PDA

View Full Version : [Chia sẻ] Hành trình theo bước chân vua Gia Long.



nguoilun
26-04-2014, 01:47
Nếu ai hỏi bạn ai là người lãnh đạo thống nhất và mở rộng giang sơn như hiện nay? Có thể bạn nghĩ đến Quang Trung Nguyễn Huệ hay Hồ Chí Minh nhưng thực chất đó mới chính là vua Gia Long, Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ tuy thống nhất giang sơn nhưng chưa khai thác hết được vùng phía Nam, Hồ Chí Minh tuy thống nhất nhưng để Hoàng Sa vào Trung Quốc. Chính vua Gia Long mới là người có công lớn nhất trong việc thống nhất và mở rộng giang sơn Việt Nam lớn hơn hiện nay. Ông là người đổi tên nước thành Việt Nam như ngày nay. Không những vậy, ông còn giao lưu và tạo mối quan hệ bằng hữu với nhiều nước láng giềng và phương Tây (đặc biệt là Pháp). Ông cũng là người lận đận, bôn ba, chịu nhiều uất ức hận thù nhất trong lịch sử Việt Nam và là vị vua đầu tiên phải nếm mùi xa quê hương, đi viễn xứ để tìm cách báo thù, phục hận cho cả dòng dõi.


http://phaply.net.vn/wp-content/uploads/2012/05/5.113.jpg
http://phaply.net.vn/wp-content/uploads/2012/05/5.113.jpg

1. Hận thù sâu nặng từ nhỏ

Nguyễn Ánh sinh vào ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức ngày 8 tháng 2 năm 1762), là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân và Nguyễn Thị Hoàn. Khi còn nhỏ Nguyễn Ánh còn có tên khác là Nguyễn Phúc Chủng và Noãn . Năm ông 4 tuổi, cha ông bị quyền thần Trương Phúc Loan bắt giam và chết trong ngục. Năm ông 9 tuổi (1771), khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ.


http://phunutoday.vn/dataimages/201205/original/images693552_Chuyen_tinh_chinh_su_vua_Gia_Long_phu nutoday.vn_1.jpg
Phác họa vua Gia Long lúc nhỏ

Năm ông 13 tuổi (1775), chúa Nguyễn bị chúa Trịnh và quân Tây Sơn đánh kẹp từ hai mặt. Nguyễn Ánh và bốn anh em trong nhà đi theo chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Quảng Nam rồi vượt biển vào Gia Định. Trong thời gian nội bộ chúa Nguyễn đang xẩy ra tranh chấp giữa phe ủng hộ Nguyễn Phúc Thuần của Đỗ Thanh Nhơn và phe ủng hộ Nguyễn Phúc Dương của Lý Tài, Nguyễn Ánh trú tại Ba Giồng với quân Đông Sơn.

Năm 1777, cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, vài người anh em ruột của Nguyễn Ánh và nhiều người khác trong gia tộc chúa Nguyễn bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ bắt giết hết, chỉ có một mình ông thoát nạn ở Long Xuyên (khu vực Cà Mau hiện nay). Hầu hết mộ phần của dòng họ Nguyễn Ánh đều bị quân Tây Sơn phá hết. Như vậy, chỉ mới 15 tuổi mà thiếu niên Nguyễn Ánh đã phải lăn lộn từ những nơi xa xôi đến tận phương trời miền Nam với đầy thú dữ, bệnh tật cùng với nổi hận thù ngàn thu.

Sau khi đến trời Nam thì Nguyễn Ánh tiếp tụ bị Tây Sơn truy sát , ông phải chạy chạy ra đảo Thổ Chu và được Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine), một Giám mục người Pháp, che chở.

Nếu vẽ một đường chạy thì có thể thấy con đường đi của Nguyễn Ánh có thể là từ Thanh Hóa Nghệ An cho đến những quần đảo xa xôi ngoài biển phía Nam.

nguoilun
26-04-2014, 01:52
2- Xây dựng lực lượng phản công
Sau chừng một tháng trốn chạy, khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã về Quy Nhơn thì Nguyễn Ánh lại xuất hiện ở Long Xuyên, tiến lên Sa Đéc với Đỗ Thanh Nhơn và Lê Văn Quân; ông ra hịch cáo quân và thu nhận được thêm một đội quân cùng các tướng Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Luông và Hồ Văn Lân... Tháng 11 năm 1777, ông tập hợp một đạo quân mặc toàn áo tang bất ngờ tấn công dinh Long Hồ và sau đó nhanh chóng đuổi quan trấn thủ Tây Sơn tại Gia Định là Tổng đốc Chu (hay Tổng đốc Châu), lấy lại thành Sài Côn tháng 12 cùng năm.

Năm 1778, khi Nguyễn Ánh được 17 tuổi, các tướng tôn ông làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính. Và cũng chỉ trong tháng 2 năm 1778, Tây Sơn phái Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá Phạm Ngạn vào đánh Gia Định. Họ nhanh chóng đánh chiếm các vùng Trấn Biên, Phiên Trấn và một số khu vực ven biển. Nguyễn Ánh để Đỗ Thanh Nhơn giữ Gia Định rồi cùng Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Hoằng đi đánh nhau ở khu vực Bến Lức. Tại Bến Lức, quân Nguyễn chặn được Tây Sơn rồi sau đó mở cuộc phản công, ngăn chặn và đẩy lùi được thủy binh Tây Sơn do Tư khấu Uy chỉ huy ở Bến Nghé rồi chiếm lại được Trấn Biên. Thủy binh của Phạm Ngạn thì bị Lê Văn Duyệt phá, buộc ông này phải rút về lại Quy Nhơn.

Suốt các năm sau 1778 và 1779, Nguyễn Ánh ra sức củng cố và mở mang Phiên An trấn (vùng Sài Gòn-Gia Định-Long An hiện giờ) với mục đích biến vùng này thành căn cứ địa chống Tây Sơn[10]. Ông cho tổ chức phân chia hành chính đất Gia Định dưới sự cố vấn của Bá Đa Lộc, đặt quan coi giữ, đóng thuyền, trữ lương chuẩn bị, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ. Trong đó Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm tới thủy binh: khi ngay sau khi vừa được tôn làm đại nguyên soái, ông liền cho đóng ngay 50 chiến hạm đầu nhọn gọi là Long Lâm Thuyền[15]. Hai năm sau, tướng Đỗ Thanh Nhơn lại đưa ra sáng kiến đóng thủy sư hai bánh (thuyền hai lái)[16]. Năm 1779, Chân Lạp tranh thủ quân Việt đang gặp rối loạn mà nổi dậy, Nguyễn Ánh bèn sai binh đi chiếm Chân Lạp và biến quốc gia này thành chư hầu. Tháng 1 năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương, dùng theo niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê và lấy ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu" làm ấn truyền quốc[18], phong cho Đỗ Thanh Nhơn chức Ngoại hữu, Phụ chính, Thượng tướng công. Cùng năm, người Miên ở Trà Vinh dưới sự chỉ huy của tù trưởng Ốc Nha lợi dụng tình hình nổi lên chống Nguyễn Ánh, ông sai Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng đi đánh dẹp[20][21]. Nguyễn Ánh ngoài ra còn cho đặt quan hệ ngoại giao với Xiêm La.

Đỗ Thanh Nhơn vì có nhiều công lớn nên được Nguyễn Ánh đãi trọng, nhưng lại có biểu hiện hung bạo, cậy công lấn lướt quyền hành với Nguyễn Ánh, tạo thêm vây cánh thậm chí muốn giành quyền lực. Thấy vậy, tướng Tống Phúc Thiêm bèn bày mưu để giết Đỗ Thanh Nhơn. Tháng 3 năm 1781, Nguyễn Ánh cùng Tống Phúc Thiêm lập mưu giả bệnh, gọi Thanh Nhơn đến rồi sai võ sĩ giết chết. Đây là một việc gây nhiều tai hại cho Nguyễn Ánh: sau đó dù ông đã nhanh chóng đưa ra chính sách chia cắt để làm suy yếu quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn nhưng họ vẫn phản lại Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh phải ra sức đánh dẹp mãi, trong việc đánh dẹp này Thống binh Tống Văn Phước tử trận.

Trong giai đoạn này có thể thấy vùng đất Sài Gòn, Gia Định đang ngày càng trở thành một vùng đất quan trọng ở Việt Nam.

nguoilun
26-04-2014, 01:55
3- Giúp Campuchia giữ nước và giúp người Thái lấy lại ngôi từ người Trung Quốc
Tháng 10 năm 1781, Xiêm La đưa quân sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Ánh cho quân sang cứu Chân Lạp. Khi quân Việt và quân Xiêm còn đang đánh nhau thì ở Xiêm La, vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh (người Trung QUốc đoạt ngôi Thái) bắt vợ con hai tướng Xiêm chỉ huy rồi sau đó lại loạn Phan Nha Văn Sản nổ ra. Hai tướng Xiêm là Chất Tri và Sô si buộc phải thỏa hiệp với quân Việt, thề cứu nhau trong lúc hoạn nạn rồi rút về nước dẹp loạn Phan Nha Văn Sản và giết quốc vương Trịnh Quốc Anh. Chất Tri lên ngôi, tức vua Rama I của Xiêm La, mở đầu nhà Chakri. Chính biến ở Xiêm khiến quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Xiêm thay đổi: từ chỗ đối kháng trở thành đồng minh.
Giai đoạn này Nguyễn Ánh thiết lập được mối quan hệ sâu sắc với Campuchia và Thái Lan.

nguoilun
26-04-2014, 02:02
4- Phiêu bạt nơi xứ người
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy và cửa biển Cần Giờ với quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây Sơn yếu hơn, nhưng nhờ lòng can đảm họ đã phá tan quân Nguyễn đồng thời buộc Manuel tự sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá nhiều binh lực. Nguyễn Ánh thất trận bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp(rừng Romdoul là khoảng khu vực phía bắc tỉnh Svay Rieng). Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng 4, bắt vua quan Chân Lạp hàng phục và buộc tất cả những người Việt ở đấy phải về nước nhưng Nguyễn Ánh lại trốn kịp.
Lần này mối thù hận của Nguyễn Ánh với Tây Sơn càng sâu nặng hơn.

nguoilun
26-04-2014, 02:05
5- Người Minh Hoa quy phục triều đình Nguyễn Ánh
Cũng trong thời gian này và trước đó, một toán người Hoa thuộc nhà Minh bỏ xứ không quy hàng nhà Thanh đã bôn ba đến tận miền Nam Việt Nam trốn tránh. Cũng từ đây có nhiều tình huống diễn ra khiến toàn bộ người Hoa quy phục Nguyễn Ánh, kết hợp vào bộ phận người Việt Nam và trở thành 1 trong 54 dân tộc của Việt Nam.

Vua Thái Đức khi chiếm lại Nam bộ gặp phải sự chống đối mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây. Sự chống đối này khiến cho Đô đốc Phạm Ngạn, người vốn rất thân thiết với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, tử trận và đồng thời binh lính Tây Sơn thương vong nhiều trong khi đánh dẹp. Hay tin, Nguyễn Nhạc rất đau đớn và để trả thù, ông tiến hành tàn sát hơn một vạn người Hoa ở vùng Gia Định và tàn phá nặng nề vùng Cù Lao Phố. Vụ tàn sát này cộng với vụ tương tự trước kia Tây Sơn thực hiện ở Hội An khiến cho cộng đồng người Hoa giàu có, vốn dĩ trước đã có cảm tình nhiều hơn với Nguyễn Ánh, quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh hết lòng cho đến hết cuộc chiến của mình khiến cho ông có được một nguồn lực kinh tế rất lớn. Ngoài ra, việc này còn cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có cơ hội quay trở về Giồng Lữ, một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu Giang, Rạch Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.

Từ Campuchia, Nguyễn Ánh lại quay ngược về Việt Nam, lại rồi rút ra tận đảo phía Nam Việt Nam.

nguoilun
26-04-2014, 02:12
6- Đi ăn cướp để sống, trốn chui trốn nhủi, bị phản bội.
Có thể nói giai đoạn này là giai đoạn cùng khổ nhất của Nguyễn Ánh
Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước nhưng vẫn bị quân Tây Sơn phá tan trong trận đánh ở cửa Cần Giờ. Tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phước Mân bị giết chết còn Dương Công Trừng bị bắt sống. Bản thân Nguyễn Ánh buộc phải bỏ chạy về Phú Quốc với tầm 100 quân và 6 tướng. Một tháng sau, Nguyễn Ánh lại tụ tập được một đạo quân người Chân Lạp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huỳnh Đức quay về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ kéo quân đánh phá Đồng Tuyên, bắt hoặc giết hầu như toàn bộ tướng của Nguyễn Ánh[37]. Riêng Nguyễn Ánh nhờ biết bơi nên thoát chết; ông bèn bỏ chạy và đem theo mẹ, và vợ con ra đảo Phú Quốc, ở tại đảo Diệp Thạch (hòn Đá Chồng). Sau trận Đồng Tuyên, quân binh người Hoa trở mặt làm phản đánh chiếm Hà Tiên, giết chết tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Kim Phẩm cùng một người con gái của Ánh tên là Ngọc Hoa. Nguyễn Ánh khi này trốn ra vùng đảo thuộc Vịnh Thái Lan, nơi ông thu nạp được một số hải tặc người Xiêm và Mã Lai đang hoạt động ở đây. Sau đó, Nguyễn Ánh tổ chức tầm 2-3 đợt cướp vùng Hà Tiên để kiếm khí giới và lương thực cho binh lính, nhưng cũng chính các hoạt động này khiến cho nơi trú ẩn của Nguyễn Ánh bị lộ.

Tháng 6 âm lịch năm 1783, một tổng suất của quân Tây Sơn là Phan Tuấn Thuận kéo quân ra Đá Chồng truy kích, tình thế bức bách tướng Lê Phước Điển dùng kế hy sinh mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Ánh khiến Tây Sơn bắt nhầm. Riêng Nguyễn Ánh thoát chạy ra được đảo Cổ Long nhưng lại mất hết thuộc tướng. Một tháng sau, dò biết được Ánh đang ở Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai phò mã Trương Văn Đa của Tây Sơn kéo quân vây đánh 3 vòng trùng trùng điệp điệp. Nhưng lúc này bất ngờ có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra và một số bị đánh đắm. Nguyễn Ánh thừa cơ lên thuyền trốn và sau bảy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông quay ra hòn Cổ Cốt rồi lại về Phú Quốc. Thời gian này, vì thiếu lương thực binh sĩ Nguyễn Ánh phải đi hái cỏ, đào củ, hay nhờ thuyền gạo của một người đàn bà tên là Hà để có cái ăn.

Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục lần mò tìm cách quay lại Gia Định qua cửa biển Ma Ly (một cửa biển xưa thuộc Bình Thuận ngày nay), Tây Sơn nghe tin liền đuổi bắt khiến ông phải trốn tiếp ra Phú Quốc. Sau đó, Nguyễn Ánh cùng một cai cơ tên Nguyễn Văn Chính quay về Long Xuyên, bắt giết được một vị tướng của Tây Sơn tên là Quản Nguyệt ở cửa sông Ông Đốc. Việc này đã đánh động đến Tây Sơn khiến cho Nguyễn Ánh suýt bị bắt, lại phải trốn và tiếp tục trôi dạt qua các đảo Thổ Chu, Cổ Long, Cổ Cốt sống cuộc đời lưu vong "phẫn chí của một viên bại tướng" với vài trăm binh và thân cận

nguoilun
26-04-2014, 02:16
7- Phát sinh mối quan hệ sâu nặng với người Pháp
Chính trong thời gian này, với những khó khăn gặp phải và mối quan hệ của Nguyễn Ánh với Bá Đa Lộc ngày càng thắt chặt, hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh, kèm theo lời bày của Bá Đa Lộc khiến Nguyễn Ánh nảy sinh ý định cầu viện Pháp. Vào cuối năm 1783, Nguyễn Ánh giao cho Bá Đa Lộc một tờ quốc thư 14 khoản cầu viện Pháp và quốc ấn để vị Giám mục này được toàn quyền thay mặt Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện triều đình vua Louis XVI. Đi kèm với Bá Đa Lộc là con cả của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh và các tướng Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Liêm[36]. Sinh mạng của cậu bé về sau trở thành hoàng tử trưởng nhà Nguyễn, khi ấy mới lên 4 tuổi bị đưa ra "thế chấp" "làm con tin" trong cuộc cầu viện này. Sau đó Nguyễn Ánh từ biệt gia quyến đi nơi khác.

nguoilun
26-04-2014, 02:21
8- Cầu viện Xiêm La, Thua trận Rạch Gầm Xoài Mút, lưu vong tận Thái Lan

Có thể thấy là Nguyễn Ánh ngày càng tức giận, hận thù quân Tây Sơn Nguyễn Huệ đến tận xương tủy, sự thù hận này có thể nói là không thể nói nên lời mà chỉ biết thù là thù.
Khi Bá Đa Lộc chưa kịp đi vì trái mùa gió thì Nguyễn Ánh liên tiếp gặp những thất bại trước quân Tây Sơn, do đó ông có ý chuyển sang cầu viện Xiêm La. Nguyên trước đó, khi Nguyễn Ánh còn phải lênh đênh trốn chạy, tướng của ông là Châu Văn Tiếp chạy thẳng qua Xiêm cầu cứu. Đến tháng 2 năm Giáp Thìn (tháng 5 năm 1784), vua Xiêm La là Rama I cho tướng Thạt Xỉ Đa đem thuyền sang Hà Tiên đón. Nguyễn Ánh, trước đó nhận được thư của Châu Văn Tiếp, tới Long Xuyên hội kiến tướng Xiêm rồi cùng 30 viên quan và mấy chục tướng sĩ theo sang Xiêm La hội kiến vua Xiêm tại Vọng Các (Bangkok) vào tháng 3 năm 1784 mà không màng việc thân tướng là Nguyễn Văn Thành hết sức can ngăn việc cầu ngoại viện này.

Vua Xiêm nhân cũng đang có chiến tranh với Tây Sơn nên đồng ý giúp Nguyễn Ánh để dùng ông phân tán lực lượng Tây Sơn. Vua Xiêm cử hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền sang Nam Hà. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn. Quân Xiêm La nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Riêng Châu Văn Tiếp tử trận khi đánh nhau với quân Tây Sơn tại Mân Thít. Thế tiến quân nhanh chóng, quân Xiêm lại ỷ thế làm đủ điều tàn bạo với dân chúng khiến cho Nguyễn Ánh rất thất vọng; ông giao hết việc lại cho thuộc tướng rồi bỏ đi ra các đảo. Riêng về. Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa, thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem quân vào đánh. Tây Sơn đã thắng lẫy lừng trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày đã tiêu diệt gần 2 vạn quân Xiêm, chỉ sót vài nghìn người chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Từ sau vụ việc này, Nguyễn Ánh không còn trông mong gì vào Xiêm nữa vì "họ (Xiêm La) sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Các tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy kích phải trốn đi theo đường thủy qua đảo Thổ Châu rồi về Cổ Cốt với một nhóm nhỏ quân tướng.


Thời gian này, cuộc sống của Nguyễn Ánh khốn khổ đến mức Nguyễn Văn Thành phải đi làm ăn cướp nuôi chủ và bị đánh suýt mất mạng[61]. Ít lâu sau, một viên cai cơ tên Trung đem binh Xiêm đến đưa Nguyễn Ánh về Vọng Các, Xiêm La[60]. Thời gian ở Xiêm, Nguyễn Ánh được vua Xiêm cho trú tại khu vực Samsen và Bangpho (hiện nay đều thuộc nội thành Bangkok), binh tướng từ Gia Định nghe tin kéo sang và lực lượng của ông tụ tập lại được khoảng 1000 người

nguoilun
26-04-2014, 02:26
9- Được lòng người Thái và Pháp, cơ hội phục thù tăng cao

Về việc quan hệ với Thái và Pháp thì không biết ông này biết tiếng người ta hay là nhờ người thông dịch mà đã giúp rất nhiều cho Thái Lan cũng như được Pháp giúp đỡ lại rất nhiều.
Sau một năm chuẩn bị, ngày tháng 12 năm 1784 Giám mục Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi Malacca rồi sang Pondichéry ở Ấn Độ (thuộc Pháp), còn Nguyễn Ánh đưa mẹ và vợ sang trú ở Long Kì (hay Đông Khoai, Vọng Các). Với số binh tướng từ Đại Việt mà Nguyễn Ánh thu nhặt được, ông cho tổ chức lại binh tướng trên đất Xiêm rồi lâu lâu cho quân đột kích về Gia Định. Ông đồng thời cũng giúp vua Xiêm đánh Miến Điện và Mã Lai, nên Xiêm La rất hậu đãi. Khoảng năm 1787, thực dân Bồ Đào Nha từ Macao sang Xiêm gặp và đặt vấn đề giúp Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh cũng sai sứ đi, nhưng việc không thành vì những đòi hỏi của Bồ Đào Nha cũng như sự không vừa lòng của vua Xiêm.
Do một số vấn đề rắc rối tại Pondichéry, mãi đến tháng 2 năm 1787 Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Cảnh mới tới hải cảng Lorient ở Pháp và mất một thời gian vận động, đầu tháng 5 năm 1787 họ mới được gặp vua Louis XVI. Ngày 28 tháng 11 năm 1787, tại cung điện Versailles, Bá Đa Lộc với tư cách là đại diện của Nguyễn Ánh đã ký với Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc, một bản hiệp ước "Tương trợ tấn công và phòng thủ" (thường gọi là Hiệp ước Versailles). Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh 200 pháo binh và 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam, mỗi năm sẽ đóng trả cho Pháp một chiếc tàu giống với loại tàu Pháp viện trợ đồng thời cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông.

Sau 3 năm lưu vong ở Thái Lan, Nguyễn Ánh thấy vua Xiêm ngày càng lo lắng vì lực lượng của mình trở nên quá mạnh, ông viết thư cảm ơn rồi ban đêm lặng lẽ trở về vùng Gia Định.

nguoilun
26-04-2014, 02:29
10- Trở về nước, được dân miền Nam ủng hộ đánh Tây Sơn
Nguyễn Ánh về tới Gia Định vào khoảng tháng 8 năm 1787; đóng quân tại Nước Xoáy (Hồi Oa), Sa Đéc thuộc vùng Hậu Giang. Thời gian này ông cũng nhận được sự giúp đỡ mạnh mẽ hơn của người Pháp thông qua Giám mục Bá Đa Lộc. Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc Hà (1788-1789), vùng Gia Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân Tây Sơn bị cô lập trước dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với Chúa Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng. Tướng Tây Sơn giữ Long Xuyên là Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương hàng quân Nguyễn. Nguyễn Ánh đồng thời lại thu nhận được nhiều binh lính ở địa phương; sau đó ông bèn bắt đầu tổ chức tấn công Tây Sơn. Đông Định vương Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau đó khi thấy thế quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về Quy Nhơn.

Mặc dù sau đó Phạm Văn Tham đã nỗ lực chống trả nhưng vì không nhận được viện binh, lại trúng mưu Nguyễn Ánh ly gián với Nguyễn Lữ và cuối cùng là cái chết vì bệnh của Nguyễn Lữ đã làm thế Tây Sơn ở Gia Định ngày càng yếu đi. Phạm Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến đấu, nhiều lần đánh lui quân Nguyễn, có lần đã buộc Nguyễn Ánh và thuộc hạ phải chạy tới tận Cù lao Hổ. Nhưng thế Nguyễn Ánh vẫn còn vững do việc ông đã lập tức tìm cách củng cố thế đứng ngay khi chiếm được Mỹ Tho: ông cho thành lập các dinh trấn, cho các tướng quản lý, và tổ chức lại quân đội.

Quân tướng theo Nguyễn Ánh ngày càng đông, Phạm Văn Tham vẫn cố chống cự để chờ viện binh, nhưng lúc đó Thái Đức Hoàng đế chỉ lo phòng bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ở phía Bắc mà không đoái hoài đến việc cứu phía Nam.

Quân Tây Sơn ở Gia Định ngày càng thế cùng sức kiệt và không ngừng bị quân Nguyễn Ánh bao vây chia cắt, chiêu hàng tướng sĩ. Đến năm 1788, Võ Tánh đem hơn 1 vạn quân theo Nguyễn Ánh. Cùng năm, Nguyễn Ánh tấn công và lấy được Gia Định[81], Phạm Văn Tham rút ra ngoài tiếp tục chống trả. Đầu năm 1789, Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Tây Sơn lại mất Nam Hà

nguoilun
26-04-2014, 02:40
11- Dưới sự hợp tác của Bá Đa Lộc và Gia Long , vùng Sài Gòn Gia Định dần trở thành một trung tâm quan trọng
Khi vừa chiếm lại Gia Định, ông bắt đầu tổ chức lại chính quyền bằng cách lựa các viên tham mưu quân đội chuyển qua các bộ lập thành một triều đình, đồng thời cho tăng cường phát triển giáo dục, mở khoa thi, thu dùng các nhân sĩ người Việt và Minh Hương đã theo ông trước đó. Ngoài ra, nhiều sĩ phu lục tục ra giúp Nguyễn Ánh, trong đó nổi bật nhất là nhóm học trò của nhà nho Võ Trường Toản.
Ngày 27 tháng 12 năm 1787, Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh rời Pháp và trở lại Pondichéry để đợi sự chi viện từ phía chính quyền Louis, nhưng ngày 14 tháng 7 năm 1789 giai cấp tư sản Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ triều đại phong kiến Louis, thiết lập nền cộng hòa tư sản, cộng thêm việc Bá tước nhận trách nhiệm chi viện là De Conway vốn có hiềm khích với Bá Đa Lộc đã tấu sàm, nước Pháp tỏ ra không muốn nhắc đến hiệp ước cũ nữa. Giám mục Bá Đa Lộc đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho, đem mua súng đạn và tàu chiến. Tháng 7 thì Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh về đến Gia Định. Các hoạt động quyên góp sau này về tiền hay xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu Âu, trung gian mua tàu chiến và vũ khí... đều có sự góp sức của những người Pháp mà do Bá Đa Lộc chiêu mộ, kêu gọi...Việc củng cố Gia Định cộng thêm sự giúp đỡ từ người Pháp đã giúp cho thế lực của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, có thể đối đầu với Tây Sơn.

Ngoài ra, các chính sách cải cách nông nghiệp này đã khiến việc sản xuất lúa gạo ở vùng Gia Định tăng cao và giúp rất lớn cho việc chiến tranh với Tây Sơn của Nguyễn Ánh. Thời gian này, ông có thể nuôi được một đội quân lên đến 30.000 lính và 1.200 thuyền chiến (ước tính năm 1800)

Một chứng minh khác cho việc dư lúa gạo này là việc năm 1802 có nạn đói lớn ở Gia Định, Nguyễn Ánh lấy kho gạo quân ra phát cho dân và cho giảm thuế ruộng ở Gia Định. Cùng trong thời gian, khi nghe tin quân Thanh giúp Lê Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn, Nguyễn Ánh từng sai Phạm Văn Trọng và Lâm Đồ mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra giúp quân Thanh nhưng thuyền đi giữa đường bị đắm hết; cũng đồng thời bên Xiêm La có hạn hán, Nguyễn Ánh cho xuất 8.800 vuông gạo để giúp.

Từ khi quay trở lại Gia Định, Nguyễn Ánh cũng bắt đầu cho đưa các nhóm thợ thủ công ông đưa từ miền Trung Đại Việt vào. Năm 1791, Nguyễn Ánh quy hoạch lại nghề thủ công ở vùng Gia Định: ông cho quy hoạch ra 64 ty thủ công gồm đủ các loại ngành nghề được phân bố khắp các dinh. Khu vực Sài Gòn có sở Nhà Đồ gồm 22 ty trong đó có các ty thợ mộc, thợ sơn, thợ cưa (các ty này là cơ sở quan trọng cho Nguyễn Ánh phát triển thủy quân, ông đề ra chính sách đãi ngộ thợ trong các ty này như là lính chính thức, họ được ăn lương và miễn sưu thuế hằng năm; chỉ phải có lễ mừng cho các quan sở tại). Bên cạnh các ty, còn có tổ chức các đội chuyên trách phục vụ cho các ty và tổ chức gọi là "nậu" gồm dân thợ cùng nghề ở các vùng dân cư hẻo lánh, chưa nên thôn xóm. Đối với các "nậu", chính quyền chỉ kiểm tra vả thu thuế và thành viên của các nậu chỉ phải trả thuế thân và nộp sản phẩm thay cho sưu dịch.

Việc mua bán với nước ngoài cũng được khuyến khích và kiểm soát chặt chẽ (nhất là đối với các mặt hàng có liên quan tới quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu huỳnh, sắt, gang, chì đen), để có thêm nguồn tài chính và binh khí. Tất cả đều phải do nhà nước mua bán và quản lý, ai mua bán lén hoặc quan lại nào không kiểm soát được đều bị tội phạt nặng. Từ trước khi Nguyễn Phúc Cảnh về, Nguyễn Ánh đã đưa ra chính sách mời gọi thuyền nhà Thanh vào buôn bán; hễ thuyền nào có chở các thứ đã kể trên thì quan lại ở Gia Định sẽ mua rồi thanh toán lại bằng gạo tùy theo số hàng ít hay nhiều[98]. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn thường xuyên cho thuộc cấp đi qua các khu vực do thực dân phương Tây kiểm soát gần Việt Nam để mua binh khí, trong đó quân Nguyễn thường xuyên lui tới nhất là các khu vực lãnh thổ phía Tây như Batavia, Malacca, Transquebar

nguoilun
26-04-2014, 02:45
12- Xây dựng thành Bát Quái tại Sài Gòn theo kiểu Tây
Quân Tây Sơn vào thời gian này thường xuyên đột kích Gia Định để lấy lương thực vào mùa gặt. Vì vậy, hành động đầu tiên của Nguyễn Ánh sau khi chiếm được thành Gia Định nhờ các sĩ quan Pháp trong quân đội mình xây dựng một tòa thành kiểu châu Âu trên đất Gia Định.

Tòa thành này bắt đầu được xây dựng vào năm 1789, do hai sĩ quan người Pháp là Theodore Lebrun và de Puymanel thiết kế với tổng nhân công xây dựng ước chừng 30.000 người. Việc xây dựng đã buộc quan lại Gia Định phải áp một mức thuế cao và các nhân công lao động bị ép phải làm việc tới mức cực hạn, khiến cho một cuộc nổi loạn nổ ra. Đến năm 1790, tòa thành hoàn tất với chu vi khoảng 4176 mét, xây theo theo kiểu Vauban, có ba mặt được sông nước che chở có tên là Bát Quái. Sau đó, Nguyễn Ánh cho đặt Phiên An trấn thành Gia Định kinh (kinh thành hay thủ phủ Gia Định). Tòa thành Bát Quái này đã khiến cho Tây Sơn không bao giờ tìm cách chiếm lại Gia Định nữa, đem đến cho Nguyễn Ánh một lợi thế nhất định trước kẻ thù chính của ông. Nguyễn Ánh tỏ ra rất thích thú về mảng kỹ thuật xây thành quách của phương Tây, ông yêu cầu các sĩ quan Pháp đi về châu Âu để tìm và mang về cho ông các sách và nghiên cứu về chủ đề này.

Nhằm tăng cường quân đội, kinh tế và phòng thủ, từ tháng 10 năm 1788, Nguyễn Ánh cho người bắt tráng đinh thành lập các phủ binh. Nhiều người Pháp được Nguyễn Ánh đưa vào huấn luyện quân đội; ví dụ như Jean-Marie Dayot được phái huấn luyện chiến thuật cho thủy binh. Và có khoảng tổng cộng 4 sĩ quan 80 binh sĩ người Pháp tham gia đánh trận, chủ yếu ở vai trò trợ chiến dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh người Việt. Đối với vũ khí mà các thuyền buôn của người Châu Âu mang đến, Nguyễn Ánh giao cho các quan chỉ huy quân sự ở Trấn Biên mua lại bằng đường cát.

Thành Bát Quái ở Sài Gòn
http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/02/Bat_quai_3.png
http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/02/Bat_quai_3.png

http://intranet.thanhphohomnay.com/Content/ArticleImages/466-FI.jpg
http://intranet.thanhphohomnay.com/Content/ArticleImages/466-FI.jpg

http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/09/Thanh_BQ_1.png
http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/09/Thanh_BQ_1.png

nguoilun
26-04-2014, 02:48
13- Tây Sơn ngày càng yếu, Nguyễn Ánh ngày càng mạnh

Các chính sách phát triển kinh tế-quân sự này đã giúp rất lớn cho quân đội của Nguyễn Ánh, ông đã phát triển lên được một đội quân có thể cạnh tranh nổi với Tây Sơn: theo John Barrow thì quân số của Gia Định đầu thế kỷ 19 lên tới 139.800 người[118]. Thủy binh của Nguyễn Ánh cũng trở nên hùng mạnh và có ưu thế hơn hẳn so với thủy binh của Tây Sơn,[119] chính điều này đã giúp Nguyễn Ánh có khả năng vượt biển đánh thẳng vào cảnh Quy Nhơn của Tây Sơn các năm 1790, 1797, 1798; và Nha Trang vào năm 1793, với trận quyết định tại Thị Nại năm 1801. Cho đến khi kết thúc chiến tranh; Nguyễn Ánh có một số thuyền hùng hậu lên tới 100 chiến hạm, 800 pháo hạm và 500 bán pháo hạm.

Tới lúc này, đối với nước Pháp, Nguyễn Ánh bắt đầu tìm đối sách về mặt ngoại giao: khoảng năm 1790, ông viết quốc thư với đại ý "cảm ơn nước Pháp", nhưng ông không còn cần họ giúp theo hiệp ước hiệp ước Versailles năm 1787 đã ký trước đây nữa. Đồng thời với việc trên là công cuộc giao thiệp với ba nước lớn Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng: ông cho quân chiếm đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc gia nhỏ khác. Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn Ánh trong cuộc chiến của mình.

Năm 1790, Nguyễn Ánh sai tướng đem 5000 quân thủy bộ ra đánh chiếm được Phan Rí và Bình Thuận. Đến năm 1792, nương theo gió Nam, ông sai hai tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành cùng hai sĩ quan đánh thuê người Pháp là Dayot và Vannier đánh một trận và đốt phá thủy trại Tây Sơn tại Thị Nại rồi rút về.

Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối hợp với vua anh đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792), con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh nhỏ tuổi nên thi hành nhiều chính sách yếu kém so với tiên đế và không đủ sức lãnh đạo khiến cho Tây Sơn bắt đầu khủng hoảng và chia rẽ. Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn, việc này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích Bùi Đắc Tuyên. Nhân vào thế đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo nguyên tắc đã định trước đó: "Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng". Dân chúng vùng miền Trung khi này, sau nhiều năm mệt mỏi dưới các tranh chấp nội bộ Tây Sơn, bắt đầu quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh; trong dân gian lưu truyền một câu ca dao lục bát thế này:

Lạy trời cho cả gió nồm,
Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra

nguoilun
26-04-2014, 02:58
14- Sử dụng mọi lực lượng để đánh Tây Sơn

Năm 1797, Nguyễn Ánh cho quân ra đánh Phú Yên, riêng mình thì cùng Nguyễn Phúc Cảnh chỉ huy thủy quân ra tận Quy Nhơn đánh nhau với tướng Tây Sơn là Lê Trung tại Thị Nại thu được nhiều khí giới, nhưng khi tới Quy Nhơn thấy thế Tây Sơn thủ mạnh quá đành vòng lên đánh Quảng Nam nhưng được mấy tháng lại rút về vì thuyền chở quân lương từ Gia Định bị ngược gió không lên kịp. Thời gian này, Nguyễn Ánh chiêu dụ Quang Bảo nhưng việc chưa thành vì Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang Bảo. Nhưng Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh.

Trên mặt trận ngoại giao, Nguyễn Ánh vẫn giữ áp lực với Tây Sơn nhằm cô lập họ: ông vẫn giữ liên lạc vào giao thiệp thường xuyên với Rama I nhằm thông báo tình hình với vua Xiêm. Năm 1797, ông sai Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Kế Nhuận và Ngô Nhơn Tĩnh sang Xiêm. Ngay năm sau, năm 1798 lại sai sứ đi tiếp và tới năm 1799, Nguyễn Ánh cho sứ yêu cầu vua Xiêm La cho một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đến sát biên giới Nghệ An để nghi binh và vua Xiêm đồng ý làm theo. Đồng thời, Nguyễn Ánh còn định cho sứ đi ngoại giao với nhà Thanh - Trung Quốc, với mục đích lợi dụng mâu thuẫn và thù hằn của quốc gia này với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống bên đó để khiến Trung Quốc giúp mình. Nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và Phạm Thận sang đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất.

Cũng trong năm 1799, Nguyễn Ánh tự cầm quân đi đánh thành Quy Nhơn, quân Nguyễn lợi dụng khi này Tây Sơn đang lục đục để tiến quân nhanh chóng, đánh chiếm các vùng xung quanh rồi tới vây thành Quy Nhơn, riêng Nguyễn Ánh dựa thế thủy binh có lúc tiến ra tận Quảng Ngãi. Tuy Quang Toản ngay lập tức sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào cứu nhưng việc này không hiệu quả lắm do bị quân Nguyễn chặn đánh gắt gao. Lương thiếu mà chờ mãi không có viện binh, các quan tướng giữ thành Quy Nhơn của Tây Sơn là Vũ Tuấn, Lê Văn Thanh, Trương Tấn Thúy và Nguyễn Đại Phác cầm hơn 1 vạn quân mở cổng thành đầu hàng.

Sau khi chiếm được, Nguyễn Ánh bèn đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định, rồi cho quân tới trấn giữ thành. Đồng thời, Nguyễn Ánh cũng tìm cách thu phục dân chúng vùng Quy Nhơn vì ông biết rất rõ đây là đất phát tích của Tây Sơn: ông tiếp tục chính sách tha thuế của Tây Sơn, trọng dùng hàng binh và ra tay trừng phạt nặng các tướng lĩnh dưới quyền hà hiếp dân chúng vùng này. Cũng vì Quy Nhơn mang tính đất tổ, Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại. Từ tháng giêng 1800, hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo quân nam chinh, hai ông tiến quân nhanh chóng vì quân phòng thủ Nguyễn do Võ Tánh chỉ huy chống không nổi cộng thêm nhiều hàng tướng hàng binh của Tây Sơn trong hàng ngũ quân Nguyễn liên tục ra hàng Tây Sơn. Đến tháng 1 năm 1800, quân Tây Sơn bắt đầu vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh liền cho quân ra cứu nhưng không tiến được do bị bộ binh Tây Sơn chặn lại, ông thấy thế bèn chia quân đi đánh các nơi và thắng nhiều trận, trong đó có một trận lớn ở trận Thị Nại.

Nhận thấy quân Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo tướng quân Nguyễn giữ thành là Võ Tánh mở đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh kiên quyết tử thủ để tạo đều kiện cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, chính việc này khiến thời gian hai danh tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm. Năm 1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường Quy Nhơn nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân. Tháng 5 năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân đánh nhau dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi sau đó đụng Quang Toản ở cửa Eo. Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc Hà[158] và đến 3 tháng 5 Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân.

Cùng thời gian nghe tin Phú Xuân bị đánh, Trần Quang Diệu đang vây Quy Nhơn sai binh về cứu nhưng bị quân Nguyễn chặn đánh nên quân không về được, ông chỉ còn cách cố gắng đốc binh chiếm thành[158]. Đầu năm 1802, Tây Sơn mới chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn để xin tha mạng binh sĩ. Trần Quang Diệu tha cho binh Nguyễn, an táng Võ Tánh và thuộc tướng. Quang Diệu sau đó bỏ thành Quy Nhơn để cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An. Bị quân Nguyễn chặn đường, quân Tây Sơn buộc phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào). Lúc tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt. Riêng Vũ Văn Dũng không rõ số phận [b].

nguoilun
26-04-2014, 03:03
15-Tiêu diệt Tây Sơn, lên ngôi vua, thay đổi quốc hiệu thành Việt Nam

Sau khi chiến thắng quân Tây Sơn, hoàn toàn chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế ngày 1 tháng 6 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802). Để tượng trưng sự thống nhất Nam-Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long. Sau đó ông cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê Văn Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn.

Ngay sau khi thắng hoàn toàn Tây Sơn, chiếm cả Bắc Hà, Gia Long liền cho thượng thư Binh bộ là Lê Quang Định đi sứ sang Trung Quốc để cầu phong vì cả lý do ngoại giao lẫn cả quan niệm Thiên tử của Nho giáo về nước lớn nước nhỏ. Đồng thời với việc xin phong, Gia Long cũng yêu cầu được đổi quốc hiệu là Nam Việt. Ban đầu hoàng đế nhà Thanh là Gia Khánh không chấp nhận quốc hiệu "Nam Việt" để tránh lầm với nước Nam Việt của nhà Triệu lúc này đã gồm nhiều phần lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy nhiên, Gia Long vẫn kiên trì lập trường của mình dù vua nhà Thanh đã bài bác tới vài lần để tỏ cho Trung Quốc biết nếu không cho đổi thì ông sẽ không thụ phong. Cuối cùng Gia Khánh cho đổi Nam Việt thành Việt Nam thì Gia Long mới chấp nhận.

Với người Pháp, ông vẫn tiếp tục những biểu hiện tỏ ra thân mật với người Pháp. Ông trả công hậu hĩ cho những người đã từng theo giúp mình, một số sĩ quan người Pháp cũng được làm quan trong triều đình Huế với những ưu đãi đặc biệt. Về mặt hình thức vua Gia Long là người có những quan hệ tốt với nước Pháp, đối xử với họ như những ân nhân. Chính những biểu hiện đó khiến người ta thường đánh giá Gia Long trong bản chất Nguyễn Ánh, phê phán Gia Long về những hành động khi ông đang còn là Nguyễn Ánh. Do vậy, hình ảnh Gia Long trở nên không tốt đẹp vì sự tồi tệ mà Nguyễn Ánh đã tạo ra trong lịch sử dân tộc.

nguoilun
26-04-2014, 03:08
End - Sự trả thù tàn bạo của vua Gia Long đối với Tây Sơn Nguyễn Huệ
Mối thù của Gia Long đối với Tây Sơn lên đến tận xương tủy, thấm máu dòng họ trời đất. Cho nên sau khi lên làm vua, việc trước tiên hết của ông vua này là trả thù vua quan dòng họ con cháu nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ. Sự trả thù được ghi lại như sau:

Trước hết là bắt vua Quang Toản phải tự mắt nhìn vào một loạt các cảnh gồm 5 động tác:

Phơi bày thi thể của bố mẹ Quang Toản và những người than cận nhất của nhà vua một cách nguyên xi như lúc mới bốc ở dưới mộ chiều hôm trước.
Lắp lại thành từng bộ phận hoặc toàn than những hài cốt của vua Quang Trung và bố mẹ Người để gây cảm xúc rung rợn, thương tâm.
Tập trung những hài cốt đã lắp cùng với tất cả những hài cốt rời rạc của gia đình vào một cái giỏ lớn.
Bắt buộc tất cả lính tráng và những người có mặt phải đến và đi tiểu vào cái giỏ hài cốt ấy.
Giã nát tất cả hài cốt thành bột và bỏ vào một cái giỏ khác đặt sát tận mắt vua Quang Toản để gây thêm đau khổ cho nhà vua.

Sau khi khủng bố tinh thần như vậy Quang Toản được ăn một bữa cơm khá ngon rồi bị bịt mồm lại bằng giẻ rách, tất cả gia quyến của nhà vua cũng đều bị bịt mồm để ngăn cản họ kêu la chửi rủa.

Rồi người ta dẫn đến bốn con voi, căng tay chân Quang Toản ra và trói một tay hoặc một chân của nhà vua vào một chân sau của mỗi con voi. Dưới sự điều khiển của tượng binh, bốn con voi đồng thời chạy về bốn hướng để xé than nhà vua thành bốn mảnh. Từ bốn mảnh xác ấy người ta róc thịt, lột da lấy xương để ra một nơi. Còn da thịt chia làm 5 phần bằng nhau đem ra phơi bày ở 5 chợ đông người nhất của kinh thành trên những cái cột cao để cho diều, quạ, mặt cắt…đến rỉa thịt.

"Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì”.

"Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục”.

Riêng với thiếu phó Trần Quang Diệu, vì nổi tiếng là người rất có hiếu với mẹ nên được vua Gia Long miễn cho hình phạt “voi xé” và được hưởng hình phạt “chặt đầu”. Cha bị chặt đầu nhưng con gái ông vẫn phải chịu hình “voi xé”. Cô bé này khoảng 14 – 15 tuổi, rất xinh đẹp và dễ thương, khi thấy một con voi ra quấn mình, cô réo lên một tiếng vô cùng thê thảm: “mẹ ơi cứu con với”…Bùi Thị Xuân trả lời “nhưng con ơi, con nên chết với bố mẹ hơn là sống với bè lũ lang sói kia”. Lời nói ấy vừa chấm dứt thì con voi bị kích thích đưa vói quấn lấy cô bé rồi tung lên cao rồi cho rơi xuống cắm đứng vào cặp vòi nhọn hoắt của nó và nó làm thế hai lần thì cô bé chết.

Đến lượt nữ tướng Bùi Thị Xuân, bà đã hiên ngang đi thẳng tới con voi sắp giết mình và như muốn chọc tức nó. Khi bà lại gần con voi thì có một tiếng hô lớn: “Qùy xuống cho voi dễ nắm bắt”, bà không quỳ và cứ ung dung đến sát cạnh con voi. Thấy con voi vẫn đứng im, người nài phải thúc dục nó bằng nhiều cách nó mói chịu quấn than bà tung lên đến ba lần bà mới tắc thở. Người ta nói: “ Có lẽ thấy nữ tướng Bùi Thị Xuân hiên ngang đi tới, voi đã nhận ra đó là một trong những người chủ cũ của nó”.

Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết).

(Nguồn tổng hợp)

nguoilun
26-04-2014, 03:14
Riêng hoàng thành Thăng Long ở miền Bắc cũng đã bị phá dỡ vì những nguyên nhân sau:
Để ổn định tình hình Bắc Hà, ông thi hành một chính sách hai mặt: một mặt Gia Long tỏ vẻ tôn trọng nhà Lê, ông phong quan tước cho con cháu nhà Lê (ví dụ như Lê Duy Hoán được phong 1016 tự dân và 10000 mẫu tự điển); vời dùng các cựu thần Lê triều như Nguyễn Duy Hợp, Lê Duy Đản, Ngô Xiêm.... Ngoài ra, ông còn cho giữ gìn lăng tẩm, đền miếu các vua Lê, cho sửa chữa lại Lam Kinh, xây đền Lê Bố Vệ, cho tổ chức lễ thờ tế vua Lê ở cấp quốc gia hằng năm cũng như "phong bách thần trong nước cho triều Lê". Một mặt Gia Long tìm cách làm giảm tình cảm của dân chúng bằng cách giảm ảnh hưởng của triều Lê: cho phá hoàng thành Thăng Long nhà Lê xây và thay thế bằng hoàng thành nhỏ hơn rất nhiều, thay chữ Long mang nghĩa là rồng trong Thăng Long thành Long mang nghĩa là thịnh vượng; và hủy sáu trường thi hương Bắc Hà.

Cho nên khó có thể nói những hiện vật thu thập được ở hoàng thành Thăng Long hiện nay là từ thời Lý được.

nguoilun
26-04-2014, 03:26
Chính sách cải cách mạnh mẽ sau khi lên làm vua:

- Để dẹp loạn, vua Gia Long cử nhiều tướng tài chỉ huy. Trong đó có công nhất có thể kể đến là Lê Chất hay Lê Văn Duyệt.
-Về giao thông, Gia Long cho xây dựng nhiều công trình giao thông đường thủy và đường bộ quan trọng. Trong đó có thể kể đến kênh đào Vĩnh Tế hay Thoại Hà,tiếp tục chính sách khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long, bỏ tiền đào kênh Vĩnh Tế và kênh Thụy Hà để tạo cơ sở cho việc khai hoang và xác định biên giới Việt Nam và Cao Miên. Còn ở Bắc Hà, ông cũng thực hiện việc đắp đê, kè với một khối lượng "lớn nhất so với các triều trước" và cho lập Nha Đê Chính để quản lý vấn đề này.
-Về mặt tôn giáo, triều vua Gia Long có chính sách chuộng về Nho giáo, nên chính sách về tôn giáo của Gia Long là ngược hẳn so với chính sách tôn giáo của nhà Tây Sơn. Các chỉ dụ của ông đã quy định nên nhiều chính sách có tính ngược đãi đối với những người theo Phật giáo và Lão giáo. Công giáo cũng được khoan thứ vì mối quan hệ của ông với người Pháp và các giáo sĩ không bị cấm đoán và được tự do đi truyền đạo khắp nơi. Nhìn chung, chính sách của Nguyễn Ánh đối với Thiên Chúa giáo là một chính sách không bảo vệ cũng như không bài bác
-Về quân sự thì một người nước ngoài vào thời gian này nhận xét:" ... Những cuộc hành quân của vua Nam kỳ (ý chỉ Nguyễn Ánh) giống nhau một cách kỳ lạ với những cuộc hành binh của Đệ nhất Cộng hòa Pháp, giống nhau về tổ chức, về vũ khi và nhất là về ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối thể kỷ XVIII"
Vũ khí chiến tranh vào thời này không chỉ có dao kiếm mà có cả súng tay, đại bác..., ngoài ra còn có những tàu chiến rất lớn.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/5/5b/C%E1%BB%ADu_v%E1%BB%8B_th%E1%BA%A7n_c%C3%B4ng_3.jp g
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/5/5b/C%E1%BB%ADu_v%E1%BB%8B_th%E1%BA%A7n_c%C3%B4ng_3.jp g

nguoilun
26-04-2014, 03:29
Ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức ngày 3 tháng 2 năm 1820), vua Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, miếu hiệu là Thế Tổ, thụy hiệu Cao Hoàng đế, con nối ngôi là Nguyễn Phúc Đảm, tức vua Minh Mạng.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/e/ec/M%E1%BB%99_ph%E1%BA%A7n_c%E1%BB%A7a_vua_Gia_Long_v %C3%A0_b%C3%A0_Th%E1%BB%ABa_Thi%C3%AAn_Cao_ho%C3%A 0ng_h%E1%BA%ADu.JPG
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/e/ec/M%E1%BB%99_ph%E1%BA%A7n_c%E1%BB%A7a_vua_Gia_Long_v %C3%A0_b%C3%A0_Th%E1%BB%ABa_Thi%C3%AAn_Cao_ho%C3%A 0ng_h%E1%BA%ADu.JPG

nguoilun
26-04-2014, 04:05
Có thể thấy vùng Sài Gòn có đóng góp mở mang của nhiều sắc dân là người Việt, người Xiêm, Minh Hoa và người Pháp... Còn đây là hình ảnh của một số di tích còn lưu lại của thời Gia Long ở Sài Gòn, đó là quần thể lăng mộ tả quân Lê Văn Duyệt, nằm bên hông chợ Bà Chiểu
http://photos.wikimapia.org/p/00/01/61/20/67_big.jpg
http://photos.wikimapia.org/p/00/01/61/20/67_big.jpg

nguoilun
26-04-2014, 04:38
Cái hành trình này có vẻ tương đối dài nhưng mà mấy bạn thử đi xem xem nó gian khổ đến đầu. Địa điểm đầu có thể là ở Thanh Hóa, Nghệ An gì đó. Hồi xưa đi có thể bằng ngựa, bây giờ có thể ai đi xe máy hay xe đạp cũng được. Sau khi qua Thanh Hóa đến Quảng Ngãi, tiếp theo chạy xuống Huế, Quy Nhơn, Khánh Hòa, thẳng đến Sài Gòn Gia Định. Tiếp theo qua Mỹ Tho, Long Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá. Đi tàu ra Phú Quốc. Quay lại đến An Giang, qua Campuchia. Kế tiếp qua Bangkok, Thái Lan. Rồi đi ngược đến Xiêm Riệp, về Việt Nam bằng Tây Ninh, đến Sài Gòn. Qua Khánh Hòa , Quy Nhơn, ghé Huế thăm cung điện. Kế tiếp chạy ra Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội rồi quay trở lại Quảng Nam, đến Huế tham quan lăng mộ vua Gia Long. Coi như một hành trình khoảng 4000km.

nguoilun
26-04-2014, 04:40
Ai có điều kiện thì có thể qua Bắc Kinhh tham quan cung điện nhà Thanh hay qua Pháp chơi một chút cũng được. Cái này hơi ngoài hành trình một chút. He he

nguoilun
27-04-2014, 00:44
Thêm một số hình ảnh minh họa thành Gia Định tại Sài Gòn được vua Gia Long chỉ định xây theo kiểu Châu Âu
Ở hình dưới có thể thấy hình như trước đây có 1 pháo đài nằm trên sông trước cảng Ba Son
http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/12/Thanh_Gia_Dinh_xua.jpg

http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/12/Mo_ta.jpg
http://netxua.vn/wp-content/uploads/2012/12/Mo_ta.jpg

Thêm một số di tích còn lại của thành Gia Định
Cổng thành Gia Định chỉ còn bấy nhiêu và bị phủ sơn, xi măng mới. Vị trí chỗ này nằm đôi diện Lang ông phía đường Đinh Tiên Hoàng
http://static.panoramio.com/photos/large/19253445.jpg
http://static.panoramio.com/photos/large/19253445.jpg

Theo nhiều người thì lăng Trương Tấn Bửu cũng là một di tích quan trọng của thành Gia Định, vị trí Lăng Trương Tấn Bửu ở 41 Nguyễn Thị Huỳnh, 8, Phú Nhuận, Hồ Chí Minh. Trương Tấn Bửu là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. Nhờ lập được nhiều công lao, ông được phong tước Long Vân Hầu và được người đương thời liệt vào Ngũ hổ tướng Gia Định.
Năm Quý Mùi (1823) , theo lệnh của Lê Văn Duyệt, ông chỉ huy khoảng 35.000 quân và dân lo nạo vét kênh Vĩnh Tế cùng với Thoại Ngọc Hầu, rồi chẳng bao lâu sau ông bịnh, xin về hưu vào ngày 17 tháng 11 năm Ất Dậu (1825). Ngày 2 tháng 8 năm 1827 (10 tháng 6 âm lịch năm Đinh Hợi) ông mất, thọ 75 tuổi.
Di tích này có vẻ hoang tàn, u ám, ghê rợn. Chắc vì tồn tại đã rất lâu nên có vẻ khá ma quái.
http://www.phunhuan.hochiminhcity.gov.vn/image/image_gallery?uuid=6fdcb9ee-579d-4449-b79a-d6dcdff0dad0&groupId=83&t=1252030020021
http://www.phunhuan.hochiminhcity.gov.vn/image/image_gallery?uuid=6fdcb9ee-579d-4449-b79a-d6dcdff0dad0&groupId=83&t=1252030020021
http://4.bp.blogspot.com/-vdC52M1_Vz8/UV2RViXLU0I/AAAAAAAAAfg/0PBN-tAYUsM/s1600/4.jpg
http://www.phunhuan.hochiminhcity.gov.vn/image/image_gallery?uuid=22bb50be-c7b5-4f71-860b-fa7a3e83fcc4&groupId=83&t=1252029968808
http://www.phunhuan.hochiminhcity.gov.vn/image/image_gallery?uuid=22bb50be-c7b5-4f71-860b-fa7a3e83fcc4&groupId=83&t=1252029968808

Dinh Norodom xưa nằm ở vị trí dinh Thống Nhất hiện nay
http://static.panoramio.com/photos/large/3538030.jpg
http://static.panoramio.com/photos/large/3538030.jpg

nguoilun
27-04-2014, 00:57
Văn miếu Trấn Biên tại Đồng Nai cũng là một di tích quan trọng trên hành trình đến phương Nam của vua Gia Long. Lăng này được xây vào năm năm 1715 tại xứ Đàng Trong. Năm 1861 bị Pháp phá bỏ. Mãi đến năm 1998, Văn miếu Trấn Biên mới được khởi công khôi phục lại nơi vị trí cũ, và hoàn thành vào năm 2002. Đây là một nơi phục hồi hoàn toàn mới dựa theo mô hình cũ, có giá trị du lịch và tâm linh, ko có giá trị lịch sử gì nhiều.
http://baodongnai.com.vn/dataimages/201212/original/images797453_10_Tran_Bien.jpg
http://baodongnai.com.vn/dataimages/201212/original/images797453_10_Tran_Bien.jpg
http://sotaydulich.com/userfiles/image/Duc/2010/11/09/Sotaydulich_Dpc_mien_dat_nuoc_Van_mieu_Tran_Bien_0 1.jpg
http://sotaydulich.com/userfiles/image/Duc/2010/11/09/Sotaydulich_Dpc_mien_dat_nuoc_Van_mieu_Tran_Bien_0 1.jpg

nguoilun
27-04-2014, 01:10
Thoại Ngọc Hầu (1761-1829), tên thật là Nguyễn Văn Thoại hay Nguyễn Văn Thụy ; là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.Thời Nguyễn Văn Thoại sinh ra và lớn lên lúc Trịnh và Nguyễn đánh nhau liên miên, tiếp theo nữa là phong trào Tây Sơn nổi dậy (1771). Vì thế, mẹ ông phải dẫn ông và hai em chạy nạn vào Nam, cuối cùng định cư ở làng Thới Bình trên cù lao Dài, nằm giữ sông Bang Tra và sông Cổ Chiên; nay thuộc địa phận huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:

Kênh Thoại Hà: khởi đào vào năm 1818, dài hơn 30 km, nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Đào xong được vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
Kênh Vĩnh Tế: đào theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc-Hà Tiên (tức nối sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan). Kênh dài hơn 87 km, huy động hàng vạn nhân công thực hiện từ năm 1819-1824 (có hoãn đào 4 lần). Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Tế.
Lộ Núi Sam-Châu Đốc, dài 5 km, làm từ năm 1826 đến 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Làm xong, ông cho khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng còn văn bia trong sử sách.
Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế là Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông. Liên quan đến việc mộ dân lập làng của ông, sử nhà Nguyễn có đoạn chép: "Án thủ Châu Đốc là Thống chế Nguyễn Văn Thụy trước mộ dân dời đến ở đất biên thùy, đặt ra 20 xã thôn, vay của công 1.900 quan tiền và 1.500 phương gạo cho dân, đã hoãn nhiều năm, dân vẫn chưa trả được. Đến nay Thụy đem của nhà trả bù cho dân"

Nguyễn Văn Thoại mất vì bệnh tại nhiệm sở Châu Đốc vào ngày 6 tháng 6 (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi

Lăng Thoại Ngọc Hầu còn gọi là Sơn Lăng, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành Phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là một danh thắng, một công trình kiến trúc cổ tiêu biểu dưới thời phong kiến, và là một di tích lịch sử cấp quốc gia Việt Nam

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/86/L%C4%83ng_Tho%E1%BA%A1i_Ng%E1%BB%8Dc_H%E1%BA%A7u.j pg/800px-L%C4%83ng_Tho%E1%BA%A1i_Ng%E1%BB%8Dc_H%E1%BA%A7u.j pg
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/86/L%C4%83ng_Tho%E1%BA%A1i_Ng%E1%BB%8Dc_H%E1%BA%A7u.j pg/800px-L%C4%83ng_Tho%E1%BA%A1i_Ng%E1%BB%8Dc_H%E1%BA%A7u.j pg

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d6/Ngh%C4%A9a_tr%E1%BB%A7ng.jpg/800px-Ngh%C4%A9a_tr%E1%BB%A7ng.jpg
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d6/Ngh%C4%A9a_tr%E1%BB%A7ng.jpg/800px-Ngh%C4%A9a_tr%E1%BB%A7ng.jpg

Hình xưa
http://vietlandmarks.com/upload/135183443850935b464a917.jpg
http://vietlandmarks.com/upload/135183443850935b464a917.jpg

nguoilun
27-04-2014, 01:20
Theo tài liệu lịch sử, sau khi lên ngôi, vua Gia Long cho phá bỏ cung điện nhà Lê để thị uy quyền lực và cho xây lại tòa thành nhỏ hơn. Vì vậy những hình ảnh thấy được và hiện vật mà cho là từ 1000 năm thật ra được xây vào thời Gia Long
http://www.baoxaydung.com.vn/stores/news_dataimages/hiep/082013/20/09/1.jpg
http://www.baoxaydung.com.vn/stores/news_dataimages/hiep/082013/20/09/1.jpg

http://img.news.zing.vn/img/378/t378714.jpg
http://img.news.zing.vn/img/378/t378714.jpg

http://media.thethaovanhoa.vn/2013/01/29/08/44/sua-ve-tham-quan-hoang-thanh-thang-long.jpg
http://media.thethaovanhoa.vn/2013/01/29/08/44/sua-ve-tham-quan-hoang-thanh-thang-long.jpg

http://nd.vietsoftpro.com/nd.nsf/0/E2975A2574DCF6BC47257AD3005A269F/$FILE/dien%20kinh%20thien.jpg
http://nd.vietsoftpro.com/nd.nsf/0/E2975A2574DCF6BC47257AD3005A269F/$FILE/dien%20kinh%20thien.jpg
Điện Kính Thiên trước đây được xây nhỏ lại

http://tonggiaophanhue.net/home/images/stories/gioang/image001.hanoi-1.jpg
http://tonggiaophanhue.net/home/images/stories/gioang/image001.hanoi-1.jpg

Những hiện vật này cho rằng có cách đây vào thời Lý, điều này có đúng không thì phải xem lại? Nhìn như mới nung.

nguoilun
27-04-2014, 01:35
Còn đây là kinh thành nhà Nguyễn
http://khamphahue.com.vn/Upload/VHDL/VanHoa/DiSan/VatThe/2014/CodoHue/Cuudinh1_1.jpg
http://khamphahue.com.vn/Upload/VHDL/VanHoa/DiSan/VatThe/2014/CodoHue/Cuudinh1_1.jpg
http://oi47.tinypic.com/2evxq43.jpg
http://oi47.tinypic.com/2evxq43.jpg
http://sotaydulich.com/userfiles/image/Dat/19_10_10/sotaydulich_huexua0.jpg
http://sotaydulich.com/userfiles/image/Dat/19_10_10/sotaydulich_huexua0.jpg

nguoilun
27-04-2014, 01:45
Lăng vua Gia Long tại Huế
Theo nhiều người, ai đến thăm lăng hãy thả mình trong một không gian tĩnh lặng, phong cảnh liêu trai nhưng lãng mạn và đầy chất thơ, cùng tĩnh lặng suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của ông vua đầu triều Nguyễn.

http://static.panoramio.com/photos/large/69480622.jpg
http://static.panoramio.com/photos/large/69480622.jpg
http://ashui.com/mag/images/stories/201112/ditich10.jpg
http://ashui.com/mag/images/stories/201112/ditich10.jpg
https://lh5.googleusercontent.com/-yzd6s9wVmw8/UigENI_HrrI/AAAAAAAACdQ/Ir0rkbkLyG8/w760-h511-no/479_0021b.jpg
https://lh5.googleusercontent.com/-yzd6s9wVmw8/UigENI_HrrI/AAAAAAAACdQ/Ir0rkbkLyG8/w760-h511-no/479_0021b.jpg

https://farm8.staticflickr.com/7098/13326386154_0c95946c56_o.jpg

https://farm4.staticflickr.com/3669/13326174713_4a9018e599_o.jpg
https://farm4.staticflickr.com/3669/13326174713_4a9018e599_o.jpg

https://farm3.staticflickr.com/2864/13325993415_9c0722149f_o.jpg
https://farm3.staticflickr.com/2864/13325993415_9c0722149f_o.jpg

https://farm8.staticflickr.com/7151/13326387324_f4afdd7c2f_o.jpg
https://farm8.staticflickr.com/7151/13326387324_f4afdd7c2f_o.jpg

https://farm8.staticflickr.com/7107/13326178133_c070546396_o.jpg
https://farm8.staticflickr.com/7107/13326178133_c070546396_o.jpg

https://farm4.staticflickr.com/3823/13325985705_5af2e6968d_o.jpg
https://farm4.staticflickr.com/3823/13325985705_5af2e6968d_o.jpg

nguoilun
27-04-2014, 01:56
Theo nhà Phật có câu "gieo nhân nào gặp quả đó". Dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, vua quan gây chiến tranh đau thương cho dân chúng khiến nhiều cuộc khởi nghĩa của dân nổi dậy, trong đó Tây Sơn nổi dậy và giết chết dòng họ nhà Gia Long. Tây Sơn sau khi hái quả lại gieo nhân và đến lượt Gia Long trả thù (không dưng không cớ gì lại để một đứa trẻ trong trắng rửa hận cho cả dòng họ mà nói ra đó là một điều lạ lùng). Cho nên mượn tiếng chuông chùa Thiên Mụ ở Huế để kết bài viết này trong sự bi thương của dân tộc Việt Nam. Kết thúc một hành trình đẫm máu, thù hận nhưng có sức hấp dẫn, lôi cuốn không thể không phượt hành trình này được.

http://www.youtube.com/watch?v=YYGSJ5DuINE

nguoilun
02-05-2014, 02:13
Đi theo hành trình của vua Gia Long thì mới biết vì sao đất Campuchia lại trở thành đất phía Nam của Việt Nam:
Thứ nhất là do lãnh thổ đế chế Khmer trước đây rộng lớn, sau đó bị chia ra các nước nhỏ. Trong đó có Xiêm và Miên. Xiêm Miên đánh nhau liên tục dẫn đến quân đội và dân cư ngày càng suy giảm. Số dân của Miên trên miền Nam bấy giờ rất thưa thớt so với thời kì văn hóa Óc Eo và đế chế Khmer. Những nhóm người này không đủ sức mạnh để bảo vệ vùng đất của họ, đất miền Nam hầu như vắng chủ.
Thứ hai, một bộ phận người Minh Hoa không khuất phục triều đại mới là Đại Thanh đã theo những con thuyền lớn trôi dạt trên biển, một số đã đến Đài Loan, Malaysia, Philippine, Singapore, Thái Lan và trong đó có Việt Nam. Cũng nhờ bộ phận này mở mang phần lớn đất đai ở các vùng phía Nam. Sau này họ chịu sáp nhập với quân Gia Long để có người bảo vệ họ chống lại giặc cũng như tội phạm.
Thứ ba là nhiều người Việt bị lưu đày hay bị bắt đi khẩn hoang vùng miền Nam.
Thứ tư là những người Pháp cũng muốn đi đến chỗ này.
Cuối cùng thì những người này gồm có người Việt (Bắc, trung), Pháp, Minh Hoa, Miên, triều đình Gia Long... đã phải liên kết với nhau để chống chọi lại nhiều thế lực hay thú dữ. Họ đều có những mối thù từ cố hương hay phải xa quê bỏ xứ đi đến những chân trời góc biển để lập nghiệp... Chính điều này khiến những người trên đã đồng cảm với nhau và cùng nhau khai thác một miền Nam rộng lớn. Từ đó, phần đất của người Miên bỏ hoang từ từ biến thành đất người Việt. Cũng từ sự đồng cảm mà người Nam thường có tính dễ chịu và thương yêu nhau hơn những vùng miền khác, họ sống hòa đồng, giản dị và giúp đỡ lẫn nhau. Dù rằng mang quê quán Hoa, Bắc hay Campuchia nhưng người miền Nam lại ko thích quê của họ cũng là do phải bỏ xứ mà đi. Ngày nay, sau bao nhiêu năm xa quê, hầu như người Nam đã có quê hương mới ở miền Nam và bỏ luôn giọng bản xứ, thay bằng giọng nói mộc mạc Nam Bộ dù rằng họ từ nhiều nơi đến.

yolotravel
12-05-2014, 14:25
Kiến thức lịch sử cần biết nè :p

nguoilun
14-05-2014, 23:10
Có nhiều "quý tộc" chắc sống trong vỏ bọc nhung lụa của nhà giàu nên thấy người ta có một chút gì thì nghĩ đó là "tuổi thơ dữ dội" chứ mình thấy ông Gia Long này có một tuổi thơ thực sự là còn hơn vô cùng dữ dội nữa. Tuổi thơ Hùng Thuận trong đất Phương Nam thì cũng không dữ dội bằng tuổi thơ Gia Long. Thời này Trịnh Nguyễn phân tranh, VN cũng chia đôi, Nguyễn Huệ thống nhất không thành mà nhờ vào triều Nguyễn mới thống nhất được cả trăm năm. Cho nên mình thấy biểu tượng của Việt Nam là Gia Long hơn là bác Hồ đó. Chính vua Gia Long cũng là người quyết định đổi tên nước ta thành Việt Nam.

Chitto
01-06-2014, 01:16
Cho nên mình thấy biểu tượng của Việt Nam là Gia Long hơn là bác Hồ đó. Chính vua Gia Long cũng là người quyết định đổi tên nước ta thành Việt Nam.

Tôi đã quá chán với những bài viết lung tung của bạn ở các topic khác, và những bài copy ở trong topic này, nhưng cũng không muốn tranh cãi làm gì mất thời gian.

Tuy nhiên đọc đến cái dòng "biểu tượng của Việt Nam là Gia Long" thì thực sự không nhịn nổi với lối suy nghĩ của bạn.

Gia Long đúng là có công thống nhất đất nước sau nhiều năm phân tranh, điều này gần đây lịch sử đã ghi nhận. Công này của Gia Long rất lớn, có thể nói sau mấy trăm năm mới có được.

Tuy nhiên không ai được quên rằng chính Gia Long - vì mục đích khôi phục vương vị của mình - đã mời quân Xiêm La vào đánh chính tổ quốc mình. Cũng nhờ Quang Trung với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút mà quân Xiêm tan tác và phải từ bỏ ý định xâm chiếm.

Sau thất bại đó, Gia Long còn làm việc tồi tệ hơn là đem con trai cả làm con tin, gửi sang Pháp để cầu viện quân Pháp vào đánh tổ quốc. Tuy việc quân Pháp chiếm Việt Nam không phải dưới thời Gia Long, nhưng việc cầu viện ngoại bang vào giày xéo tổ quốc, thậm chí gán cả con trai mình cho người ngoại đạo, ngoại tộc thì là một vết nhơ, một tội không thể xóa bỏ được.

Dân tộc này có thể chỉ phê phán những vị vua làm mất nước như An Dương Vương, Hồ Quý Ly, nhưng dân tộc này luôn lên án và kết tội những kẻ vì quyền lợi của mình mà uốn gối rước quân ngoại bang về, mà câu nói vẫn thường dùng là: "cõng rắn cắn gà nhà", "rước voi giày mả tổ". Đó là Lê Chiêu Thống, và Gia Long.

Công của Gia Long rất lớn, nhưng tội cũng không phải nhỏ.

Người như bạn thích lấy Gia Long - một ông vua cõng rắn cắn gà nhà, rước voi giày mả tổ - làm biểu tượng quốc gia thì có lẽ trong diễn đàn sẽ không có thêm đâu.

Nói thêm: bạn nên đọc lại kĩ xem cái từ Việt Nam này có phải do Gia Long đổi không nhé trước khi viết lung tung.

nguoilun
02-06-2014, 02:54
Ối giời ơi, tớ cũng chán vào đây nắm rồi. Tớ không thèm vào đây nữa đâu. Vào cái gì mà bị theo dõi liên tục thế. Dù là điều hành thì cũng nên tôn trọng các thành viên chứ sao vào rồi theo dõi, spam để làm chi. Tớ không thèm vào nữa nhá. Bye.

Linhmoitote
05-06-2014, 13:31
Có nhiều "quý tộc" chắc sống trong vỏ bọc nhung lụa của nhà giàu nên thấy người ta có một chút gì thì nghĩ đó là "tuổi thơ dữ dội" chứ mình thấy ông Gia Long này có một tuổi thơ thực sự là còn hơn vô cùng dữ dội nữa. Tuổi thơ Hùng Thuận trong đất Phương Nam thì cũng không dữ dội bằng tuổi thơ Gia Long. Thời này Trịnh Nguyễn phân tranh, VN cũng chia đôi, Nguyễn Huệ thống nhất không thành mà nhờ vào triều Nguyễn mới thống nhất được cả trăm năm. Cho nên mình thấy biểu tượng của Việt Nam là Gia Long hơn là bác Hồ đó. Chính vua Gia Long cũng là người quyết định đổi tên nước ta thành Việt Nam.

Chỉ ngu mới nghe ông này nói. Bọn phản động toàn đưa ra một số dữ liệu lịch sử song lại đan xen quan điểm cá nhân của chúng nó vào làm sai lạc suy nghĩ của mọi người.
Ai đời lại đi so một thằng đánh đâu thua đó, rước giặc về nhà, rước voi giày mả tổ với người có công đánh giặc giải phóng cả dân tộc. Thằng cha Gia Long chết có ai khóc không hay chỉ mấy thằng bám váy liếm đ ít tây tàu khóc (xin lỗi các bạn vì bức xúc với cái thằng theo đuôi bọn bán nước này) trong khi Bác Hồ Bác Giáp mất cả dân tộc Việt khóc.

Linhmoitote
05-06-2014, 13:33
Có nhiều "quý tộc" chắc sống trong vỏ bọc nhung lụa của nhà giàu nên thấy người ta có một chút gì thì nghĩ đó là "tuổi thơ dữ dội" chứ mình thấy ông Gia Long này có một tuổi thơ thực sự là còn hơn vô cùng dữ dội nữa. Tuổi thơ Hùng Thuận trong đất Phương Nam thì cũng không dữ dội bằng tuổi thơ Gia Long. Thời này Trịnh Nguyễn phân tranh, VN cũng chia đôi, Nguyễn Huệ thống nhất không thành mà nhờ vào triều Nguyễn mới thống nhất được cả trăm năm. Cho nên mình thấy biểu tượng của Việt Nam là Gia Long hơn là bác Hồ đó. Chính vua Gia Long cũng là người quyết định đổi tên nước ta thành Việt Nam.

Hóa ra thế này dân tộc Việt không phải là dân tộc anh hùng chống ngoại xâm mà là loại người rước voi giày mả tổ à?

Linhmoitote
05-06-2014, 14:47
http://www.baomoi.com/Quoc-hieu-Viet-Nam-co-tu-bao-gio/121/6838932.epi
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AAn_g%E1%BB%8Di_Vi%E1%BB%87t_Nam
Quốc hiệu Việt Nam có từ bao giờ?
(ĐVO) Hiện, nhiều người vẫn tưởng lầm rằng hai từ Việt Nam nói chung và quốc hiệu Việt Nam nói riêng chỉ bắt đầu xuất hiện vào năm Giáp Tý (1804) dưới thời vua Gia Long triều Nguyễn, nhưng có nhiều tài liệu lại cho rằng chính hoàng đế Quang Trung là người đặt ra quốc hiệu này.
Điều này là căn cứ vào ghi chép tại bộ Đại Nam thực lục chính biên nói về việc vua Gia Long từ năm Giáp Tý (1804) đã liên tiếp cử 2 đoàn sứ bộ (do Trịnh Hoài Đức và sau đó là Lê Quang Định) sang nhà Thanh để giao thiệp và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt.

Sợ rằng sau đó nhà Nguyễn dựa vào quốc hiệu Nam Việt để đưa ra yêu sách về lãnh thổ được rộng lớn như lãnh thổ nước Nam Việt thời nhà Triệu nên vua Thanh gửi cho vua Nguyễn một bức thư có đoạn: “…Nên lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ở bờ cõi Nam giao ... Tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa vốn xưa đã có tên là Nam Việt lại phân biệt được ra”.

Sau khi nhận tước phong Việt Nam quốc vương, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long xuống chiếu ban bố việc đặt quốc hiệu mới là Việt Nam. Chiếu viết rằng:

“Đế vương dựng nước, trước phải trọng Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”....

Chính do văn bản này được phổ biến rộng nên năm Giáp Tý (1804) được coi là năm xuất hiện của quốc hiệu Việt Nam. Vậy thật sự hai tiếng Việt Nam xuất hiện từ bao giờ và trở thành quốc hiệu khi nào?

Có nhiều nhà nghiên cứu đã cất công đi tìm lời giải đáp này và họ đã tìm được 12 tấm bia có niên đại thế kỷ 16-17 khắc hai chữ Việt Nam, ngoài ra còn một bản in khắc gỗ từ năm 1752 cũng có danh xưng Việt Nam. Như vậy hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu. Một số tác phẩm cổ cũng nhắc đến chữ Việt Nam như cuốn Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc (đời Trần, thế kỷ 14), cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đời Lê, thế kỷ 15)….

Về ý nghĩa, phần lớn các tài liệu đều cho rằng từ “Việt Nam” được kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam). Nếu xét theo phương diện rộng thì “Việt Nam” chính thức được sử dụng chính thức là quốc hiệu vào năm Giáp Tý (1804), tuy nhiên có một tài liệu khác lại cho biết quốc hiệu Việt Nam còn xuất hiện sớm hơn, cụ thể là vào năm Nhâm Tý (1792) đời vua Quang Trung. Trong bộ sách Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích - một cận thần của nhà Tây Sơn, trong đó có một văn bản do ông “phụng mệnh vua soạn thảo” mang tiêu đề “Tuyên cáo đặt mới quốc hiệu”.

Bản chiếu này viết: “Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết.

Trẫm nghĩ: Xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ rõ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp. Xét trong sách cũ đã có chứng cớ rõ ràng

Nước ta, sao Dự, sao Chẩn, cõi Việt hùng cường. Từ trước đã có Văn Lang, Vạn Xuân nhưng còn quê kệch. Đến đời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt, nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ đời nhà Lý về sau quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước đặt làm hiệu nước. Tuy vậy, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính dựng nước vậy.

Trẫm nối theo nghiệp cũ, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, tuần xét núi sông, nên đặt tên tốt để truyền lâu dài.

Nay ban đổi tên nước là Việt Nam

Đã báo sang cho Trung Quốc biết rõ.

Từ nay trở đi, cõi Viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền. Hễ ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh minh.

Vui thay.

Nghĩa xuân thu nhất thống đã truyền khắp bốn phương, ân huệ lâu dài và muôn phúc cao dày mọi người cùng hưởng. Vậy bá cáo rộng khắp để mọi người đều biết

Nay chiếu”. (Trần Lê Hữu dịch)

Như vậy, căn cứ vào các tư liệu, tư tịch cổ được các nhà nghiên cứu phát hiện đã chứng minh rằng hai tiếng Việt Nam đã có từ xưa (ít nhất cũng từ thế kỷ 14) và (có thể) chính thức trở thành quốc hiệu nước ta vào năm Nhâm Tý (1792) đời Vua Quang Trung nhà Tây Sơn.

Vậy Nguyễn Ánh có công đặt tên nước Việt Nam hay không thì các bạn tự thấy. Hết bám đuôi Thái, Pháp rồi đến Tàu với mục đích trả thù, động cơ cá nhân chứ có cao đẹp gì đâu, chỉ dân Việt khổ thôi. Các bạn thủ nghĩ xem vua Quang Trung không thắng trận thì nước ta lại bị Thái Lan (Xiêm) đô hộ có nhục không? Nó tưởng nó rước quân Xiêm về đánh thắng quân Tây Sơn song quân Xiêm lại rút về nước chắc? Bỏ công lao động và xương máu dân nó đi làm không công cho Nguyễn Ánh à?

Linhmoitote
05-06-2014, 15:03
Ối giời ơi, tớ cũng chán vào đây nắm rồi. Tớ không thèm vào đây nữa đâu. Vào cái gì mà bị theo dõi liên tục thế. Dù là điều hành thì cũng nên tôn trọng các thành viên chứ sao vào rồi theo dõi, spam để làm chi. Tớ không thèm vào nữa nhá. Bye.

Bạn nên nghỉ đi cho trong sạch diễn đàn. Không ai nghe bạn đâu. :LL

phuongnam_vtvn
16-09-2016, 13:51
Bạn này chắc google nhiều. Biết 1 mà không biết 2 này.

-Thời Quang Trung đất nước còn chia 3, lấy đâu ra thống nhất mà đặt tên Việt Nam. 2 anh em nhà Tây Sơn bem nhau chết vài vạn dân đen.

-Không có các chúa Nguyễn vanhà Nguyễn lấy đâu ra vùng đất từ Phú Yên đổ vào đến hết Cà Mau, không có vua Gia Long lấy đâu ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vua cắm mốc chủ quyền năm 1816.

-Thời Nguyễn Vương còn làm chủ phía nam, sau khi chiếm lại lục tỉnh từ Nguyễn Lữ, ở Xiêm có loạn, Trịnh Vũ Anh lên làm vua có ý muốn tranh dành chủ quyền với Đại Việt, Nguyễn Vương cử vạn quân sang Chân Lạp, giữ được đất Chân Lạp.

- Kinh đô Xiêm có biến, khi đó Nguyễn Vương đang cử phò mã Thụy giao chiến với quân Xiêm của Chất Tri. Nhờ giao hảo với phò mã Thụy, Chất Tri về kinh đô có thời cơ phế Taskin lên ngôi Rama I.

- Nếu Xiêm có ý đồ xâm lược Đại Việt thời điểm đó, chẳng khác gì tự sát khi phía bắc còn chiến tranh với Miến Điện, hơn nữa muốn chiến tranh với Đại Việt, Xiêm phải điều binh qua Chân Lạp, chẳng khác gì tự sát.







http://www.baomoi.com/Quoc-hieu-Viet-Nam-co-tu-bao-gio/121/6838932.epi
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%AAn_g%E1%BB%8Di_Vi%E1%BB%87t_Nam
Quốc hiệu Việt Nam có từ bao giờ?
(ĐVO) Hiện, nhiều người vẫn tưởng lầm rằng hai từ Việt Nam nói chung và quốc hiệu Việt Nam nói riêng chỉ bắt đầu xuất hiện vào năm Giáp Tý (1804) dưới thời vua Gia Long triều Nguyễn, nhưng có nhiều tài liệu lại cho rằng chính hoàng đế Quang Trung là người đặt ra quốc hiệu này.
Điều này là căn cứ vào ghi chép tại bộ Đại Nam thực lục chính biên nói về việc vua Gia Long từ năm Giáp Tý (1804) đã liên tiếp cử 2 đoàn sứ bộ (do Trịnh Hoài Đức và sau đó là Lê Quang Định) sang nhà Thanh để giao thiệp và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt.

Sợ rằng sau đó nhà Nguyễn dựa vào quốc hiệu Nam Việt để đưa ra yêu sách về lãnh thổ được rộng lớn như lãnh thổ nước Nam Việt thời nhà Triệu nên vua Thanh gửi cho vua Nguyễn một bức thư có đoạn: “…Nên lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ở bờ cõi Nam giao ... Tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa vốn xưa đã có tên là Nam Việt lại phân biệt được ra”.

Sau khi nhận tước phong Việt Nam quốc vương, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long xuống chiếu ban bố việc đặt quốc hiệu mới là Việt Nam. Chiếu viết rằng:

“Đế vương dựng nước, trước phải trọng Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”....

Chính do văn bản này được phổ biến rộng nên năm Giáp Tý (1804) được coi là năm xuất hiện của quốc hiệu Việt Nam. Vậy thật sự hai tiếng Việt Nam xuất hiện từ bao giờ và trở thành quốc hiệu khi nào?

Có nhiều nhà nghiên cứu đã cất công đi tìm lời giải đáp này và họ đã tìm được 12 tấm bia có niên đại thế kỷ 16-17 khắc hai chữ Việt Nam, ngoài ra còn một bản in khắc gỗ từ năm 1752 cũng có danh xưng Việt Nam. Như vậy hai tiếng Việt Nam đã có từ lâu. Một số tác phẩm cổ cũng nhắc đến chữ Việt Nam như cuốn Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc (đời Trần, thế kỷ 14), cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đời Lê, thế kỷ 15)….

Về ý nghĩa, phần lớn các tài liệu đều cho rằng từ “Việt Nam” được kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam). Nếu xét theo phương diện rộng thì “Việt Nam” chính thức được sử dụng chính thức là quốc hiệu vào năm Giáp Tý (1804), tuy nhiên có một tài liệu khác lại cho biết quốc hiệu Việt Nam còn xuất hiện sớm hơn, cụ thể là vào năm Nhâm Tý (1792) đời vua Quang Trung. Trong bộ sách Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích - một cận thần của nhà Tây Sơn, trong đó có một văn bản do ông “phụng mệnh vua soạn thảo” mang tiêu đề “Tuyên cáo đặt mới quốc hiệu”.

Bản chiếu này viết: “Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết.

Trẫm nghĩ: Xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ rõ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp. Xét trong sách cũ đã có chứng cớ rõ ràng

Nước ta, sao Dự, sao Chẩn, cõi Việt hùng cường. Từ trước đã có Văn Lang, Vạn Xuân nhưng còn quê kệch. Đến đời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt, nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ đời nhà Lý về sau quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước đặt làm hiệu nước. Tuy vậy, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính dựng nước vậy.

Trẫm nối theo nghiệp cũ, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, tuần xét núi sông, nên đặt tên tốt để truyền lâu dài.

Nay ban đổi tên nước là Việt Nam

Đã báo sang cho Trung Quốc biết rõ.

Từ nay trở đi, cõi Viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền. Hễ ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh minh.

Vui thay.

Nghĩa xuân thu nhất thống đã truyền khắp bốn phương, ân huệ lâu dài và muôn phúc cao dày mọi người cùng hưởng. Vậy bá cáo rộng khắp để mọi người đều biết

Nay chiếu”. (Trần Lê Hữu dịch)

Như vậy, căn cứ vào các tư liệu, tư tịch cổ được các nhà nghiên cứu phát hiện đã chứng minh rằng hai tiếng Việt Nam đã có từ xưa (ít nhất cũng từ thế kỷ 14) và (có thể) chính thức trở thành quốc hiệu nước ta vào năm Nhâm Tý (1792) đời Vua Quang Trung nhà Tây Sơn.

Vậy Nguyễn Ánh có công đặt tên nước Việt Nam hay không thì các bạn tự thấy. Hết bám đuôi Thái, Pháp rồi đến Tàu với mục đích trả thù, động cơ cá nhân chứ có cao đẹp gì đâu, chỉ dân Việt khổ thôi. Các bạn thủ nghĩ xem vua Quang Trung không thắng trận thì nước ta lại bị Thái Lan (Xiêm) đô hộ có nhục không? Nó tưởng nó rước quân Xiêm về đánh thắng quân Tây Sơn song quân Xiêm lại rút về nước chắc? Bỏ công lao động và xương máu dân nó đi làm không công cho Nguyễn Ánh à?

Chitto
21-09-2016, 13:52
Bạn này chắc google nhiều. Biết 1 mà không biết 2 này.

(1) -Thời Quang Trung đất nước còn chia 3, lấy đâu ra thống nhất mà đặt tên Việt Nam. 2 anh em nhà Tây Sơn bem nhau chết vài vạn dân đen.

(2) -Không có các chúa Nguyễn vanhà Nguyễn lấy đâu ra vùng đất từ Phú Yên đổ vào đến hết Cà Mau, không có vua Gia Long lấy đâu ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vua cắm mốc chủ quyền năm 1816.

(3) -Thời Nguyễn Vương còn làm chủ phía nam, sau khi chiếm lại lục tỉnh từ Nguyễn Lữ, ở Xiêm có loạn, Trịnh Vũ Anh lên làm vua có ý muốn tranh dành chủ quyền với Đại Việt, Nguyễn Vương cử vạn quân sang Chân Lạp, giữ được đất Chân Lạp.

(4) - Kinh đô Xiêm có biến, khi đó Nguyễn Vương đang cử phò mã Thụy giao chiến với quân Xiêm của Chất Tri. Nhờ giao hảo với phò mã Thụy, Chất Tri về kinh đô có thời cơ phế Taskin lên ngôi Rama I.

(5) - Nếu Xiêm có ý đồ xâm lược Đại Việt thời điểm đó, chẳng khác gì tự sát khi phía bắc còn chiến tranh với Miến Điện, hơn nữa muốn chiến tranh với Đại Việt, Xiêm phải điều binh qua Chân Lạp, chẳng khác gì tự sát.

Không biết bạn là ai, vì nick bạn lần đầu viết bài, tuy nhiên bạn đã viết thì tôi cũng có vài điều viết lại. Tôi tạm đánh số (1) đến (5) cho các lập luận của bạn.

Trước hết cần phải xem mục đích các bài viết là để làm gì. Bạn Linhmoitote viết bài là để phản bác lại luận điểm của Nguoilun rằng "Chính vua Gia Long cũng là người quyết định đổi tên nước ta thành Việt Nam".
Cho nên bạn phản bác Linhmoitote thì cũng phải dựa trên chủ ý đó, chứ không phải viết lung tung ra ngoài.

(1): Năm 1792 khi Nguyễn Huệ lên ngôi vua Quang Trung, đúng là chỉ làm vua từ Quảng Nam trở ra Bắc, còn lại vẫn thuộc Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Nhưng việc đó với việc Quang Trung (có thể) sử dụng tên Việt Nam thì có liên quan gì đến nhau ? Chẳng lẽ vì chưa thống nhất mà cái tên Việt Nam lại là "không thể sử dụng" à ?????

Bài viết của Linhmoitote chỉ trích dẫn tài liệu nói về việc dùng tên Việt Nam từ bao giờ, nhằm khẳng định tên đó không phải Gia Long đặt ra, và trước đó đã có trong lịch sử rồi. Nếu (nếu nhé) Quang Trung dùng tên đó cho vùng đất ông cai quản thì có gì là không thể được????

(2) Công chúa Nguyễn khai phá đằng trong là của 9 đời chúa Nguyễn, không ai phủ nhận. Nhưng Gia Long có công gì trong việc khai phá đó đâu ??? Chẳng lẽ vì tổ tiên của Gia Long khai phá mà phải tung hô Gia Long sao? Cái điều (2) này của bạn nó chẳng ăn nhập gì vào bài cả.

(3) "Sau khi chiếm từ Nguyễn Lữ" tức là sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút, việc giao hảo Xiêm - Nguyễn Ánh có vai trò gì ở đây?
(4) Ý bạn là Rama I chịu ơn Nguyễn Ánh nên sẽ không đánh chiếm đất của chúa Nguyễn?

(5) Tương tự: ý là Xiêm sẽ không làm hại gì đất chúa Nguyễn????


Bạn giả vờ hay không nghĩ thật? Rama I (Chất Tri) giết Taski để lên ngôi, mà trước đó Taksi vừa là bạn cũ thời nhỏ, vừa là người cùng chiến đấu chống quân Miến, vừa là vua của Rama. Một người giết bạn, giết vua cũ để lên ngôi, liệu có vì tình nghĩa mà "giúp đỡ không công" cho ông bạn xa lắc Nguyễn Ánh không?

Bạn nói Xiêm điều binh qua Chân Lạp khác gì tự sát, thế thì ai điều binh để có 2 vạn quân Xiêm trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút vậy??? Quân đó quân nào mà để Nguyễn Huệ đánh tan???

Với một người khôn ngoan như Rama I, điều quân để làm gì? Có phải vì "Tình nghĩa yêu thương" với Nguyễn Ánh chăng????

Tất nhiên, việc "đô hộ nước ta" thì không thể, vì nước ta dài quá, nhưng nếu có cơ hội thì liệu Xiêm cũng chẳng bỏ qua mảnh đất Nam Kỳ đâu. Nhìn bản đồ sau thì biết, họ đã gần Nam Kỳ thế nào, vì thế Nguyễn Ánh và Xiêm mới dễ dàng qua lại với nhau, chỉ bằng cách đi đường biển.
Trong bản đồ thì người vẽ cho rằng phần Nam kỳ thuộc Chân Lạp (màu vàng) nhưng thực ra là thuộc quyền quản lý của các Chủa Nguyễn rồi. Còn Xiêm màu xanh lục thì gần đó lắm. Chân Lạp chỉ có một tẹo ra biển thôi.

Bản đồ năm 1780

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/67/1780_Raynal_and_Bonne_Map_of_Southeast_Asia_and_th e_Philippines_-_Geographicus_-_Philippines-bonne-1780.jpg/1200px-1780_Raynal_and_Bonne_Map_of_Southeast_Asia_and_th e_Philippines_-_Geographicus_-_Philippines-bonne-1780.jpg