục đích thả neo và ra khơi. Trên bờ có một đồn, được gọi bởi các ngoại nhân là She pi-nai (Sri Banoy), họ có hai thủ lĩnh phụ trách đồn này, và bên trong đồn có khoảng năm mươi hay sáu mươi gia đình ngoại nhân sinh sống, để bảo vệ cho bến tàu.

Thành Thị Nại với vị trí là tiền đồn bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn của Cham Pa, nên các trận đánh từ bên ngoài vào thường bắt đầu ở đây. Trận đầu tiên được sử sách nói tới là trận đánh với quân Nguyên-Mông do Toa Đô chỉ huy, trước sức mạnh của quân Nguyên Mông, thành bị hạ và người Chăm đã rút lui về kinh đô Đồ Bàn.

Trận đánh kế tiếp trong lịch sử được nhắc đến là trận chiến với Đại Việt thời vua Trần Duệ Tông và sau này là vua Lê Thánh Tông. Trong trận đánh với vua Trần Duệ Tông, người Chiêm đã giành thắng lợi tại đây, tuy nhiên đến trận đánh với vua Lê Thánh Tông vào năm 1471 sau này thị thành Thị Nại bị hạ, và cùng với kinh đô Đồ Bàn thành Thị Nại cũng chấm dứt sự tồn tại của mình sau khi Đại Việt chiến thắng.

tungvk1781
15-07-2011, 09:31
1-14 Thành Thuận Châu

Thành Thuận Châu còn gọi là thành Vệ Nghĩa. Đây là một toà thành được xây dựng vào đời nhà Trần (1225 – 1400). Vết tích thành Thuận Châu được tìm thấy vào năm 1981 tại thôn Vệ Nghĩa, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/1-14-1.jpg

Thành gắn liền với các địa danh có liên quan như: Xứ Thành, Cồn Thành, Vùng Thành, Miếu Thành.
Thành Thuận Châu là tên gọi để chỉ một trung tâm chính trị - lỵ sở của một châu: châu Ô thời Chăm trước thế kỷ XIV, châu Thuận từ thế kỷ XV-XVI và một huyện: huyện Thuận Xương, Vũ Xương, Đăng Xương một thời sôi động dưới các thế kỷ XVI-XVIII mà chính nó đã để lại những ký ức gắn bó như là máu thịt đối với những người dân vùng đồng bằng Triệu Phong ngày nay

Thành Thuận Châu là một toà thành cổ có cấu trúc hình chữ nhật, dài 600m, rộng 500m, cao 2m. Các luỹ đất ở bốn mặt cấu tạo bằng đất được kè đá củ đậu, đá cuội nằm lẫn giữa những lớp gạch xếp, các công trình được xây bằng gạch. Nghệ thuật xây thành là sử dụng triệt để những gì vốn có của tự nhiên, nhất là các con hói, nhánh sông, để phát triển lên một trình độ hoàn thiện. Phía ngoài thành là hào làm thành sông chảy ra sông Thạch Hãn. Do nhiều biến đổi khách quan, thành đã bị tàn phá nặng nề, hiện nay chỉ còn lại những vết tích cũ trong thành.

Trong hai thế kỷ XIV và XV, thành Thuận Châu được người Việt sử dụng để trở thành lỵ sở của một huyện: huyện Thuận Xương (Vũ Xương). Thủ phủ Thuận Châu chấm dứt vai trò của mình kể từ khi Nguyễn Hoàng xây dựng dinh thự nhà chúa ở Ái Tử (1558) và chính thức hoang phế từ cuối thế kỷ XVIII.

tungvk1781
15-07-2011, 14:03
1-15-1 Thành Hồ

Thành Hồ còn được gọi là thành An Nghiệp, án ngữ phía bắc sông Đà Rằng, thuộc xã An Nghiệp, huyện Tuy Hòa (nay thuộc thị trấn Phú Hòa, huyện Phú Hòa, Phú Yên). Tuy hiện thành chỉ còn là phế tích, nhưng đây từng là vị thế hiểm yếu về quân sự chính trị của vương quốc Chăm Pa.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-15-1.jpg

Từ sau cuộc chinh phạt của vua Lê Thánh Tông năm 1471, với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, nhà vua đã cho cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông đến chân đèo Cả lập nên một quốc gia riêng gọi là Hoa Anh, cử một hào trưởng địa phương làm Hoa Anh vương; lấy phần đất thượng nguyên phía tây quốc gia này lập thêm nước Nam Bàn, xem đây là vùng đệm ngăn cách Đại Việt với Chăm Pa từ miền núi sâu ra tận biển.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-15-2.jpg

Tuy nhiên, các vua Chăm Pa liên tiếp đem quân đánh phá cả Hoa Anh lẫn Nam Bàn, tái chiếm lại vùng đệm này, đồng thời ngưng trệ hẳn mọi hoạt động xây dựng đền tháp trên toàn bộ vương quốc để dốc sức dựng lên một thành lũy kiên cố, chống trả có hiệu quả nhằm bảo vệ phần lãnh thổ ít ỏi còn lại ở phía nam.

Thành Hồ có mặt trong tình thế mới xuất hiện mang tính giằng co quyết liệt này tại bờ bắc vùng hạ lưu sông Ba, nơi có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, không chỉ hiểm yếu về mặt quân sự mà cả thế đứng về chính trị và tiềm năng kinh tế.

Thành Hồ, được đự đoán có niên đại vào khoảng thế kỷ XIV-XV. Đầu thế kỷ XX, nhà khoa học người pháp H. Partmentier đã tiến hành khảo tả khu thành này. Thế nhưng, những ghi chép của ông về thành Hồ còn khá sơ sài và nhiều chỗ không chính xác. Thành Hồ nằm vào khoảng cây số 13-14 trên đường liên tỉnh số 7 từ thị xã Tuy Hòa đi Phú Bổn (nay là Krông Pa). Vị trí thành Hồ là nơi tiếp giáp giữa núi rừng Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Đà Rằng (sông Ba) bao la, màu mỡ. Tuy bị thiên nhiên bào mòn, bị thực dân Pháp lấy gạch đi làm công trình thủy lợi đồng cam… Thành Hồ hiện nay vẫn còn sừng sững nổi lên giữa vùng đồng bằng như những con đê lớn.

Thành có bình đồ hình chữ nhật, cao 3 - 5m, rộng 15 - 25m, bốn chòi canh ở bốn góc. Tường thành phía nam chạy dọc theo sông Đà Rằng, dài 825m, đã bị nước sông xói lở. Tường thành phía đông dài 732m, tường phía tây dài 940m, phía bắc dài 738m.

Bên trong vòng thành có một bức tường thành thứ năm chạy theo hướng bắc - nam, song song và cách tường thành phía đông 700m, chia khu thành làm hai phần đông và tây. Khu tây là thành nội, hẹp nhưng cao hơn thành ngoại phía đông, có mỏm sân cờ rộng 34 x 34m, cao 10m. Song song về phía ngoài và cách tường thành phía tây 28m, còn có một bức tường chắn thứ sáu, xây trên sườn núi như một lá chắn, dài 360m, gọi là thành chắn.

Thành Hồ có tất cả 8 cửa ra vào, rộng từ 6 - 14m, ngoài và trong thành có dấu vết những hào nước và ba hồ lớn. Mỗi phía thành có mở 2 cửa ra vào, gọi là cửa sinh và cửa tử. Cửa sinh dành để quân lính di chuyển hằng ngày, không có gì nguy hiểm nhưng lại được canh gác cẩn mật. Trái lại, cửa tử canh gác sơ sài.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-15-3.jpg

Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đem quân tiến vào Hoa Anh tấn công thành Hồ, tướng tiên phong là Cao Các mắc mưu lọt vào cửa tử nên bị tử nạn, cũng nhờ đó Lương Văn Chánh khám phá ra bí mật bố phòng của quân Chăm, thúc tướng sĩ xông vào các cửa sinh và triệt hạ được thành. Vua Chăm Pa là Pô Át (1553 - 1579) có lẽ đã chết trong thời điểm này.
Trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, Chăm Pa vẫn tiếp tục phản công hòng chiếm lại vị trí hiểm yếu đã mất này, song không còn cơ hội để thực hiện.

Vua Po Nít (1603 - 1613) phải từ bỏ Hoa Anh rút vào phía nam đèo Cả. Năm 1611, phủ Phú Yên xuất hiện tên trên địa bạ hành chính thuộc danh mục "đất mới mở" của chính quyền chúa Nguyễn Đàng Trong. Một cột mốc quan trọng được đánh dấu tại đây trong công cuộc mở đất hướng về phương nam của dân tộc.

taodan
03-09-2011, 20:29
Một kho tài liệu quý giá, bác mô đó học ngành xã hội có thể chọn đề tài Thành Cổ làm đồ án tốt nghiệp được ấy chứ. Cám ơn các bác.

xiphe
12-09-2011, 10:43
Bác có tài liệu Thành Nhà Hồ ở Thanh Hóa không. Mới được công nhận di sản UNESCO đó.

kephieulang
12-09-2011, 18:23
Thông tin của bác rất hay, đọc và thấy được mỗi giai đoạn lịch sử liên quan của VN.

Tiếp tục phát huy bác nhé

tungvk1781
13-09-2011, 14:49
2 - Thành lũy Việt Nam trước thời Nguyễn

2-1 : Thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, là kinh đô của nhà nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó), dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân (tên nước Việt Nam thời đó) dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-1-1.jpg

Từ khi dựng nước, các vua Hùng đã xây dựng kinh đô tại Bạch hạc, Việt Trì. Đến đời Thục Phán dời Bạch Hạc xuôi dòng chọn vùng đất, gò đồi vây bọc ở trại Phong Khê quận Vũ Ninh (nay là Cổ Loa) để đóng đô. Trong công cuộc định đô này, Thục Phán phải bỏ rất nhiều công sức như việc chuyển dân đến để xây thành đắp lũy.

Thành rộng hơn ngàn trượng, như hình con ốc nên gọi Loa Thành, lại có tên là Tư Long. Thành cứ đắp xong lại sụt. Vua lấy làm lo, bèn sai khấn trời đất và thần linh sông núi rồi hưng công xây lại. Vòng thành chạy dài hàng chục km, đắp xoáy nhiều tầng. Chân thành cao tới hàng chục thước. Đồ sộ như vậy, nên thời Đường, người ta gọi là thành Côn Luân.

Với số dân it ỏi, công việc đắp thành thật quá sức. Người ta tưởng như có thần phù giúp, nên có truyền thuyết: Năm 255 TCN, An Dương Vương đang băn khoăn cứ xây thành xong lại đổ. Trong lúc ấy, có người xuất hiện - chỉ tay vào cổng thành nói: Thành này xây bao giờ mới xong? Vua gặng hỏi tại sao, người ấy đủng đỉnh trả lời: "Hãy đợi Giang sứ đến thì biết!". Nói xong, người ấy từ biệt đi ngay.

Sáng sớm hôm sau, Vua ra cổng thành thì thấy nổi lên một con rùa vàng tự xưng là Giang sứ và nói được tiếng người. Vua sai đặt Giang sứ vào chiếc mâm vàng để trước điện để giúp việc. Sau đó, Giang sứ giúp vua trị được yêu quái ở núi Thất Diệu (núi Sái). Từ đó, thành Cổ Loa xây đến đâu được đến đấy. Thành xây xong Giang sứ tặng cho Vua chiếc móng của mình để Vua chế nỏ thần chống giặc.

Vị thần kia là ai - nếu không phải là Huyền Thiền Thượng đế Đăng Ma Thiên Tôn. Còn Giang sứ là thần Kim Quy - một bộ tướng của Huyền Thiên Thượng Đế.

Hiện nay, ở núi Thất Diệu phía bắc thành Cổ Loa vẫn còn ngôi quán thờ Huyền Thiên. Quán ấy có tên "Huyền Thiên Đại Quán". Trong quán có tượng Huyền Thiên, tượng rùa và rắn giống như tượng thờ ở Trấn Vũ quán bên hồ Tây, Hà Nội.

Năm 1962, thành Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Vị trí địa lý

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-1-2.jpg

Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông Hoàng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình.

Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.

Qua con sông Hoàng, thuyền bè ngược lên sông Hồng là vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền ra đến biển cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.

Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.

Cấu trúc Thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ".

Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên, tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-1-3.jpg

Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác.

Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.

Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện còn 3 vòng thành. Chu vi vòng Ngoại 8km, vòng Trung 6,5km, vòng Nội 1,65km, diện tích trung tâm lên tới 2km2.

Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4m-5m, có chỗ cao đến 8m-12m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m.

+ Thành Nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m-12m, chân rộng từ 20m-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.

Hiện nay, qua cổng làng, cũng là cổng thành Nội là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan hội triều nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy".

Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu.

Đó chỉ là một am nhỏ nằm khiêm tốn dưới gốc đa với vẻ u tịch như muốn gợi về câu chuyện tình ngang trái cách đây hàng ngàn năm. Căn phòng trong cùng có một tảng đá là tượng Mỵ Châu.

Đây là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu cũng áo gấm khăn hoa mà linh hồn oan khuất, gợi lên trong lòng những thương cảm. Truyền thuyết kể rằng sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ. Ngay trước cửa am gắn một bia đá nhỏ khắc mấy câu thơ:

Đường ốc quanh quanh tới Cổ thành
Cây đa thiên cổ dáng còn thanh
Hồng hồng mũ ngọc. Người đâu vắng
Lạnh lạnh gươm thần. Đá vẫn xanh
Kẻ Việt người Tần khôn vẹn nghĩa
Khối tình chữ hiếu khó toàn danh
Ôi! Hồn ngọc tĩnh giờ lai láng
Làm khách đang yêu bước chẳng đành.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-1-4.jpg

Từ am Mỵ Châu đi sâu vào phía trong còn có chùa Bảo Sơn với nhiều tượng Phật hết sức sinh động với các tư thế, vẻ mặt khác nhau.

Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền là dựng trên nền nội cung ngày trước. Đền này mới trùng tu, tôn tạo đầu thế kỷ XX, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần.

Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng. Trước đền là Giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần.

Nơi đây, có đầy đủ các loại hình di tích: Đình, đền, chùa, am, miếu. Trong đó hàm chứa biết bao giá trị văn hóa Việt Nam qua bao thế hệ.

+ Thành Trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, chu vi 6.500m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.

+ Thành Ngoại không còn hình dáng rõ ràng, chu vi hơn 8.000m, cao trung bình 3m-4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.

Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch, vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi.

Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng.

Xét về mặt quân sự, thành Cổ Loa có các lợi thế:

- Quy mô lớn vào bậc nhất Đông Nam Á. Trải qua thời gian, chỗ cao nhất của thành hiện nay từ 7-8m, trung bình 3-4m. Chỗ rộng nhất của thành tới 50m, trung bình 20m. Niên đại của thành cách ngày nay tới hơn 2.200 năm.

- Địa thế vùng đồi già, cao so với đồng bằng xung quanh, nên dễ quan sát, lợi thế về quân sự.

- Các cửa thành bố trí so le, đường đi lối lại quanh co, gấp khúc, nhiều gò, đống, lũy, lạch nước rất thuận lợi cho việc phục kích khi giặc vào thành.

- Hào nước xung quanh vừa là chiến tuyến, vừa tạo điều kiện cho quân thủy và quân bộ phối hợp đánh địch. Bởi thế mạnh truyền thông của quân ta là thiện chiến và thủy binh sông nước.

- Vòng thành rộng Bắc hẹp Nam. Cửa Nam là đô hội, Bắc là bố phòng, thể hiện sự quan tâm xác đáng của người xưa.

- Các gò hỏa hồi của thành vừa có tác dụng báo hiệu canh giữ vừa tạo cho thành không có "tử giác".

tungvk1781
14-09-2011, 09:22
Giá trị của thành Cổ Loa

Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại, được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn. Các ụ, lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu.

Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh, khi tác chiến.

Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, xã hội đã có giai cấp rõ ràng hơn thời Vua Hùng.

Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa mai chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả làm nên nghệ thuật kiến trúc và văn hóa thời An Dương Vương.

Di vật khảo cổ

Trên khu vực thành Cổ Loa, các nhà khảo cổ đã khai quật được nhiều mộ cổ, hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh, rìu lưỡi xéo bằng đồng, tiền đồng, lưỡi cày, các vật dụng bằng gốm, đất nung và trống đồng Cổ Loa từ thời An Dương Vương.

Các nhà khảo cổ đã phát hiện được di tích nơi cư trú đã tồn tại trước khi xây dựng thành Cổ Loa thuộc buổi đầu thời đại đồ sắt.

Những phát hiện về khảo cổ những mũi tên đồng Cổ Loa cho thấy nhiều điều thú vị về người Việt cổ.
Khi phân tích, bằng những phương pháp vật lý hiện đại, những mũi tên cùng những hiện vật lưu trữ ở Viện Khảo cổ Hà Nội - tương tự như những cổ vật trên các hình ảnh chụp từ Bảo tàng Viện Lịch sử và Triển lãm tư nhân Vân - Hồ - nhờ sự ân cần của GS Hà Văn Tấn, thấy những mũi tên có chứa những thành phần kim loại tương tự như thành phần các trống đồng thời Đông Sơn, kể cả trống đồng Ngọc Lũ.

Những nguyên tố chính tìm được là đồng, chì, thiếc. Nhất là không có kẽm. Những kết quả tương tự cũng tìm thấy trong những vòng chân nữ tướng đào được trong những vùng lân cận, khác hẳn với các gương đồng, phần nhiều chỉ chứa nhiều nguyên tố đồng.

Khi so sánh tỉ mỉ với kết quả phân tích nguyên tố kể cả các nguyên tố phụ mà thành phần bé hơn một phần trăm những mũi tên đồng với các hiện vật và quặng trong các vùng địa dư khác nhau thì thấy rằng tên đồng là những sản phẩm bản địa.

Riêng trong các mũi tên đồng, còn tìm thấy nguyên tố sắt. Sự có mặt của sắt trong các mũi tên chứng tỏ rằng người Việt cổ đã biết luyện kim chứa một nguyên tố có nhiệt độ nóng chảy trên 1.500oC. Mục đích của họ chú ý làm cho có những mũi tên cứng mạnh, dễ xuyên sâu vào mục tiêu. Kỹ thuật luyện kim thời Việt cổ đã được thế giới chú ý từ một thế kỷ nay nếu chúng ta căn cứ trên những bài họ đăng trên các tạp chí chuyên môn.

Kỹ thuật luyện kim tân tiến trong thời Việt cổ còn tìm thấy trong những chiếc dao găm nữ tướng mà các phương pháp phân tích vật lý đã tìm ra nguyên tố titan. Người Việt cổ có lẽ chưa biết đích xác nguyên tố này nhưng nghệ nhân luyện kim đã gặp biết quặng chứa nguyên tố gì đó mà hai mươi thế kỷ sau này gọi là titan, sẽ đem lại một hợp kim cứng và nhẹ, thích ứng cho bàn tay người nữ tướng.

Đứng trước sự kiện kỹ thuật ấy, chúng ta không thể nào không kính phục và ngưỡng mộ tư duy và trình độ kỹ thuật của các nghệ nhân luyện kim thời Việt cổ.

Số lượng lớn các mũi tên đồng tìm được lại cho phép chúng ta khẳng định rằng ở thời Việt cổ vùng Cổ Loa đã có một lực lượng quân sự được phân thành đoàn tiểu xạ gồm nhiều tay nỏ, nếu ta lại căn cứ trên những lẫy nỏ Cổ Loa mà các nhà khảo cổ học vừa tìm thấy gần đây.

Những lẫy nỏ này tinh vi và bé hơn những nỏ tìm thấy ở các vùng thượng du, nơi các đồng bào tộc Mường hay nhiều tộc khác cư trú. Thời đó ở Bắc phương người ta hay dùng cung trong lúc người tộc Việt hay dùng nỏ.

Phải chăng những tay nỏ này rất thiện xạ, vì họ đã gây ra trong đối phương ấn tượng hãi hùng, như những nỏ thần, mà nỏ Kim Quy chỉ là một huyền tượng. Cách bắn nỏ tài ba đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong vùng Cổ Loa, có khi dùng trong quân đội chính triều, có khi trong những lực lượng đối lập, như ta đã biết, hơn mười thế kỷ sau An Dương Vương, vua Ngô Xương Văn - một trong hai vua anh em đồng kế vị Ngô Quyền, đã chết năm 965 sau Công nguyên, vì một mũi tên, cũng gần Cổ Loa, kinh đô thời ấy.

Những lẫy nỏ Cổ Loa tìm được cũng bằng hợp kim đồng. Khi bật - một lần lẫy chỉ phát một mũi tên. Tuy những lẫy nỏ này không phải từ nỏ của An Dương Vương nhưng cũng giúp làm sáng tỏ được huyền thoại nỏ thần.

Truyền thuyết về 'Độc nhãn long'

Nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành nhưng chưa có lời giải đáp cho hiện tượng cùng một địa hình mà hai hố đất gần nhau ở Khu di tích thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) một có nước một không, nên niềm tin về con mắt của “độc long nhãn” trong truyền thuyết xưa càng được củng cố.

Từ lúc được phát hiện tới nay, hai hố vẫn được cho là mắt rồng ở thành Cổ Loa (Đông Anh (Hà Nội), một vẫn đầy ắp nước bất kể mùa hạn hay mùa khô, một luôn khô cạn ngay cả những hôm trời mưa như trút.

Cuộc tranh hùng của 9 con rồng

“Hai mắt rồng” nằm ở khu vực đền Thượng - nơi tẩm cung của Thục phán An Dương Vương của Khu di tích Cổ Loa. Nhìn từ trên cao, đền Thượng dường như được đặt giữa trán rồng, phía trước có hai hố mắt, miệng là hồ bán nguyệt há ngậm viên ngọc - giếng nước nằm trong lòng hồ này.

Truyền thuyết xưa kể rằng, thời An Dương Vương đã có một cuộc tranh hùng dữ dội của 9 con rồng - Cửu long tranh châu (chín con rồng tranh một hòn ngọc). Đây cũng chính là tiền thân của truyền thuyết về "độc nhãn long".

Truyện rằng, khi An Dương Vương lệnh cho các thầy địa lý tìm khắp cõi Âu Lạc xem đâu có thế đất thịnh vượng để dựng kinh đô. Sau hàng tháng trời tìm kiếm, các thầy báo về có một nơi được coi là đỉnh của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, là vị trí đắc địa bởi từ đây, có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định rời đô từ Phong Châu (Lâm Thao - Phú Thọ) về, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện - đền Thượng bây giờ.

Trong cuộc giao long, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Cũng có lời kể rằng, chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó. Sau đó, vua cho dựng chính điện trên đầu rồng.

Kỳ lạ con mắt phải

Thành Cổ Loa vốn tọa lạc trên nền địa chất khô và cứng vì thế phải đào sâu xuống khoảng 30-40m mới có nước. Thế nhưng, ở hai hố mắt trước cửa đền Thượng, với độ sâu chừng 2m, hố bên phải luôn đầy ắp nước là hiện tượng rất lạ.

Trước đây, Ban quan lý khu di tích thành Cổ Loa cũng vài ba lần tiến hành việc nạo vét lòng hồ bán nguyệt và hố đất bên phải nhưng không thực hiện được bởi khi đào được vài chục phân đất gặp ngay một mạch nước ở giữa giếng ngọc phun lên dữ dội.

Lý giải hiện tượng này, nhiều người đã đưa ra giả thuyết, người xưa khi xây dựng đền đã dựa vào địa thế địa hình thực tế. Việc tạo hai hố mắt trong khuôn viên của đền Thượng cũng tương tự. Hai hố mắt đó là có sẵn, chỉ việc khoét tạo hình cho hai hố đó cân xứng. Việc hố bên phải có nước, còn hố bên trái không có cũng rất tự nhiên, không hề có bàn tay can thiệp của con người.

Lại có người cho rằng, có thể những thợ xây dựng đền xưa đã áp dụng một công nghệ nào đó để tạo, dẫn và cân bằng mực nước trong hố mắt phải với mực nước bên hồ bán nguyệt phía trước cửa đền… Tuy nhiên, những giả thuyết này vẫn chưa thực sự thuyết phục.

Truyền thuyết về “rồng một mắt” càng có căn cứ khi gần đây các chuyên gia Việt Nam và Nhật Bản phối hợp tiến hành khai quật hố mắt bên phải, phát hiện một khối hình cầu màu đỏ giống quả cầu mây. Khối hình cầu này có đáy, tường bao quanh khum vào bên trong, có lỗ thông ra hai bên, phía trong “mắt” phải rồng có một lò nung nhỏ ở chính giữa. Niên đại của “con ngươi” mắt rồng đến nay chưa được xác định. Lạ kỳ hơn là dù đào sâu xuống bên dưới thì đoàn khảo cổ cũng không tìm được bất kỳ mạch nước hay “công nghệ” dẫn nước nào vào bên trong con mắt này.

tungvk1781
14-09-2011, 10:49
2-1 Thành Đại La

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-2-1.jpg

Thành Ðại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong. La thành có từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc, những căn cứ đã chiếm được đều đắp hai lần thành, thành ngoài gọi là La thành.

Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc, bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta, đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông Hồng, như Liên Lâu (Tiên Du, Bắc Ninh), rồi đến Long Biên (phía Bắc sông Ðuống).

Ðến đời Ðường, thường có quân Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn xuống, kéo đến vây đánh phủ Ðô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh.

Mậu Dần (618), Thái thú Giao Châu là Khâu Hòa “đắp thành nhỏ bên trong vòng quanh 900 bước để chống giữ quân Trường Châu.” Cứ theo quy định mỗi bộ là 6 thước, mỗi thước là 3cm thì thành nhỏ này có chu vi là 1.674m.

Năm Đinh Mùi (767), quân Côn Lôn và Chà Và đến đánh Châu Thành. Kinh lược sứ là Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy Châu Vũ Định là Cao Chính Bình đánh tan quân Côn Lôn và Chà Và ở Chu Diên. Trương Bá Nghi đắp lại La Thành.

Năm Tân Mùi (791), Triệu Xương nhà Đường sang làm Đô hộ. Xương đắp thêm La Thành cho kiên cố hơn.

Năm Quý Mùi (803), đô đốc Bùi Thái sai san phẳng Câu địa thành ở trong thành, hợp làm một thành.

Năm Mậu Tý (808), Trương Chu làm đô hộ Giao Châu đắp thêm thành Đại La, đóng 300 chiếc thuyền dài, mỗi chiếc thuyền có 25 người chiến thủ, 23 người tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi, đi nhanh như gió.

Năm 824, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đóng ở thành ngày nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thày xem đất bảo rằng: sức ông không đắp nổi thành lớn, độ 50 năm nữa về sau tất có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Trung, Cao Biền đắp La Thành đúng như lời ấy).

Năm Mậu Dần (858), Vương Thức làm Kinh lược Giao Châu. Thức là người có tài lược, đến phủ sai trồng cây táo làm hàng rào, bên ngoài đào hào sâu để thoát nước trong thành, bên ngoài hào trồng tre gai, giặc không thể xâm phạm được.

Ðến năm 866, nhà Ðường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm Tiết độ sứ. Cao Biền là một tướng có nhiều tài lược và mưu trí, đã dùng nhiều thủ đoạn để loè nạt dân chúng, như việc phá những thác ngầm ở dọc sông: đêm đến, hắn cho đục đá đặt thuốc nổ, làm nổ tung những thác ấy, rồi nói phao lên là vì trời giúp vua Ðường sai thiên lôi xuống phá thác, làm cho nhân dân sợ hãi.

Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại thành Ðại La, bốn mặt dài hơn 1.982 trượng linh 5 thước, cao 2 trượng linh 6 thước. Muốn ngăn ngừa không cho nước sông Tô, sông Hồng tràn vào phủ trị, Cao Biền lại cho đắp một đường đê bao bọc ở ngoại thành, dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng, dày 2 trượng, trong thành cho nhân dân làm nhà ở hơn bốn chục vạn nóc. Ðường đê bao ngoài thành gọi là Ðại La thành, cũng gọi là Ngoại La thành.

Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian ta vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như nói Cao Biền thấy ở đất Giao Châu ta có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu.

Vì vậy, ở nông thôn, làng nào có nhiều giếng khơi, người ta vẫn nói đó là giếng do Cao Biền đào ra. Lại như, mỗi khi thấy người nào yếu sức, tay chân cử động run rẩy, thường vẫn nói câu đã gần thành tục ngữ: "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non".

Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh" nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc một trăm lần thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hoá thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững.

Lại còn chuyện nói Cao Biền đắp La thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở; một đêm Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo cho Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Ðền thờ ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm.

Từ năm 939, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bắt đầu độc lập tự chủ, nhưng đời Ngô Vương Quyền lại đóng đô ở Cổ Loa, hai đời Ðinh, Lê thì đóng đô ở Hoa Lư, thành Ðại La trở nên hoang phế. Mãi đến năm 1010, Lý Thái Tổ mới dời kinh đô đến đó, nhưng lại đắp một thành khác nhỏ hẹp hơn gọi là thành Thăng Long.

Nền cũ của thành Ðại La, phần lớn không còn lại dấu vết, chỉ còn nhận thấy những khoảng từ Thanh Nhàn (giáp Thanh Trì) đi lên cửa ô Cầu Dền sang ô Chợ Dừa, rồi thẳng đến ô Cầu Giấy, ngược lên đến làng Bưởi. Năm kia, ta đã cho theo dấu cũ ấy, sửa chữa lại nhiều nơi, đắp cao lên làm thành thân đê, đề phòng nạn lụt. Còn phần đê La Thành về phía sông Hồng, từ đời Lý đã nhập vào với đê Cơ Xá, và từ đời Trần đã nhập vào với đê Quai Vạc, chuyên ngăn nước sông Hồng.

Ðê Ðại La thành này khi còn động lực giữ việc chống nước lụt cho nội thành, thường bị sạt lở. Năm 1243, đời vua Thái Tôn nhà Trần, nước sông Hồng lên to quá, phá vỡ một đoạn thân thành, làm cho nội thành bị ngập lụt. Cũng từ đó, các đời vua Trần mới nghĩ đến việc đắp đê quai vạc suốt từ đầu nguồn trở xuống cho đến miền bể, dọc hai bên bờ sông Hồng.

Bài thơ "Ðiếu cổ La thành" của nhà thơ Tế Xuyên, đời cuối Lê đã mai mỉa dã tâm xâm lược của Cao Biền, tốn công, nhọc lòng đắp nên thành ấy, kết cục bọn phong kiến thống trị Trung Quốc đều phải diệt vong. Sau chiến công trên sông Bạch Ðằng năm 939, nước ta hoàn toàn tự chủ. Bài thơ đại ý như sau:

"Ðại La thành tốn công xây,
Cao Biền tưởng chiếm đất này dài lâu.
Nào ngờ mấy chục năm sau,
Vùi quân xâm lược dòng sâu Bạch Ðằng"

tungvk1781
26-09-2011, 09:30
Phần này thuộc về thành cổ Champa, nhưng không thể chèn lên trước được, nên mình tạm post vào đây.

1- Thành Sông Lũy

Thành Sông Lũy nằm ở khu vực đồng bằng tiếp giáp với đồi núi về phía tây. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, thành thuộc làng Giang Tây, xã Vĩnh An, huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận (ngày nay là thôn 2, xã Sông Lũy, huyện Bắc Bình).

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-18-1.jpg

Thành nằm bên hữu ngạn con Sông Lũy, đây là con sông mà khi xây dựng thành, các nhà địa lý và kỹ thuật quân sự của người Chăm xưa đã lựa chọn địa bàn rất kỹ, sử dụng điều kiện địa lý tự nhiên sẵn có của con sông để bảo vệ mặt bắc của thành. Vì thế người Việt gọi tên là thành Sông Lũy. Tên gọi chính thức của thành không rõ ràng. Theo H. Parmentier, cuối thế kỷ XIX khi đến đây khảo sát đã chỉ định tên thành là Bal Battinon hay Ban Hanơn.

Thiết kế nguyên thủy và cấu trúc của thành là một hình tứ giác khá cân; mặt đông và tây gần như chính hướng, mặt bắc và nam trẹo hiện rõ rệt mà chúng ta không hiểu được lý do, và cũng không biết ngụ ý của những nhà thiết kế thành vì mục đích quân sự ở thời điểm bấy giờ. Thành lũy được đắp bằng đất, đá và sỏi. Đây thực chất là một pháo đài quân sự kiên cố, một lâu đài phong kiến của người Chăm tồn tại trong nhiều thế kỷ.

Qua hơn 500 năm tồn tại, thành Sông Lũy đã bị hủy hoại hư hại quá nhiều, một số đoạn tường thành gần như bị sạt lở hoàn toàn, chỉ còn lại nhiều đoạn thành đứt quãng lộ các lớp đất đá lởm chởm bên trong. Do đó khó có thể hình dung ra cấu trúc của thành. Hiện nay ở mặt tây và nam ở khoảng giữa còn khá rõ dấu vết nổi lên của hai mũi bờ thành đất nhô ra 20 m về hướng tây, đây có thể là các cửa thành và chứng tỏ thành được đặc biệt chú ý bố phòng ở các cửa ra vào. Thành lũy có bốn cạnh không đều nhau, các mặt đông và tây nằm đúng hướng, còn mặt bắc và nam hơi chệch nhiều. Ở mặt tây nam còn lại dấu vết của những lũy pháo đài làm bằng những ụ đất đắp lẫn sỏi cao từ 6 - 7m. Bên kia Sông Lũy cũng còn lại những bức thành tương đối rộng. Thành có quy mô lớn, kỹ thuật xây dựng rất khoa học và vững chắc.

Các góc cạnh uốn cong hình cánh cung nên đứng trên cao nhìn ta sẽ thấy thành Lũy có hình tròn. Từ bờ thành mặt tây kéo dài từ bắc sang nam đến bờ thành bắc có chiều dài 910 m, đường kính giữa bờ thành tây sang giữa bờ thành đông là 950 m. Diện tích thành gần 10 km2, đây là thành tương đối lớn của vương quốc Champa. Hiện nay tòa thành cổ Sông Lũy đã và đang bị mở đường giao thông vì cuộc sống dân sinh, đã cắt đứt thành cổ ra nhiều đoạn.

Nội thành hiện nay tập trung dân cư khá đông đúc và là nơi đóng trụ sở UBND xã Sông Lũy. Vì vậy, thành nội của thành Sông Lũy hiện nay không còn lại các dấu vết trước đây của người Chăm.

Vòng đai nằm trên bề mặt Sông Lũy với mục đích là để chống đỡ mặt tiền hướng bắc và có tên từ địa bàn thực tế đó (Sông Lũy tức là sông của thành lũy). Con sông này chỉ là dòng suối dài có bờ rãnh cao bao quanh và chia ra nhiều đập ngăn tự nhiên bằng đá sỏi về mùa khô. Nhưng về mùa mưa, nước từ rừng đổ về ngày một lớn dần thì nó là dòng nước chảy xiết và là sự chống đỡ phòng ngự rất chắc chắn của thiên nhiên, khiến cho đối phương không dám tấn công vào hướng này.

Sau hàng trăm năm tồn tại không được trông nom, trong tình trạng hoang phế, ngày nay các pháo đài đã bị mưa nắng bào mòn dần, không nhìn thấy chính xác một pháo đài nào nữa, mà chỉ gồm những bờ đất dốc lẫn đá cuội. Một số đoạn thành đã bị người dân đào lấn vào sâu, tận dụng xây nhà cửa. Một số đoạn khác bị đào sâu xuống đến ngang mặt đất trước lúc xây thành để làm đường giao thông.

tungvk1781
26-09-2011, 16:02
2-3 Thành Thăng Long

Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Hà Nội bắt đầu từ thời kỳ từ tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.

Chiếu dời đô.

Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong nạn 12 sứ quân, xây dựng nền thống nhất quốc gia. Năm sau, năm 968, ông lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư. Thực ra Hoa Lư thuở đó tuy giao thông thủy bộ cũng thuận lợi nhưng chưa phải là 1 trung tâm kinh tế hoặc văn hóa lớn. Mới đó là 1 vùng núi non hiểm trở, thuận tiện cho việc phòng giữ, tự vệ về mặt quân sự hơn là hoạt động kinh tế. Và Đinh Bộ Lĩnh đã chọn nơi ấy làm kinh đô.

Triều Đinh rồi triều Lê sau 50 năm xây dựng chính quyền đã củng cố vững vàng chế độ trung ương tập quyền, ổn định được đời sống chính trị. Nền kinh tế bước đầu phát triển. Do không bị xáo trộn về chiến tranh nên sản xuất nông nghiệp được mở rộng (nhà nước cũng khuyến khích nghề nông, vua Lê Đại Hành từng đích thân đi cày ruộng tịch điền ở núi Đọi và núi Bàn Hải). Các nghề thủ công cổ truyền như nghề gốm, nghề dệt, nghề đúc đồng cũng phát triển. Nhiều công trình đào kênh, khai sông để mở mang về giao thông đường thủy - và cả để tưới nước, tiêu nước cho đồng ruộng – được tiến hành, nhờ đó thuyền bè qua lại giữa khoảng lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam được thuận tiện. Những con đường bộ cũng được mở thêm, bồi đắp và trên những trục chính có đặt hệ thống trạm dịch. Các con đường thủy bộ ấy thực sự đã tạo điều kiện cho mở rộng thêm mối giao lưu kinh tế trong nước. Cho nên có thể nói rằng sang đời Lý (tức từ năm 1009) công việc xây dựng đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của quốc gia phong kiến độc lập. Không thể tiếp tục đặt kinh đô, đầu não của quốc gia ở vùng núi non hiểm trở nên mùa đông năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi vua thì mùa thu năm sau ông đã quyết định dời kinh đô về thành Đại La. Ông ban bố một bài chiếu gọi là “Chiếu dời đô” (thiên đô chiếu).

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-1.jpg

Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu (遷都詔) là một đoạn văn được Ngô Sỹ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong Đại việt sử ký toàn thư, đoạn văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).

Bản chữ Hán:

昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙� �豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。� ��其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上 謹天命。下因民志。苟有便輒改。故� �祚 延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇� �私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥� ��于茲。致世代弗長。算數短促。百姓 耗損。万物失宜。朕甚痛之。不得不� �。

况高王故都大羅城。宅天地區域之中� �得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。� ��江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土 高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極� �阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四� ��輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

Bản phiên âm Hán-Việt:

Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?

Bản dịch tiếng Việt:

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.

Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)

tungvk1781
26-09-2011, 16:12
Lộ trình dời đô của Lý Thái Tổ

Sử Toàn thư có ghi: “Mùa thu tháng bảy năm canh Tuất (1010) vua dời đô từ thành Hoa Lư sang thành Đại La, thuyền tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện ra trên thuyền ngự, dó đó đổi gọi là thành Thăng Long”.

Như thế thì lần dời đô của vua Lý đã đi theo đường thủy và đi vào cuối mùa hè. Chọn lộ trình và thời điểm như vậy hẳn là ông lợi dụng mùa nước lên để không lo bị mắc cạn, cũng như lợi dụng mùa gió nồm để buồm được no gió, đỡ nhiều công chèo chống.

Nhưng, ông và xa giá hoàng tộc, quan quân, tóm lại là bốc cả một triều đình ra Bắc theo những nẻo đường nào? Đành là đường thủy nhưng sông nước ra sao? Gần đây trên báo chí và một số cuộc hội thảo đã tững có những ý kiến về vấn đề này. Có một điều mọi người nhất trí là chắc chắn đoàn thuyền ngự phải từ Thành Ngoại ra sông Hoàng Long rồi ra sông Đáy, cụ thể là tới ngã ba Gián Khẩu.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-2-1.jpg

Tới đây mới nảy sinh những ý kiến khác nhau về lộ trình dời đô. Có 4 giả thuyết:

1. Theo đường biển:

Một vài người nếu ý kiến là để phô trương thanh thế, đoàn thuyền ngự sẽ từ ngã ba Gián Khẩu đi xuôi ra cửa sông Đáy từ cửa Đại Ác (sau đổi ra là Đại An) rồi men theo bờ biển ngược qua cửa Lạch Giang (cửa sông Ninh Cơ), đi dọc bờ biển Hải Hậu, Giao Thủy tới cửa Ba Lạt rồi vào sông Hồng ngược lên Đại La.

2. Theo đường sông 1:

Một vài người đề xuất ý kiến là từ ngã ba Gián Khẩu, đoàn thuyền ngự cũng xuôi dòng Đáy, nhưng đến Độc Bộ tức chỗ giao nhau giữa sông Đáy và Sông Vị Hoàng (còn gọi là sông Nam Định hoặc sông Đào) thì đi vào sông này, ngược lên nơi này là thành phố Nam Định rồi ra sông Hồng để lên Đại La.

3. Theo đường sông 2:

Có người lại nêu là từ Gián Khẩu thuyền ngự đi ngược lên tới nơi nay là Phủ Lý (chỗ sông Đáy gặp sông Nhuệ) rồi theo sông Nhuệ mà ngược lên vùng Hà Liễu (Thường Tín) thì rẽ vào sông Tô Lịch để lên Đại La.

4. Theo đường sông 3:

Là giả thuyết của tác giả, đề xuất lộ trình như sau: Gián Khẩu – Phủ Lý rẽ vào sông Châu, ra sông Hồng ở nơi nay là xã Tắc Giang rồi ngược lên Đại La.

Dưới đây sẽ bàn về các giả thuyết trên.

1. Theo đường biển: nếu theo đường này thì lộ trình sẽ đòi hỏi rất nhiều ngày vì như vậy là coi như đi trọng một đường vòng thúng, lại đầy nguy hiểm, thiếu an toàn, ai tính được những bất ngờ có thể gây tai nạn trên biển nhất là mùa mưa tháng 7. Một vị vua sáng suốt, định liệu công việc như thần thì không bao giờ lại lãng phí thời gian và phiêu lưu mạo hiểm như vậy. Vả lại đi dọc vùng hạ bạn tiêu sơ và ven biển thì có gì mà phô trương.

2. Theo đường sông xuôi xuống Độc Bộ rồi rẽ sang sông Đào ra Nam Định thì vẫn là đi vòng, nhất là dường như sông Đào sớm lắm cũng mới được đào vào đời Trần. Song dù thời Lý đã có sông này thì đường vẫn là quá dài, hành trình cũng kéo dài, bất lợi về hậu cần và ảnh hưởng đến tính an toàn của chuyến đi. Ngoài ra, lại là mùa nước lên, gió nồm thổi mạnh, rất gây khó khăn cho đoàn thuyền từ Gián Khẩu đến Độc Bộ, theo độ đo ngày nay dài tới 20 km, chèo bơi ngược gió cùng phải trọn một ngày trời.

3. Theo đường sông, ra tới Phủ Lý rồi theo sông Nhuệ, rẽ vào sông Tô lên Đại La. Như vậy thì không phải đi vòng về phía nam như hai giả thuyết trên, song trong thực tế khó có thể là con đường sông cho một đoàn thuyền ngự dời đô, vua quan, hoàng tộc, binh sĩ… phải có tới hàng trăm chiếc thuyền là ít. Vì sông Nhuệ cho tới nay vẫn là con sông nhỏ lại có nhiều khúc quanh co, ngay ngày nay vẫn còn có những đoạn cong vòng thúng ở Viên Hoàng (Phú Xuyên), ở Liễu Viên (Thường Tín)… Cách đây ngàn năm hẳn nhiều vòng cong hơn, sau này theo thời gian với hiện tượng cướp dòng, sông mới tạm thẳng như hiện nay. Và cả sông Tô Lịch cũng vậy, thuở xưa có nhiều khúc uốn, sau mới có việc cướp dòng, dòng cũ thành ra các hồ Linh Đàm (Thanh Trì), Thượng Thanh (Thanh Oai). Ấy vậy mà nay sông Tô Lịch vẫn còn nhiều khúc cong nhất là đoạn sắp đổ vào sông Nhuệ như từ Quang Liệt vòng xuống Ngọc Hồi rồi làm một hình vòng thúng qua Thọ Am, Nội Am (Thanh Trì) đến Duyên Trường (Thường Tín) lại bẻ quặt ngang sang Nhị Châu rồi lại làm một đường vòng thúng xuống Hà Liễu.
Nêu vài ý kiến để nói rằng dòng Nhuệ và dòng Tô đến nay còn quanh co khuát khúc như thế huống chi ngàn năm xưa, các dòng chưa kịp cướp các khúc cong (như sông Hồng đã cướp khúc cong Hồ Khẩu, để rớt lại Hồ Tây). Và nếu cơ bản hơn là thuở xưa, ít ra là thế kỉ này, Lịch Đào Nguyên-một học giả Trung Quốc khoảng 515 – 526 đã soạn một sách riêng về sông ngòi của Trung Quốc và các “thuộc địa” trong đó có Việt Nam, tên là Thủy kinh chú. Thực ra ở sách này Lịch Đào Nguyên làm việc chú giải bộ Thủy Kinh do Tạng Khảm soạn từ đời Hán. Thủy Kinh chú 40 tập thì ở tập 37 tác giả chú giải về sông Diệp Du – tức sông Hồng với 5 nhánh chính, tất nhiên gọi bằng các tên như sông phía Bắc, sông phía Tả, sông giữa, sông Dài… May có học giả Đào Duy Anh đã nghiên cứu, so sánh các sách kim cổ Đông Tây và tìm ra đó là các sông Cà Lồ, sông Thiếp, sông Đuống, sông Hồng và sông Đáy. Không có sông Nhuệ. Tức là khi đó sông Nhuệ chưa đáng kể hoặc mới chỉ là những đoạn ngắn chưa nối liền với nhau.

4. Cho nên chúng tôi cho rằng lộ trình dời đô của Lý Công Uẩn phải là sông Đáy – sông Châu – sông Hồng rồi kết thúc là sông Tô. Đó là một lộ trình ngắn nhất, an toàn nhất.

Ngày ấy, kinh thành Hoa Lư có 2 khu vực Thành Ngoại ở phía Đông, nay gồm các làng Yên Thượng, Yên Hạ, Yên Thành; Thành Nội ở phía Tây nay là làng Chi Phong. Con ngòi Sào Khê quanh co lượn khúc nối kinh thành với sông Hoàng Long. Thực ra Hoa Lư không chỉ là 1 căn cứ bộ binh mà còn là một căn cứ thủy quân. Có thể là đoàn thuyền vua Lý xuất phát ngay ở khu Thành Ngoại, ở chính tại ghềnh Tháp nơi từ thuở vua Đinh lính thủy thường tập trận. Theo dòng Sào Khê ra sông Hoàng Long chỉ cần khoảng thời gian ăn xong một miếng trầu (tất nhiên ngày đó Sào Khê và Hoàng Long chưa cạn và hẹp như ngày nay). Bến sông đó sau có chợ nên được gọi là bến chợ Trường Yên. Tương truyền vào thời mà Hoa Lư còn là kinh đô thì bến này khá đông vui, quanh bến có những địa điểm mà tên gọi sau này cũng thấy có ở Thăng Long: Cầu Dền, Đình Ngang, chùa Một Cột…


Từ bến sông Hoàng Long, thuyền trở lại xuôi về Đông, tới ngã ba Gián Khẩu – chỗ sông Hoàng Long hòa nước vào sông Đáy – thì thuyền đi vào Đáy và ngược dòng lên hướng Bắc. Tháng 7 âm lịch, gió nồm nên đi ngược cũng không khó khăn gì. Tới chỗ nay là thị xã Phủ Lý thì là ngã ba sông Châu.

tungvk1781
26-09-2011, 16:16
Lộ trình dời đô của Lý Thái Tổ

Sử Toàn thư có ghi: “Mùa thu tháng bảy năm canh Tuất (1010) vua dời đô từ thành Hoa Lư sang thành Đại La, thuyền tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện ra trên thuyền ngự, dó đó đổi gọi là thành Thăng Long”.

Như thế thì lần dời đô của vua Lý đã đi theo đường thủy và đi vào cuối mùa hè. Chọn lộ trình và thời điểm như vậy hẳn là ông lợi dụng mùa nước lên để không lo bị mắc cạn, cũng như lợi dụng mùa gió nồm để buồm được no gió, đỡ nhiều công chèo chống.

Nhưng, ông và xa giá hoàng tộc, quan quân, tóm lại là bốc cả một triều đình ra Bắc theo những nẻo đường nào? Đành là đường thủy nhưng sông nước ra sao? Gần đây trên báo chí và một số cuộc hội thảo đã tững có những ý kiến về vấn đề này. Có một điều mọi người nhất trí là chắc chắn đoàn thuyền ngự phải từ Thành Ngoại ra sông Hoàng Long rồi ra sông Đáy, cụ thể là tới ngã ba Gián Khẩu.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-2-1.jpg

Tới đây mới nảy sinh những ý kiến khác nhau về lộ trình dời đô. Có 4 giả thuyết:

1. Theo đường biển:

Một vài người nếu ý kiến là để phô trương thanh thế, đoàn thuyền ngự sẽ từ ngã ba Gián Khẩu đi xuôi ra cửa sông Đáy từ cửa Đại Ác (sau đổi ra là Đại An) rồi men theo bờ biển ngược qua cửa Lạch Giang (cửa sông Ninh Cơ), đi dọc bờ biển Hải Hậu, Giao Thủy tới cửa Ba Lạt rồi vào sông Hồng ngược lên Đại La.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-3.jpg

2. Theo đường sông 1:

Một vài người đề xuất ý kiến là từ ngã ba Gián Khẩu, đoàn thuyền ngự cũng xuôi dòng Đáy, nhưng đến Độc Bộ tức chỗ giao nhau giữa sông Đáy và Sông Vị Hoàng (còn gọi là sông Nam Định hoặc sông Đào) thì đi vào sông này, ngược lên nơi này là thành phố Nam Định rồi ra sông Hồng để lên Đại La.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-4.jpg

3. Theo đường sông 2:

Có người lại nêu là từ Gián Khẩu thuyền ngự đi ngược lên tới nơi nay là Phủ Lý (chỗ sông Đáy gặp sông Nhuệ) rồi theo sông Nhuệ mà ngược lên vùng Hà Liễu (Thường Tín) thì rẽ vào sông Tô Lịch để lên Đại La.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-5.jpg

4. Theo đường sông 3:

Là giả thuyết của tác giả, đề xuất lộ trình như sau: Gián Khẩu – Phủ Lý rẽ vào sông Châu, ra sông Hồng ở nơi nay là xã Tắc Giang rồi ngược lên Đại La.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-6.jpg

Dưới đây sẽ bàn về các giả thuyết trên.

1. Theo đường biển: nếu theo đường này thì lộ trình sẽ đòi hỏi rất nhiều ngày vì như vậy là coi như đi trọng một đường vòng thúng, lại đầy nguy hiểm, thiếu an toàn, ai tính được những bất ngờ có thể gây tai nạn trên biển nhất là mùa mưa tháng 7. Một vị vua sáng suốt, định liệu công việc như thần thì không bao giờ lại lãng phí thời gian và phiêu lưu mạo hiểm như vậy. Vả lại đi dọc vùng hạ bạn tiêu sơ và ven biển thì có gì mà phô trương.

2. Theo đường sông xuôi xuống Độc Bộ rồi rẽ sang sông Đào ra Nam Định thì vẫn là đi vòng, nhất là dường như sông Đào sớm lắm cũng mới được đào vào đời Trần. Song dù thời Lý đã có sông này thì đường vẫn là quá dài, hành trình cũng kéo dài, bất lợi về hậu cần và ảnh hưởng đến tính an toàn của chuyến đi. Ngoài ra, lại là mùa nước lên, gió nồm thổi mạnh, rất gây khó khăn cho đoàn thuyền từ Gián Khẩu đến Độc Bộ, theo độ đo ngày nay dài tới 20 km, chèo bơi ngược gió cùng phải trọn một ngày trời.

3. Theo đường sông, ra tới Phủ Lý rồi theo sông Nhuệ, rẽ vào sông Tô lên Đại La. Như vậy thì không phải đi vòng về phía nam như hai giả thuyết trên, song trong thực tế khó có thể là con đường sông cho một đoàn thuyền ngự dời đô, vua quan, hoàng tộc, binh sĩ… phải có tới hàng trăm chiếc thuyền là ít. Vì sông Nhuệ cho tới nay vẫn là con sông nhỏ lại có nhiều khúc quanh co, ngay ngày nay vẫn còn có những đoạn cong vòng thúng ở Viên Hoàng (Phú Xuyên), ở Liễu Viên (Thường Tín)… Cách đây ngàn năm hẳn nhiều vòng cong hơn, sau này theo thời gian với hiện tượng cướp dòng, sông mới tạm thẳng như hiện nay. Và cả sông Tô Lịch cũng vậy, thuở xưa có nhiều khúc uốn, sau mới có việc cướp dòng, dòng cũ thành ra các hồ Linh Đàm (Thanh Trì), Thượng Thanh (Thanh Oai). Ấy vậy mà nay sông Tô Lịch vẫn còn nhiều khúc cong nhất là đoạn sắp đổ vào sông Nhuệ như từ Quang Liệt vòng xuống Ngọc Hồi rồi làm một hình vòng thúng qua Thọ Am, Nội Am (Thanh Trì) đến Duyên Trường (Thường Tín) lại bẻ quặt ngang sang Nhị Châu rồi lại làm một đường vòng thúng xuống Hà Liễu.
Nêu vài ý kiến để nói rằng dòng Nhuệ và dòng Tô đến nay còn quanh co khuát khúc như thế huống chi ngàn năm xưa, các dòng chưa kịp cướp các khúc cong (như sông Hồng đã cướp khúc cong Hồ Khẩu, để rớt lại Hồ Tây). Và nếu cơ bản hơn là thuở xưa, ít ra là thế kỉ này, Lịch Đào Nguyên-một học giả Trung Quốc khoảng 515 – 526 đã soạn một sách riêng về sông ngòi của Trung Quốc và các “thuộc địa” trong đó có Việt Nam, tên là Thủy kinh chú. Thực ra ở sách này Lịch Đào Nguyên làm việc chú giải bộ Thủy Kinh do Tạng Khảm soạn từ đời Hán. Thủy Kinh chú 40 tập thì ở tập 37 tác giả chú giải về sông Diệp Du – tức sông Hồng với 5 nhánh chính, tất nhiên gọi bằng các tên như sông phía Bắc, sông phía Tả, sông giữa, sông Dài… May có học giả Đào Duy Anh đã nghiên cứu, so sánh các sách kim cổ Đông Tây và tìm ra đó là các sông Cà Lồ, sông Thiếp, sông Đuống, sông Hồng và sông Đáy. Không có sông Nhuệ. Tức là khi đó sông Nhuệ chưa đáng kể hoặc mới chỉ là những đoạn ngắn chưa nối liền với nhau.

4. Cho nên chúng tôi cho rằng lộ trình dời đô của Lý Công Uẩn phải là sông Đáy – sông Châu – sông Hồng rồi kết thúc là sông Tô. Đó là một lộ trình ngắn nhất, an toàn nhất.

Ngày ấy, kinh thành Hoa Lư có 2 khu vực Thành Ngoại ở phía Đông, nay gồm các làng Yên Thượng, Yên Hạ, Yên Thành; Thành Nội ở phía Tây nay là làng Chi Phong. Con ngòi Sào Khê quanh co lượn khúc nối kinh thành với sông Hoàng Long. Thực ra Hoa Lư không chỉ là 1 căn cứ bộ binh mà còn là một căn cứ thủy quân. Có thể là đoàn thuyền vua Lý xuất phát ngay ở khu Thành Ngoại, ở chính tại ghềnh Tháp nơi từ thuở vua Đinh lính thủy thường tập trận. Theo dòng Sào Khê ra sông Hoàng Long chỉ cần khoảng thời gian ăn xong một miếng trầu (tất nhiên ngày đó Sào Khê và Hoàng Long chưa cạn và hẹp như ngày nay). Bến sông đó sau có chợ nên được gọi là bến chợ Trường Yên. Tương truyền vào thời mà Hoa Lư còn là kinh đô thì bến này khá đông vui, quanh bến có những địa điểm mà tên gọi sau này cũng thấy có ở Thăng Long: Cầu Dền, Đình Ngang, chùa Một Cột…

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-7.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-8.jpg

tungvk1781
26-09-2011, 16:23
Từ bến sông Hoàng Long, thuyền trở lại xuôi về Đông, tới ngã ba Gián Khẩu – chỗ sông Hoàng Long hòa nước vào sông Đáy – thì thuyền đi vào Đáy và ngược dòng lên hướng Bắc. Tháng 7 âm lịch, gió nồm nên đi ngược cũng không khó khăn gì. Tới chỗ nay là thị xã Phủ Lý thì là ngã ba sông Châu.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-9.jpg

Thực ra thì đây phải là khu vực ngã tư sông, bởi sông Đáy từ vùng chùa Hương chảy về thì đón nước sông Nhuệ từ phía cầu Giẽ xuôi hòa nhập vào, đồng thời tách ra nhánh Châu Giang. Nước sông Châu là sông Đáy, sông Nhuệ cung ứng. (Đây là viết theo mục “sông Châu” trong phần “Hà Nội” của sách Đại Nam nhất thống chi. Song cũng sách này ở mục “sông Nhị” lại nói sông Nhị đến Yên Lệnh tách ra một nhánh tức sông Châu. Như thế thì sông Châu nhận nước sông Hông. Vấn đề này cần tìm hiểu thêm). Kể ra thì từ đây cũng có thể theo Sông Nhuệ lên Đại La, nhưng như đã nói ở trên, sông Nhuệ nhỏ hơn sông Hồng, làm giảm tốc độ lộ trình. Sông Hồng thì rộng rãi và thẳng tắp mà cả sông Châu thuở đó cũng khá rộng cho nên theo sông Châu ra sông Hồng là hợp lẽ. Đoàn thuyền ngự đến ngã tư này đã đi vào sông Châu.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-10.jpg

Chỗ ngã tư này là nơi giáp ranh 3 đơn vị hành chính: phường Lương Khánh Thiện của thị xã Phủ Lý, Thôn Ba của xã Phù Vân (huyện Kim Bảng) và xóm Bắc Sơn của xã Châu Sơn (cũng của huỵen Kim Bảng). Châu Giang thì nay là con sông đang thoi thóp thở vì nó không còn có thể gặp sông Hồng được. Trước đây thì sông Châu là một sông cũng khá lớn, nay cứ quan sát những vạt ruộng 2 bên bờ sông sẽ thấy những nơi thấp chính là một phần của dòng sông thời xưa, nhất là xem hai triền đê ở hai bên bờ sông thì cách nhau khá xa, đủ chứng tỏ là có thời lòng sông Châu khá rộng. Sông chảy về phía Đông, đổ ra sông Hồng, nhưng không chỉ một nhánh. Từ Phủ Lý đến nơi giáp ranh xã Tiên Phong (huyện Duy Tiên) và xã Bình Nghĩa (huyện Bình Lục) thì sông Châu đúng là chỉ một nhánh. Nhưng từ đây sông tách làm 2: một nhánh chảy ngược lên phía Bắc tới nơi giáp ranh hai xã Yên Nam và Trác Văn (Duy Tiên) thì quặt sang Đông, đổ vào sông Hồng ở chỗ nay là xóm Tắc Giang, thôn Lỗ Hà, Xã Chuyên Ngoại, làm ranh giới tự nhiên cho 2 huyện Duy Tiên – Lý Nhân; một nhánh từ xã Bĩnh Nghĩa chảy xuôi về Đông Nam làm ranh giới tự nhiên cho 2 huyện Bình Lục và Lý Nhân để rồi đổ ra sông Hồng ở xã Hòa Hậu (Lý Nhân). Nay nhánh sông phía bên trên đã bị con đê mới đắp thời Pháp thuộc chặn lại. Song chỗ cửa sông cũ (chỗ gặp sông Hồng) còn khá mênh mông.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-111.jpg

Ở nhánh dưới thì cũng xây cống với trạm bơm Hữu Bị. Do vậy, sông Châu không ra tới sông Hồng được nữa. Nhưng cách đây nghìn năm thì sự thông thương trên sông là tất nhiên. Và thuyền nhà Lý đã theo sông Châu Giang ra sông Hồng có thể theo 1 trong 2 nhánh nói trên.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-12.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-13.jpg

Thực ra sông Châu là một huyết mạch quan trọng, tính theo sông Đáy đây là con sông đầu tiên nối sông Đáy với sông Hồng. Cũng theo Toàn thư năm 987, vua Lê Đại Hành đi cày tịch điền ở núi Đọi thì rõ ràng là ông phải đi thuyền theo sông Đáy – sông Châu.

Năm 1044 khi Lý Thái Tông đi đánh Chiêm cũng từ Thăng Long ra cửa sông Đáy để ra biển vào Nam. Khi về ông có qua Hoa Lư và có ngủ đêm lại ở hành cung Lý Nhân. Như vậy hành trình của ông cũng là theo sông Đáy, sông Châu ra sông Hồng để lên

Từ đó có thể hiểu là thời Tiền Lê và thời Lý, dòng sông Châu là nẻo qua lại quen thuộc giữa Hoa Lư và Đại La – Thăng Long.

Như vậy, sông Hoàng Long – sông Đáy – sông Châu – sông Hồng là lộ trình dời đô của Lý Thái Tổ.
Nhưng đoàn thuyền ngự vào thành bằng nẻo nào? Toàn thư có ghi: “vua dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Thuyền tạm đỗ dưới thành”. Chi Tiết “thuyền tạm đỗ dưới thành” hóa ra lại cũng là vấn đề. Vì như vậy là đoàn thuyền ngự đỗ sát ngay dưới chân thành Đại La.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/PlandeThang-longdaprslaGographiedeHng-dc1490.jpg

Mà thành Đại La không hề ở bên bờ sông Hồng, mà ở bên bờ sông Tô. Thành Đại La coi như gần trùng với vị trí thành Nhà Nguyễn sau này mà nay ai cũng biết mặt Bắc nhìn ra sông Tô (phố Quán Thánh chính là chạy dọc bờ sông Tô). Các cuộc khai quật khảo cổ học trong các năm 2002 – 2003 ở khu 18 Hoàng Diệu đã có thêm những bằng chứng là thành Đại La nằm cùng khu vực với thành Nhà Nguyễn. Vậy năm 1010 trọng đại ấy, vùa Lý đã cho thuyền từ sông Hồng rẽ vào sông Tô, đến cửa Thành Đại La thì mới lên bộ mà vào thành. Con sông Tô ngày ấy chắc chắn vẫn còn là “Sông Tô nước chảy trong ngần/ Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa”.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-14.jpg

Như vậy, sông Tô đã nối dài thêm một đoạn cho lộ tình dời đô của Lý Thái Tổ.

tungvk1781
26-09-2011, 16:28
Vị trí thành Thăng Long

Trên thế giới, có nhiều kinh thành có lịch sử trên nghìn năm, nhưng thủ đô một nước hiện nay có bề dày lịch sử với vai trò trung tâm quyền lực gần 13 thế kỷ, trong đó có gần nghìn năm gần như liên tục là quốc đô thì rất hiếm. Tính liên tục và lâu dài của một trung tâm quyền lực cho đến ngày nay, đó là đặc điểm và giá trị lịch sử nổi bật của Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long.

Xin giới thiệu cùng bạn đọc bản nghiên cứu đồ sộ GS sử học Phan Huy Lê được trình bày tại Hội thảo khoa học quốc tế: "Nhận diện giá trị Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long sau 5 năm nghiên cứu, so sánh 2004 - 2008". Một bản nghiên cứu rất bổ ích, rất có giá trị, đáng để bạn đọc suy ngẫm và trân trọng.

Vị trí khu di tích trong cấu trúc kinh thành Thăng Long

Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long bao gồm khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và thành cổ Hà Nội. Khu di tích nằm giữa các phố Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn (trừ khu sẽ xây dựng Nhà Quốc hội), Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Nguyễn Tri Phương, với diện tích 18.395 m2.

Khu di tích nằm trong địa bàn trung tâm lịch sử và văn hoá của thủ đô Hà Nội. Trong khu vực này khảo cổ học đã phát hiện dấu tích cư trú sớm nhất của con người qua di tích văn hoá Phùng Nguyên tại lớp dưới của di tích đàn Xã Tắc (Đống Đa, Hà Nội) có niên đại khoảng giữa thiên niên kỷ II tr.Cn, trên một gò đất cao. Trong thời đại đồ đồng và đồ sắt sớm, cùng với quá trình bồi tụ, cư dân sinh sống ngày càng đông, kinh tế phát triển, kết hợp với vị trí giao thông thuận lợi, vùng đất này sớm trở thành một trung tâm chính trị, văn hoá quan trọng.

Thành Vạn Xuân, kinh đô của nhà nước độc lập do Lý Nam Đế thành lập vào thế kỷ 6, rồi phủ thành Tống Bình, phủ thành An Nam thế kỷ 7 - 9 mà tiêu biểu là thành Đại La thế kỷ 9, đều nằm trong khu vực này. Thành Đại La không những là thành luỹ quy mô lớn mà còn là một đô thị phồn thịnh bậc nhất của đất nước thời bấy giờ.

Mùa thu, tháng 7 năm Giáp Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ thành Hoa Lư (Ninh Bình) ra “thành Đại La” là “đô cũ của Cao Vương”[1] và đổi tên là thành Thăng Long. Từ đó cho đến cuối thế kỷ 18, thành Thăng Long liên tục giữ vai trò kinh đô của nước Đại Việt, tuy tên có thay đổi:

- Thành Thăng Long dưới triều Lý (1009 - 1226) từ năm 1010 cho đến đầu năm 1226, triều Trần (1226 - 1400) từ năm 1226 đến năm 1397.

- Năm 1397 đổi tên là Đông Đô vào những năm cuối triều Trần, rồi triều Hồ (1400 - 1407).

- Năm 1407 là thủ phủ của chính quyền đô hộ nhà Minh (1407 - 1427) với tên gọi là phủ thành Giao Chỉ, thường gọi là thành Đông Quan.

- Năm 1430 đổi tên là thành Đông Kinh, dưới triều Lê sơ (1428 - 1527) rồi triều Mạc (1527 - 1592), triều Lê Trung hưng (1593 - 1788). Trong thời gian này, tên Thăng Long vẫn được sử dụng và thế kỷ 17 - 18 còn có tên mang tính dân dã là Kẻ Chợ (trong tài liệu phương Tây thường phiên âm là Ca Cho).

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/PlandeThang-longdaprslaGographiedeHng-dc1490.jpg

Về mặt cấu trúc, kinh thành Thăng Long đã gồm ba vòng thành: vòng thành bảo vệ ngoài cùng gọi là thành Đại La hay La thành, vòng thành giữa thời Lý, Trần mang tên Long thành, Phượng thành hay Long Phượng thành và từ thế kỷ 15 thường gọi là Hoàng thành; vòng thành trong cùng thời Lý thường gọi là "vùng cấm" (Cấm trung, theo Đại Việt sử lược) hay Cấm thành (theo Đại Việt sử ký toàn thư), thời Trần là Cấm thành, thời Lê là Cấm thành hay Cung thành. Qua các thời kỳ lịch sử, La thành và Hoàng thành có nhiều thay đổi, nhất là lần mở rộng Hoàng thành về phía Tây Nam năm 1490, lần xây dựng và mở rộng Hoàng thành năm 1516, lần đắp thêm ba lớp lũy phía ngoài La thành, mở rộng lên phía Bắc bao gồm cả Hồ Tây năm 1588, lần thu hẹp La thành và Hoàng thành năm 1749, nhưng phần trung tâm phía Đông của Hoàng thành thì hầu như không thay đổi mấy. Đó là khu vực nằm khoảng giữa phố Thuốc Bắc về phía Đông, phố Phan Đình Phùng về phía Bắc, phố Nguyễn Thái Học về phía Nam và phố Sơn Tây về phía Tây.

Cấm thành nằm trong khu trung tâm phía Đông của Hoàng thành, về vị trí cũng như qui mô từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 13 cũng gần như không thay đổi. Đây là nơi làm việc của triều đình và các cơ quan quyền lực trung ương, nơi thiết triều, tiếp sứ thần các nước, nơi diễn ra các nghi lễ trọng thể của quốc gia và cũng là nơi ở, nghỉ ngơi của nhà vua và hoàng gia, cung nữ.

Các cung điện, lầu gác và cả qui hoạch bên trong Cấm thành có thay đổi qua các vương triều, có những lần bị tàn phá vì chiến tranh xâm lược hay những cuộc xung đột cung đình, qui mô cũng có thay đổi ít nhiều theo xu hướng mở rộng thêm.

Sử biên niên như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư... còn ghi chép những năm xây dựng, tu sửa các cung điện, lầu gác trong Cấm thành và những năm bị tàn phá rồi phải xây dựng, kiến tạo lại.

Ngoài tư liệu chữ viết, còn có một số bản đồ cổ mà sớm nhất Bản đồ thành Đông Kinh trong tập Bản đồ Hồng Đức được vẽ năm 1490 mà hơn 10 truyền bản còn bảo tồn đến nay phần lớn mang niên đại thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Theo tư liệu bản đồ này, Cấm thành có tường thành bảo vệ và gần như hình vuông. Chính giữa Cấm thành là điện Kính Thiên, phía Bắc bên phải là điện Chí Kính, bên trái là điện Vạn Thọ (nhìn theo hướng Bắc - Nam); phía Nam có Thị Triều rồi đến Đoan Môn, Đông Trường An, Tây Trường An. Trên bản đồ chỉ vẽ cửa Nam tức Đoan Môn có ba lớp cửa và cửa Tây mở về phía Tây Bắc. Phía Đông Cấm thành có Đông Cung và Thái Miếu. Tất nhiên đấy chỉ là một số kiến trúc cung đình tiêu biểu thời Lê.

Căn cứ vào bản đồ Hồng Đức và các sử liệu chữ viết, kể cả văn bia, địa chí, thơ văn, có thể xác định một cách tương đối phạm vi của Cấm thành như sau:

- Trung tâm của Cấm thành là điện Càn Nguyên/ Thiên An/ Kính Thiên. Đây là kiến trúc quan trọng bậc nhất của vương triều, nơi thiết triều của nhà vua và cử hành các nghi lễ quốc gia tiêu biểu, ở vào vị trí trung tâm của Cấm thành và xây dựng trên núi Nùng mang ý nghĩa phong thuỷ linh thiêng. Vì vậy điện Càn Nguyên, Thiên An và Kính Thiên đều xây dựng trên một địa điểm là Núi Nùng. Nền điện Kính Thiên hiện nay do nhà Lê xây dựng năm 1428 và bậc thềm 9 bậc với lan can đá chạm rồng dựng năm 1467. Kiến trúc đã bị phá huỷ năm 1886 nhưng nền điện với bậc thềm đá vẫn còn được bảo tồn đến nay. Đấy là tâm điểm của Cấm thành.


https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-15.jpghttps://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-16.jpg
Nền điện Kính Thiên hiện còn (trái) và trước khi bị phá (phải)

- Đoan Môn là cửa phía Nam của Cấm thành. Tư liệu lịch sử cho biết Đoan Môn từ thời Lý, qua thời Trần đến thời Lê, vị trí không thay đổi. Di tích Đoan Môn hiện còn, qua kết quả thăm dò khảo cổ học xác nhận kiến trúc này được xây dựng thời Lê sơ (thế kỷ 15) trên nền Đoan Môn thời Lý, Trần qua dấu tích và di vật phát hiện. Đấy là cửa trong cùng về phía Nam Cấm thành.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-17.jpghttps://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-18.jpg
Đoan Môn hiện nay (trái) và Đoan Môn cuối thế kỷ XIX (phải)

- Chùa Diên Hựu tức Một Cột hiện còn đã qua nhiều lần trùng tu và xây dựng lại, trong văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh do Nguyễn Công Bật soạn và khắc năm 1121 thời Lý, có đoạn chép: “hướng về vườn nổi tiếng ở Tây Cấm dựng chùa Diên Hựu” (hướng Tây Cấm chi danh viên xưởng Diên Hựu chi danh tự). Nếu hiểu “Tây Cấm” là phía Tây của “Cấm thành” hay “Cấm trung” thì chùa Một Cột ở vị trí phía Tây Cấm thành hay nói cách khác, giới hạn phía Tây của Cấm thành ở về phía Đông chùa Một Cột hiện nay.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-19.jpg
Chùa Một Cột (chùa Diên Hựu)

- Khán Sơn là ngọn núi nằm ở phía ngoài gần cổng Tây Bắc của Cấm thành. Điều đó được ghi nhận qua bản đồ Đông Kinh trong Bản đồ Hồng Đức. Nhưng sau khi xây thành Hà Nội thì Khán Sơn lại nằm bên trong thành Hà Nội ở góc Tây Bắc[2]. Khán Sơn nằm ở bên trong, vào góc Tây Bắc[3] của thành Hà Nội, tức khoảng gần góc Phan Đình Phùng - Hùng Vương hiện nay.

- Tam Sơn là ba gò đất gồm hai gò tự nhiên cách nhau chừng 2 trượng (66m) và một gò đắp thêm ở giữa, chu vi hơn 30 trượng (99m). Tam Sơn trước đây nằm ở phía Bắc Cấm thành. Sang đầu thế kỷ 19 khi xây thành Hà Nội, Tam Sơn bị san bằng nhưng các tài liệu địa chí cho biết vị trí ở bên trong thành Hà Nội, về phí Bắc, gần Cửa Bắc[4].

Qua hình dạng gần hình vuông, tâm điểm là nền điện Kính Thiên, phía Nam có Đoan Môn là cổng trong và Tam Môn ở vị trí Kỳ Đài (Cột Cờ) là cổng ngoài, tường phía Tây ở về phía Đông chùa Một Cột, phía Tây Bắc giáp góc Đông Nam Phan Đình Phùng - Hùng Vương và phía Bắc gần Tam Sơn ở bên trong Cửa Bắc (Chính Bắc Môn) trên phố Phan Đình Phùng. Từ những di tích hiện còn lấy làm vật chuẩn hay chỉ giới của Cấm thành, có thể xác định được vị trí, qui mô và phạm vi tương đối của Cấm thành. Tính toán trên bản đồ số của thành phố Hà Nội hiện nay, nếu tạm coi Cấm thành có hình vuông thì mỗi cạnh là gần 700m[5].

Trên cơ sở xác định Cấm thành như trên thì khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu ở về phía Tây của điện Kính Thiên khoảng 100m, hoàn toàn nằm trong phạm vi Cấm thành, chiếm một diện tích phía Tây của Cấm thành. Những di tích kiến trúc và di vật mà khảo cổ học phát hiện cũng chứng tỏ đây là khu di tích nằm trong Cấm thành qua nhiều thời kỳ lịch sử.

tungvk1781
26-09-2011, 16:31
Giá trị lịch sử của khu di tích

Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, kể cả di tích khảo cổ học phát hiện trong lòng đất và các di tích trên mặt đất, phản chiếu bề dày lịch sử gần như liên tục từ thủ phủ An Nam, thành Đại La thế kỷ 7 - 9 thời thuộc Đường, đến Cấm thành Thăng Long từ thời Lý qua Trần, Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng cuối thế kỷ 18, rồi thành Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn thế kỷ 19, qua thời Pháp thuộc cho đến hiện nay.

Trong Chiếu dời đô, vua Lý Thái Tổ gọi thành Đại La là “đô cũ của Cao Vương”. Đó là phủ thành An Nam do Tiết độ sứ Cao Biền xây dựng năm 866 trên cơ sở các phủ thành trước. “Thành mang tên La Thành, chu vi 1980 trượng 5 thước (6,139km), cao 2 trượng 6 thước (8,06m), chân thành rộng 2 trượng 6 thước (8,06m), bốn mặt xây nữ tường cao 5 thước 5 tấc (1,70m), 55 địch lâu (lầu quan sát địch), 5 môn lâu (lầu cửa), 6 ủng môn (cửa ống), 3 cửa nước, 34 đường bộ, lại đắp đê chu vi 2125 trượng 8 thước (6,589km), cao 1 trượng 5 thước (4,65m), chân đê rộng 3 trượng (9,30), lại dựng hơn 5000 gian nhà” [6]. Đấy là qui mô một toà thành khá lớn, chu vi hơn 6km tức gấp 1,5 lần so với chu vi tường thành bên trong của thành Hà Nội (4 km).

Trên diện tích 19,000m2 khai quật, khảo cổ học đã phát hiện ở tầng văn hoá lớp sâu nhất dấu tích kiến trúc và di vật thành Đại La gồm di tích bó nền, móng trụ, cống thoát nước, 3 giếng nước cùng các loại gạch, ngói màu xám, trong đó có gạch “Giang Tây quân", đầu ngói ống với những trang trí đặc trưng thời Đường. Như vậy khu di tích hoàn toàn nằm bên trong thành Đại La. Trên lớp di tích thành Đại La là lớp di tích Lý, trong đó có giếng nước Đại La bên trên có hàng gạch màu đỏ thời Lý, chứng tỏ nhà Lý đã xây dựng thành Thăng Long tại thành Đại La và lúc đầu có sự dụng một số kiến trúc của Đại La.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-20.jpghttps://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-21.jpghttps://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-22.jpg
Gạch "Giang Tây quân ", Ngói ống Đại La, Giếng nước Đại La

Giai đoạn Đinh (968 - 979) - tiền Lê (980 - 1009) cũng để lại dấu tích với những đồ gốm thế kỷ 10 và loại gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” tại kinh đô Hoa Lư của hai vương triều này.

Từ khi định đô Thăng Long năm 1010, vương triều Lý để lại những dấu tích kiến trúc dày đặc nhất trên toàn bộ diện tích khu di tích khảo cổ học. Đó là những di tích kiến trúc khá lớn 3 gian, 9 gian, 13 gian với những vì kèo 3, 6, 7 hàng cột có thể xác định qua các trụ móng cột kê chân đá tảng. Khảo cổ học còn tìm thấy nhiều kiến trúc lục giác với 6 trụ móng hình tròn xung quanh và 1 trụ móng hình vuông ở giữa và 1 kiến trúc bát giác qui mô lớn. Trong tầng văn hoá Lý còn tìm thấy hệ thống thoát nước, giếng nước và nhiều vật liệu kiến trúc đặc trưng thời Lý.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-23.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-24.jpg
Di tích kiến trúc và Di tích "Lầu lục giác"

Dấu tích kiến trúc Trần vừa có phần kế thừa, sử dụng lại một số công trình thời Lý, vừa xây dựng nhiều công trình mới, tạo nên diện mạo mới của thời Trần. Kiến trúc Trần cũng đắp nền, xây móng trụ, bó nền nhưng đường viền bó vỉa theo kiểu xếp gạch hình hoa chanh rất đặc trưng thời Trần. Giếng nước thời Trần xây bằng gạch màu đỏ theo kiểu xếp chéo xương cá. Vật liệu xây dựng như gạch, ngói, tượng đất nung với những hoa văn trang trí hình rồng, phượng, phần hoa cánh sen, hoa cúc như thời Lý nhưng phong cách có phóng khoáng hơn.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-25.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-26.jpg
Giếng nước và Gạch có chữ "Hoàng Môn Thự"

tungvk1781
26-09-2011, 16:34
Di tích kiến trúc thời Lê sơ cũng tìm thấy phổ biến trong khu di tích khảo cổ học, có phần chồng lên thời Lý, Trần, có phần phá huỷ một số kiến trúc thời trước. Nhiều ao hồ và ngự hà được khơi đào. Hình như qui hoạch Cấm thành trải qua một số thay đổi quan trong. Nhiều di tích kiến trúc, cống thoát nước, giếng nước đã được tìm thấy cùng với những loại gạch vồ, ngói mũi sen, ngói thanh lưu ly (màu xanh), hoàng lưu ly (màu vàng)... của thời Lê sơ phân bổ trên hầu khắp diện tích khu di tích.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-27.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-28.jpg
Bát có "Trường lạc cung" và "Giếng nước"

Những di tích thời Mạc và Lê trung hưng có phần mờ nhạt hơn và bị phá huỷ nhiều vì những biến động chính trị thế kỷ 18 và sự phá huỷ Cấm thành để xây dựng thành Vauban đầu thế kỷ 19. Tuy nhiên, thời kỳ này vẫn để lại một số di tích kiến trúc và di vật.

Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu gồm thời tiền Thăng Long từ thế 7 - 9 và thời Thăng Long với vai trò kinh đô của nước Đại Việt từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 18.

Sang thế kỷ 19, trong khu thành cổ Hà Nội, di tích trong lòng đất chỉ mới thăm dò bước đầu qua mấy hố khai quật nhỏ ở Đoan Môn, Hậu Lâu và Cửa Bắc, nhưng những di tích trên mặt đất lại tiếp nối lịch sử của trung tâm Thăng Long-Hà Nội cho đến nay. Đó là di tích nền điện Kính Thiên, Đoan Môn của Cấm thành Thăng Long thời Lê sơ; Kỳ Đài, Cửa Bắc của thành Hà Nội, Hành cung với tường bao quanh hình chữ nhật mở 8 cửa của nhà Nguyễn đầu thế kỷ 19.

Trong thời Pháp thuộc, Hà Nội là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp và thành cổ Hà Nội là khu vực quân sự của Pháp. Trong khu vực này, người Pháp đã xây dựng một số kiến trúc mới trong đó có toà nhà xây trên nền điện Kính Thiên làm Sở chỉ huy pháo binh. Từ năm 1954 đến năm 2004, khu vực thành cổ Hà Nội là Tổng hành dinh của quân đội nhân dân Việt Nam.

Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long bao gồm cả bộ phận di tích khảo cổ học phát lộ trong lòng đất và bộ phận di tích trên mặt đất trong thành cổ Hà Nội, trải dài lịch sử 13 thế kỷ của cơ quan quyền lực, trong đó có gần 10 thế kỷ của Cấm thành Thăng Long và trục trung tâm của thành Hà Nội.

Giá trị lịch sử nổi bật của Khu di tích là bề dày lịch sử của một trung tâm chính trị, trung tâm quyền lực mà cho đến nay vẫn giữ vai trò trung tâm của nước Việt Nam hiện đại, vẫn nằm trong Trung tâm chính trị Ba Đình của thủ đô Hà Nội.

Trên thế giới, có nhiều kinh thành có lịch sử trên nghìn năm, nhưng thủ đô một nước hiện nay có bề dày lịch sử với vai trò trung tâm quyền lực gần 13 thế kỷ, trong đó có gần nghìn năm gần như liên tục là quốc đô thì rất hiếm. Tính liên tục và lâu dài của một trung tâm quyền lực cho đến ngày nay, đó là đặc điểm và giá trị lịch sử nổi bật của Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long.

Trung tâm hội tụ và kết tinh các giá trị văn hoá dân tộc

Trong thời kỳ giữ vai trò kinh thành, Khu di tích trung tâm của Hoàng thành Thăng Long mà thực chất là một bộ phận của Cấm thành, là trung tâm quyền lực, trung tâm chính trị và văn hoá của quốc gia.

Các kiến trúc ở đây là những cung điện, lầu gác qui mô lớn và được xây dựng bằng những vật liêu cao cấp nhất với bàn tay lao động của những người thợ lành nghề của đất kinh kỳ và tuyển mộ từ khắp mọi miền của đất nước. Các di tích kiến trúc đã chồng xếp, đan xen lên nhau qua các thời kỳ từ vương triều Lý, qua Trần đến Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng.

Dân phu nhiều châu huyện và quân đội được điều về tham gia xây dựng. Thời Lý, Trần có những viên gạch ghi chữ “Vĩnh Ninh trường” là một trung tâm sản xuất gạch, ngói nổi tiếng thời Trần, có viên gạch ghi niên đại sản xuất như “Lý gia đệ tam đế Long Thuỵ Thái Bình tứ niên tạo” (năm 1057), có viên gạch ghi đơn vị hành chính đương thời như “Đại Thông độ” (Bến Đại Thông, vùng Gia Lâm, Hà Nội), “Thu Vật huyện, Thu Vật hương” (vùng Yên Bái)... Sang thời Lê sơ, tìm thấy nhiều viên gạch ghi tên các phiên hiệu quân đội đương thời như “Tráng Phong quân”, “Vũ Kỵ quân”, “Trung Nghĩa quân”, “Huyền Qua quân”, “Thần Hổ quân”...

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-29.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-30.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-31.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-3-32.jpg
Gạch "Đại thông độ", gạch có chữ Chăm, gạch "Vĩnh Ninh trường", gạch "Tráng phong quân"

Vật liệu xây dựng gồm các loại gạch ngói, tượng đất nung trang trí trên nóc mái và diềm mái nhà hình rồng, phượng, uyên ương, lá đề... đạt độ tinh xảo với những mô típ trang trí đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử. Dấu vết mặt bằng kiến trúc cùng các loại vật liệu xây dựng và trang trí cho phép hình dung những cung điện to lớn, thiết kế công phu, biểu thị nghệ thuật kiến trúc và tạo hình trình độ cao.

Trong số di vật có những đồ gốm sứ cao cấp với nhiều dòng men phong phú, nghệ thuật tạo dáng và trang trí tinh xảo. Đặc biệt khảo cổ học tìm thấy một số đồ dùng cung đình với những chữ “quan”, tên cung điện như “Trường Lạc cung” và nhất là đồ “ngự dụng” với hình rồng năm móng tượng trưng cho quyền uy của Hoàng đế. Khảo cổ học cũng tìm thấy khuôn đúc, đồ phế phẩm chứng tỏ có sự tồn tại những lò gốm cao cấp tại kinh thành Thăng Long.

Phân tích và so sánh, đối chiếu một số đồ gốm sứ tìm thấy ở khu di tích với những đồ gốm sứ phát hiện ở một số nước Đông Nam á, các nhà khảo cổ học đặt vấn đề có những lò gốm sứ cao cấp tại Thăng Long chuyên sản xuất cho cung đình và nhu cầu xuất khẩu vào thế kỷ 15 cùng thời với gốm sứ Chu Đậu (Hải Dương) nổi tiếng.

Suốt chặng đường dài lịch sử, đặc biệt hơn 7 thế kỷ rưỡi từ đầu thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 18, với vai trò trung tâm của Hoàng thành Thăng Long, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia, Khu di tích là nơi tập hợp nhiều sản phẩm cao cấp nhất của nền kinh tế, nơi hội tụ và kết tinh những giá trị của văn hoá dân tộc.

quecui
16-10-2011, 16:24
Xóa tạm đợi đến lượt :p

thienson
16-10-2011, 17:16
Thông tin trên bạn quecui tự viết hay copy từ đâu thể ạ? Sao tôi thấy nó cũ thế:


Để chuẩn bị cho lễ công bố di tích Trường Lũy là di tích lịch sử Quốc gia dự kiến tổ chức cuối tháng 3 năm nay

Cũng vì thông tin rất hoành tráng trên các phương tiện thông tin đại chúng mà mấy tháng trước tôi cũng đã lọ mọ tìm về huyện Nghĩa Hành để tìm xem nhưng hoàn toàn thất vọng.

Không biết có phải do các bác ấy nói quá lên để được công nhận di tích hay không hoặc do ngày hôm đó tôi tìm chưa ra hết chỗ .

Hôm đó tôi đã lặn lội khắp cả khu vực trên dưới đèo Eo Gió thì thấy thực tế di tích của thành lũy còn lại ở huyện Nghĩa Hành rất ít ỏi, chỉ có vài điểm còn rõ hình thù thì các bác ấy đang quây lại rồi nghiên cứu, phần còn lại nếu các cụ cao niên không chỉ thì tôi cũng không biết đó là vết tích lũy cũ


https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=55821&d=1300682993


Các cụ bảo cái doi đất thấp lè tè bao quanh ruộng nương của đồng bào kia chính là 1 phần của lũy cũ.

Vì thất vọng với những gì tìm thấy nên từ bấy đến nay tôi không trở lên lại.

Không biết đã có bạn nào trong diễn đàn đã đi và đã tìm thấy 1 thành lũy hoành tráng như báo đài miêu tả chưa?

Hôm tôi đi là vượt qua đèo Eo gió rồi rẽ phải vào con đường đất phía trên cây Ngủ ngày này:


https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=55819&d=1300682993

Nhưng bù lại trên cung đường này tại ngay thị trấn chợ Chùa rẽ phải đi dăm cây số sẽ đến thác Trắng, 1 con thác đẹp tuyệt vời.

quecui
17-10-2011, 15:51
Chiều nay đọc post của bác quecui vội reply ngay nhưng rớt mạng :D
Tớ chỉ định nói bác quecui cứ từ từ, bác tungvk1781 chỉ mới đi đến Thành Thăng Long TK XI, bác lại nhảy ngay đến Trường lũy TK XVII. Thế là đốt cháy giai đoạn mất rồi. Thông tin lại cũ, có cảm giác như copy+paste từ đâu đó, chưa có dấu ấn cá nhân lại không trích dẫn nguồn. Hơi thất vọng tí!...

Hihi, thế xóa tạm đợi đến lượt :D Chỉ vì xem trên VTV2 thấy 2 tập phim này hay, công phu nên up cho mọi người tham khảo thôi (c)

tungvk1781
03-11-2011, 11:31
2-4 Thành Hóa Châu

Thành Hoá Châu là trung tâm nơi đóng trị sở của Châu Hoá, về sau của lộ Thuận Hoá. Nay thuộc xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-1-2.jpg

Thành hình chữ nhật dài 2000m, rộng 800m hướng Tây Nam - Đông Bắc song song với sông Hương.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-2-2.jpg

Thành Hoá Châu, có thể là dấu vết thành cũ của vua Chiêm Thành được trùng tu năm 1362. Đây là thành của người Việt xây đắp trên vị trí thành cũ của Chiêm.

Thành tương đối vững chắc, phù hợp với yêu cầu chiến lược, chiến thuật với 6 cửa thành thông với đường thủy có hai cửa thông với đường bộ, quân trong thành bao giờ cũng nắm được thế chủ động, những trận đánh năm 1444 đã chứng minh điều đó, nghệ thuật, kỹ thuật kiến trúc quân sự thời Trần – Lê.

Năm 1997, Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng Thừa Thiên - Huế, Sở Văn hóa - Thông tin tiến hành khai quật và phát hiện thành cổ này và thu được nhiều hiện vật có giá trị. Sau khi khai quật thí điểm ba hố với diện tích 200m2 ở nội thành Hóa Châu, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật thuộc ba tầng văn hóa Champa, Trần - Lê và Nguyễn.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-9-2.jpg

Kết quả khai quật cũng cho thấy thành Hoá Châu có hai vòng thành chính: Thành ngoại và Thành nội.

Thành ngoại có diện tích rộng, chu vi hơn 5km, hiện vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích, hiện vật, đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày của người xưa như: các mảnh gốm, sành sứ, các cọc kè bằng gỗ lim... Thành có hình chữ nhật méo và có một số chỗ không nối liền nhau. Lũy thành phía bắc (chạy theo hướng đông bắc – tây nam) có chiều dài gần 1.700m và có hai chỗ không nối nhau.

Ở góc lũy phía tây – nam, ngoài vòng thành ngoài có 2 lũy thành ngắn ở bên trong và ngoài.
Lũy thành ngắn ở bên ngoài có chiều dài 650m và hình chữ “L”.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-4-2.jpg

Lũy thành phía nam (đoạn phía tây chạy theo hướng đông – tây và đoạn phía đông chạy theo hướng đông bắc – tây nam) có chiều dài gần 2.000m và có 1 chỗ không nối nhau (khoảng 110m) giữa đoạn phía tây và đoạn phía đông. Còn ở phía nam của chỗ không nối nhau, có một đoạn lũy ngắn, khoảng 340m. Nhìn chung, lũy phía nam có chiều rộng nhỏ hơn lũy phía bắc. Ở góc phía nam của lũy thành phía nam, có 2 lớp thành ngắn ở ngoài lũy (chiều dài khoảng 350m và 420m).

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-5-2.jpg

tungvk1781
03-11-2011, 11:33
Còn lũy phía đông (giáp thôn Kim Đôi) và lũy phía tây (giáp khu chợ Quảng Thành) đều có chỗ không nối nhau ở đoạn giữa (xung quanh khu vực sông Kim Đôi chảy qua).

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-6-1.jpg

Nếu kể cả chỗ không nối nhau, thành phía tây có chiều dài hơn 500m và thành phía đông có chiều dài khoảng 600m cho nên tổng chiều dài thành ngoài khoảng 4800m.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-7-2.jpg

Thành nội (thành Cụt) có hình chữ nhật rộng gần 2km2 và nằm ở khu giữa thôn Thành Trung, phía bắc bên bờ sông Kim Đôi. Vẫn còn một số vết tích đáng chú ý như: phiến đá lớn có nét điêu khắc của người Chăm, bia ký thời Nguyễn... Hiện nay, người dân ở làng Thành Trung (xã Quảng Thành) còn lưu giữ một bức tượng nữ thần Visnu cao hơn 1m.

Cả 2 lũy thành phía bắc và phía nam đều chạy song song với lũy thành ngoài phía bắc. Theo hiện trạng, lũy phía nam có chiều rộng to hơn lũy phía bắc. Lũy phía bắc dài 240m và lũy phía nam dài khoảng 270m. Hai lũy phía tây và phía đông đều có chiều dài khoảng 150m.

Khu phía ngoài lũy thành phía đông có khu vực như lũy thành bao quanh. Dĩ nhiên không được rõ như thành ngoài. Lũy phía bắc chạy theo hướng đông bắc-tây nam như nối nhau với lũy thành ngoài phía bắc, có những chỗ không nối nhau. Còn ở khu phía đông - bắc, ngoài thành ngoài phía đông cũng có lũy chạy song song và có kích thước tương đồng nhau.

Giữa 2 lũy này, hiện nay có khu ngòi nước, rất có khả năng đây là hào nước xưa. Như vậy, kết hợp sông Kim Đôi và 2 lũy còn lại (phía bắc và tây), khu vực cư trú thôn Kim Đôi cũng được coi là một khu thành quách riêng.

Trong khu vực xung quanh và bên trong của thành ngoài, hai con sông Kim Đôi và Tiền Thành nối với sông Bồ và phá Tam Giang. Hai con sông đó có đoạn chạy rất thẳng, đặc biệt đoạn bên trong Thành Ngoài của sông Kim Đôi và đoạn giáp Thành ngoài phía nam. Cả 2 đoạn đó không chỉ chạy thẳng mà chiều rộng của chúng cũng rất đều nhau. Vì vậy cho rằng, hai con sông đó đều có đoạn nhân tạo, tức người ta đào kênh để nối sông Bồ (nhánh của sông Hương) và phá Tam Giang.

Đặt hai con sông đó cùng với những lũy của thành Hóa Châu trong cấu trúc thành quách, thì trong thời gian sử dụng thành, hai con sông này có vai trò lớn về mặt giao thông đường thủy của thành.

Trải qua nhiều thăng trầm, biến cố của lịch sử, Thành cổ Hoá Châu giờ đã bị sạt lở, biến dạng. Nghiêm trọng hơn, người dân nơi đây còn cày cuốc, đào bới, mở rộng diện tích canh tác, xây dựng nhà cửa, chôn cất người chết. Ngay cả phía trong Thành nội, hiện không còn dấu vết kiến trúc trên mặt đất. Tất cả đã bị san bằng làm ruộng lúa, chỉ còn một mặt bằng rất rắn được làm sân bóng đá cho trẻ nhỏ trong xã. Hiện có hơn 310 hộ dân sinh sống xung quanh Thành cổ.

tungvk1781
03-11-2011, 11:39
Theo kết quả sơ bộ về điều tra khảo cổ học của nhóm tác giả (PGS. Nishimura Masanari, TS. Lê Đình Phúc, CN. Nguyễn Văn Quảng, TS. Miyahara Kengo).

Vào tháng 3 và tháng 5 – 2009, nhóm đã tiến hành khảo sát trên mặt đất và thám sát 3 điểm để tìm hiểu cấu trúc của thành và lịch sử biến đổi của nó.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-3-2.jpg

A. Xóm 1 Thành Trung (TTX1)

Trong vườn nhà ông Nguyễn Hợi có một giếng hình vuông (ảnh 1,2). Ở bên cạnh giếng đó, chúng tôi thiết kế 1 hố (1x2m) để thám sát. Khi tiến hành đào đất, chúng tôi đào mỗi lớp sâu 7-8cm và đào đến 31 lớp (LM~L3-20), tức sâu 2,2m tính từ mặt đất.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-10-2.jpg

Địa tầng trong hố diễn biến như sau:

Sau khi đào đến lớp đất bùn màu đen ở dưới cùng, chúng tôi làm sạch mặt cắt phía bắc để quan sát cấu trúc địa tầng và đánh số thứ tự của địa tầng (h.v.2). Mặt cắt này cho ta thấy rõ 2 lớp (lớp 2 và 3 trong h.v. 2) do đào hố để sửa hoặc xây thêm khung giếng.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-11-2.jpg

Khung giếng có 4 cấu trúc khung khác nhau. Cấu trúc dưới cùng có 2 tầng bằng tấm đá hình chữ nhật dài, thẳng và phần thứ 2 cấu tạo bằng khối đá trầm tích (dài từ 20-40cm) xếp kê lên. Phần thứ 3 xếp kê bằng đá trầm tích (cùng loại với phần thứ 2) lẫn đá ong và mảnh gạch to. Phần thứ 4 (trên cùng) được xếp kê bằng đá lẫn cả mảnh gạch hiện đại. So sánh các cấu trúc khung giếng và lớp địa tầng, ranh giới dưới của lớp 2 và phần thứ 4 của khung giếng tương đối cùng nhau về độ sâu. Cho nên chúng tôi kết luận lớp 2 do đào hố để xây thêm phần thứ 4 của khung giếng, còn ranh giới dưới của lớp 3 thấp hơn ranh giới phần thứ 2 và 3, do đó phải suy đoán lớp 3 được hình thành do đào hố để xây khung giếng bằng tấm đá dưới cùng hoặc để xây thêm phần thứ 2.

Theo quan sát của chúng tôi, mặt trong khung giếng, phần thứ 1 dưới cùng và phần thứ 2 khá đều nhau về 4 mặt của khung cho nên khả năng 2 phần đó được xây trong cùng một thời gian và có thể cấu trúc dưới cùng, người ta dùng tấm đá lớn để tạo nền bền vững. Như vậy, rất có thể ranh giới dưới của lớp 3 được hình thành do đào hố để xây giếng. Từ lớp 4 đến lớp 14, có một số lớp cát mỏng, màu xám trắng do phù sa lũ lụt của sông tạo nên.

Những lớp khác cũng chứa nhiều cát sông. Lớp đào dưới cùng, lớp 3-20 (L3-20) chứa đất bùn màu đen do liên quan đến sự tồn tại của những khu vực nước không chảy như ao hồ. Trong lớp này, chúng tôi thấy sự hiện diện của một số mảnh gốm sành thuộc thế kỷ XVI-XVII. Cho nên những lớp địa tầng trên do cư trú hoặc do đắp đất đều phải sau thế kỷ XVI-XVII. Như vậy, niên đại xây giếng cũng phải sau thế kỷ XVI-XVII. Khả năng khu vực này trong thời kỳ xây thành đầu tiên khá trũng, có nhiều ao hồ chứa nước và không phù hợp để cư trú.

B. Đình Thành Trung ở xóm 8 (ĐTTX8)

Ở khu phía tây ngoài thành nội có đình của thôn Thành Trung (gọi là đình Thành Trung). Chúng tôi thiết kế 1 hố (1x2m) phía sau của nhà đình. Địa tầng văn hóa sâu khoảng 1,5m, chia làm 5 lớp, từ lớp 1 đến lớp 5.

Các lớp địa tầng văn hóa đều chứa nhiều cát sông nhưng không có những lớp cát xám trắng như địa điểm TTX1. Trong phần lớp dưới, tìm thấy các mảnh gốm sứ thuộc thế kỷ XI-XII. Cho nên, khu này có thể được cư trú sớm hơn TTX1 và KĐX3.

C. Đình Kim Đôi ở xóm 3 (KĐX3)

Đình Kim Đôi nằm ở khoảng giữa thôn Kim Đôi. Phía sau nhà đình, chúng tôi mở hố (1mx1m). Địa tầng văn hóa sâu 1,8m, cấu tạođịa tầng như ĐTTX8 và diễn biến như sau: ở phần dưới của lớp 3 có các loại gốm sứ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII lẫn nhau và ở phần trên bắt đầu xuất hiện gốm sứ thế kỷ XVIII-XIX. Cho nên, khu này có dấu tích cư trú từ thế kỷ XIV nhưng cư trú ổn định bắt đầu từ thế kỷ XVII. Còn trong lớp 2 có nhiều mảnh ngói liệt do nhà đình bị phá trong thế kỷ XX.

D. Kiểm tra lại mặt cắt lũy phía nam của thành nội

Chúng tôi lợi dụng hố 5 cũ (2x10m) của Viện Khảo cổ học khai quật năm 1997 ở gần góc đông-nam của thành nội. Hiện nay hố đó được sử dụng làm mương dẫn nước cho ruộng lúa. Sau khi nạo sạch mặt cắt, chúng tôi quan sát lớp địa tầng. Nhìn chung, địa tầng của lũy không cho thấy những lớp nhỏ do chỉnh tường như các lũy thành ở Bắc Bộ Việt Nam (như thành Cổ Loa, Lũng Khê). Lớp đất trong lũy được làm bằng đất cát không. Còn ở phần dưới của đất lũy người ta kê khối đá tự nhiên (30-50cm) trên nền bằng đất cát. Cho nên cấu trúc và cách xây lũy hoàn toàn khác so với các lũy thành ngoài bắc. Đây là một trong những cơ sở để xác định lũy thành Hóa Châu do người Chăm xây dựng.


E. Phân bố niên đại gốm sứ và đặc trưng địa điểm

Trong 3 hố thám sát, có 110 mảnh gốm sứ Trung Quốc và Việt Nam được xác định niên đại (Bảng kê 1). Trong đó, sớm nhất là gốm Trung Quốc thuộc thế kỷ XI-XII (h.v. 3-5) và chỉ thấy ở ĐTTX8.

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/2-4-12.jpg

Còn gốm sứ có niên đại thế kỷ XIV xuất hiện ở cả 3 địa điểm và các loại hình thế kỷ XV cũng có nhiều tiêu bản. Sau đó vào thế kỷ XVII, số lượng hiện vật tăng lên. Ở TTX1, các loại hình bình sành thuộc thế kỷ XVII trở về sau xuất hiện nhiều do nằm bên cạnh giếng nước. Còn về các loại gốm thô, pha cát có một số loại hình nồi gốm gần giống với gốm tiền sử và sơ sử. Nhưng thực chất chúng thuộc nồi gốm của thời Trần và không có lý do gì để xếp vào giai đoạn sớm hơn.

F. Sưu tập hiện vật khai quật năm 1997

Sau khi kết thúc khai quật và chỉnh lý, chúng tôi nghiên cứu lại hiện vật ở thành Hóa Châu được khai quật năm 1997. Tính chất hiện vật gần giống sưu tập năm 2009. Nhưng trong sưu tập gốm khai quật năm 1997, có một số mảnh gốm sứ lò Việt Châu, Trung Quốc thuộc thế kỷ IX và gốm thô không thuộc kiểu thời phong kiến Bắc Bộ. Những sưu tập này chắc là loại hình có niên đại sớm nhất.

Nhận xét

A. Thành Hóa Châu không chỉ có 2 vòng lũy thành, thành ngoài và thành nội mà còn có mấy lũy thành ngắn ở chỗ góc thành hoặc khu giáp phía đông-bắc?

Chu vi vòng thành ngoài khoảng 4.800m. Như vậy, vòng thành ngoài Hóa Châu có quy mô lớn nhất so với các thành cổ Chămpa như Trà Kiệu hoặc những thành cổ khác ở miền Trung.

B. Cấu trúc và cấu tạo của lũy thành của thành Hóa Châu có đặc trưng riêng của thành cổ Chămpa, không giống các thành cổ ở ngoài bắc. Nếu so với các thành cổ Chămpa khác, thì thành Hóa Châu cũng mang những đặc trưng riêng như có 2-3 vòng lũy thành ở góc thành. Điều này cần phải nghiên cứu thêm để biết đặc trưng khu vực hoặc thời đại.

C. Cho đến nay (kể cả đợt khai quật năm 1997), hiện vật thuộc thời Chămpa có số lượng không nhiều và chúng tập trung ở khu vực thành nội và xung quanh. Trong đó, gốm sớm nhất là gốm sứ thuộc lò Việt Châu ở Trung Quốc và mảnh nồi thuộc gốm thô, có thể có nguồn gốc bản địa và cả hai loại hình này được khai quật trong khu thành nội, sau đấy là các loại gốm sứ thế kỷ XI-XII cũng có nguồn gốc Trung Quốc.

Những đồ gốm sứ đó có khả năng phản ánh về hoạt động của thời Chămpa. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng, trong thời kỳ Chămpa sử dụng thành này, số lượng người ở chắc không nhiều và phạm vi sử dụng cũng không lớn. Điều này có thể liên quan đến chức năng của thành. Vì nếu không có vai trò như Kinh đô, dân số trong khu Kinh thành không lớn, chúng ta bắt buộc phải suy nghĩ rằng, thành Hóa Châu thời Chămpa có chức năng quân sự hoặc cơ sở giao thông là chủ yếu?

D. Kết quả thám sát ở 3 địa điểm cho thấy dấu tích thời Trần dày đặc hơn nhiều. Các loại hình gốm sứ Việt Nam và ngói của thời Trần (h.v. 6, 7) cho thấy hoạt động sôi nổi của người Việt Nam. Kết quả khai quật năm 1997 cũng cho thấy điều này. Sưu tập gốm cho thấy hoạt động cư trú được đẩy mạnh sau thế kỷ XV (h.v. 8, 9), đặc biệt thế kỷ XVII trở về sau. Hiện nay, các làng Thành Trung và Kim Đôi đã hình thành khu vực cư trú trong phạm vi của thành ngoài.

Giếng nước TTX1 nằm trong khu ao hồ cũ và do đó rất có thể sau thế kỷ XVII người ta đắp đất hoặc lợi dụng trầm tích phù sa để tạo thành mặt bằng cư trú và lúc đó người ta mới xây dựng phần dưới cùng của giếng. Cho nên khuôn giếng thời kỳ ban đầu rất thấp so với mặt bằng bây giờ. Sau đó vừa nâng mặt bằng đất ở cao lên, vừa xây thêm khuôn giếng và cuối cùng giếng được hình thành như bây giờ. Điều này cho thấy rằng, những giếng có cấu trúc hình vuông trong khu vực miền Trung cần phải được xem lại về niên đại xây dựng. Vì các giếng cổ hình vuông, hầu như vẫn xác định được trên bề mặt bây giờ và rất khó suy nghĩ rằng, khuôn giếng được xây dựng trong thời kỳ Chămpa, hơn 1.000 năm trước và không có hiện tượng bồi đất hoặc phù sa trên đó. Khả năng những giếng đó muộn hơn nhiều như giếng TTX1.

Imquoc
26-11-2011, 10:54
Kỳ công quá, mặc dù tái hiện lại chỉ là những bức ảnh chưa rõ nhưng chừng đấy là đủ để mình cảm nhận ở một khía cạnh của lịch sử về thành lũy cổ.

chauvankinh
02-04-2013, 15:53
@namua:
1-11: Vijaya - Năm 1005 - Bình Định
2-19: Thành Hoàng Đế - Năm 1774 - Bình Định

chauvankinh
02-04-2013, 15:54
@tungvk1781: "1-1 : Óc eo - Thế kỷ I - An Giang" -> ko thể thuộc "Thành lũy Champa"?!

chauvankinh
02-04-2013, 16:15
@nuamua: vùng này gọi là Thập Tháp - có cả chùa Thập Tháp xây trên nền móng cũng như lấy vật liệu để làm.
Các ngôi đền bạn liệt kê không nằm trong nhóm Thập Tháp, đó là các di tích đền tháp còn lại của cả địa khu Vijya - Bình Định

Funanandme
09-01-2014, 21:00
Theo mình biết Óc Eo của quốc gia Phù Nam bạn nhé. Không phải của Champa.


1- Thành lũy Champa
1-1 : Óc eo - Thế kỷ I - An Giang

nagarachampa
11-01-2014, 13:49
Dùng tượng Khmer (Bayon?) vào thành Champa cứ thấy sao sao bạn ạ :((


https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-7.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-8.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-9.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-10.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-11.jpg

https://i200.photobucket.com/albums/aa188/tungvk1781/Thanh%20co/1-4-12.jpg

nagarachampa
11-01-2014, 13:56
Bạn nuamua đến chùa Thập Tháp nhé. Trong ấy còn giếng Chămpa và vài hiện vật nữa thì phải. Chùa này cũng xây dựng và dùng vật liệu từ nhóm 10 tháp Champa xưa



Re: Thành Đồ Bàn.
Xin phép minh họa 1 vài điểm của thành Đồ Bàn/Hoàng Đế/Bình Định bằng hình ảnh.

1 đoạn phía Bắc còn sót lại của Tử Cấm Thành:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63874&d=1309366852

1 đoạn Tử Cấm Thành phía Đông Nam:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63872&d=1309366852

Mộ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu (?):

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63873&d=1309366852
(Có giả thuyết cho rằng, ngôi mộ hình chữ nhật là mộ của người giám mã của Võ Tánh chứ không phải mộ của Ngô Tùng Châu)

Một trong 3 con sư tử đá trong khuôn viên lăng Võ Tánh. Con này nằm nơi cột cờ phía trước lăng, có dáng vẻ khác với 2 con sư tử đá còn lại nằm nơi hậu liêu, đứng chầu hai bên lầu bát giác:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63881&d=1309367741

Hai con voi đá, dấu tích của nghệ thuật điêu khắc Champa, đứng cách cổng lăng Võ Tánh khoảng 500m về phía Nam, nơi được cho là cổng thành Đồ Bàn:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63875&d=1309366852

Voi đực (?) - theo cách gọi người dân trong xóm.

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63880&d=1309367398

Voi cái (?) - theo cách gọi của người dân trong xóm.

Tháp Cánh Tiên:

https://www.phuot.vn/attachment.php?attachmentid=63879&d=1309367398


P/S 2: bác tungvk1781 bảo xung quanh thành Đồ Bàn hiện còn tồn tại 8 tháp Chăm. Em lần mò chỉ tìm được 7 cụm tháp bao gồm:
Tháp Đôi (Hưng Thạnh) - 2 tháp
Bánh Ít (tháp Bạc) - 4 tháp
Phú Lốc (tháp Vàng) - 1 tháp
Bình Lâm - 1 tháp
Cánh Tiên (tháp Đồng) - 1 tháp
Dương Long (An Chánh, tháp Ngà) - 3 tháp
Thủ Thiện - 1 tháp.
Tổng cộng 7 cụm với 13 tháp còn tồn tại, không kể các phế tích. Nếu còn tháp thứ 8 thì nhờ bác chỉ hộ, em mò tới bằng được!
Không còn nút "thank" nên đành dùng lời để lần nữa cảm ơn bác tungvk1781 đã có những tư liệu thật quý giá cho anh em tham khảo. Trông đợi những bài viết tiếp theo của bác!

balobay
12-02-2014, 09:12
woa một thời lẫy lừng non sông Việt Nam

falconx
22-06-2014, 15:24
Theo mình biết Óc Eo của quốc gia Phù Nam bạn nhé. Không phải của Champa.

Bạn đúng rồi đó

P.Paris khai quật, ở độ sâu 1,60m tìm thấy gốm, con lăn (chày dạng pesani) bằng đá sa thạch. Những hiện vật này được đưa về Viện Bảo tàng Sài Gòn (nay là Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh). Sau đó được Malleret nghiên cứu năm 1963 và cho rằng gốm tìm thấy ở Bàu Thành là gốm Óc Eo và Bàu Thành chính là cương vực phía đông của vương quốc Phù Nam và sau này (từ giữa TK VII) là Chân Lạp.