PDA

View Full Version : Du ký tuyển tập



happypack
04-10-2010, 17:52
Từ việc xuất bản bộ sách "Du Ký Việt Nam" của NXB Trẻ , giới thiệu những bài viết trên mục Du ký của "Nam Phong tạp chí" (một tờ báo uy tín tồn tại từ 1917-1934), mình có ý tưởng lập topic này để mọi người có thể sưu tập và post lên đây những bài báo, tạp bút, tản văn, tùy bút, phóng sự, ký sự du lịch hay ho mà mình đọc được đâu đó trên mạng hay trên báo để chia sẻ trong diễn đàn.

Cũng là một hình thức để khơi lên ngọn lửa xê dịch trong mỗi người, hoặc chỉ đơn giản là cung cấp kiến thức hay chia sẻ với nhau câu chuyện về thân phận con người ở một vùng đất nào đó.

Các bài này phải ghi rõ tên tác giả cũng như nguồn trích dẫn để tránh rắc rối về vấn đề tác quyền.

Bạn nào có điều kiện đọc các bài viết hay tiếng nước ngoài mà có thể dịch lại và đăng lên chia sẻ thì hay quá!!!

Để tiện cho người đọc, bên cạnh tựa đề của bài báo bạn có thể mở ngoặc chú thích tên vùng đất được nhắc đến trong bài báo.

Đây chỉ là khởi đầu ý tưởng, mời mọi người cho ý kiến và đóng góp :)

MỤC LỤC

1. Viengxay - ngày vắng mặt trời (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=262665#post262665) (Viengxay, Huaphan, Lào)
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

2. Mường Lò (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=263008#post263008) (Yên Bái, Việt Nam)
Bút ký của Hoàng Thế Sinh

3. Nhớ "món Tết" giữa núi cao và mây mù... (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=263139#post263139) (Mường Tè, Lai Châu, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Lãng Quân

4. Quỳ lạy một nền văn minh đã mất ở Cánh Đồng Chum (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=263144#post263144) (Phonsavan, Lào)
Tản mạn của Đỗ Doãn Hoàng

5. Si Ma Cai - bài ca đỉnh núi… (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=263882#post263882) (Lào Cai, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Doãn Hoàng

6. Xa Đầm Thị Tường (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=263897#post263897) (Cà Mau, Việt Nam)
Bút ký
Nguyễn Ngọc Tư

7. Những mái trường chỉ biết có cơm rau... (https://www.phuot.vn/threads/11692-Du-ký-tuyển-tập?p=263902#post263902) (Si Ma Cai, Lào Cai, Việt Nam)
Tác giả, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng

happypack
04-10-2010, 17:56
xin mạn phép mở đầu

Viengxay - ngày vắng mặt trời (Viengxay, Huaphan, Lào)
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
http://www.viet-studies.info/NNTu/index.htm

Dốc hết giọt can đảm cuối cùng, tranh đấu tới cùng mới tung được tấm chăn ra, hé cửa bước vào Viengxay ủ ê, đục mờ trong sương giá. Cái màu trời tưởng mới hừng đông, nên ngủ hoài, chui rúc hoài trong chăn, mở mắt vẫn sương hiu hắt, mụ mị trên núi, trên cây, trên những mái nhà gỗ im lìm sau hàng rào tre thưa xiêu xiêu.

Người Viengxay nói ba tuần rồi không thấy mặt trời. Dòng sông mùa đông đưa cái rét chảy len lỏi vào từng ngã đường heo hút, quanh co trong thung lũng. Rét còng cả lưng. Đi hết con dốc bỗng bớt lạnh, không biết vì mệt, vì cơ thể đã tự điều chỉnh được, hay vì đi ngang qua những cô bé áo đỏ rực, má đỏ rực, chân ríu trong váy, thẹn thùng chào khách, “Sabaidee !” ?!

Cảm giác nắng đâu đây với tất cả vẻ lung linh nồng ấm và rực rỡ của nó. Ngay cả không có mặt trời thì vẫn cứ nắng. Trên môi của những thiếu nữ, những cụ già, em bé, từng đóa nắng xòe ra. Đi sau nó là câu chào và cái nhìn lấp lánh của một khuôn mặt lấp lánh rựng lên dưới cái rét câm lặng. Cái nhìn thẳng tắp, nụ cười cởi mở đậm dấu trong mắt người. Không phải cái kiểu hững hờ, mặt ngó đâu đó mông lung chào cho có mà tôi vẫn thường gặp xưa rày.

Cười là một cách nói. Trong chợ, cười nghĩa là “Mua giúp tôi ít măng không ?”, cười nghĩa là “xôi còn nóng hổi đây nè”, cười nghĩa là, “cá này tôi bán rẻ thôi mà…”. Không cần chèo kéo chào mời, chợ thong thả đi vào chiều. Trên đường, cười nghĩa là “bữa nay lạnh quá”, cười nghĩa là “mình xấu lắm, đừng chụp hình”, hay “ở đây có lửa, mời ngồi vào cho ấm”…

Tôi không còn mong ngóng mặt trời, càng đi càng thấy ấm, càng thấy nhiều đốm nắng bên đường. Nắng thay đổi theo từng bước chân. Mới thấy cái nắng ban mai của những vạt hoa cải bất chấp thời tiết khắc nghiệt rạng rỡ trong những vuông sân thì cái nắng đỏ ánh ỏi sau mưa của đào phai lại hiện ra. Có rất nhiều đào trong những khu vườn, bên triền núi ra vẻ bâng quơ, hoang dại, như chẳng ai trồng tưới bao giờ, như chẳng hay là mình đẹp. Và hoa trạng nguyên mọc xen trong vạt cỏ úa cũng đỏ chấp chới bất chấp mấy lớp sương giá đắp.

Nhỏ như một phường của Sài Gòn, nhưng đi ba ngày không hết Viengxay. Lối nào cũng ngoằn ngoèo, cũng dẫn tới những ngôi nhà sàn nhỏ, những vuông sân thắp hoa mận, hoa lựu, hoa đào… Lối nào cũng ngang qua những bầy trẻ con chạy giỡn (con nít Viengxay chắc hiền lành từ trong bụng mẹ, sực nhớ lang thang mấy ngày trời không bắt gặp tiếng khóc nào), mặt mũi lem luốc mà cười trong veo… Rẽ vào đâu cũng nhiều hoa cỏ dại, nhiều bếp lửa đốt bên đường, vì Viengxay biết khách bộ hành run rẩy nên sớt ấm cho ?! Ngồi lại, hơ tay trên ngọn khói, ăn mấy củ khoai nướng nóng ran cả lòng, ngó lũ gà con nằm sưởi cạnh, kêu chiu chít. Bình yên đến nỗi thấy kỳ cục nếu tim mình rộn lên khi có nụ cười quá đẹp ngang qua. Cậu nhóc đi cùng cứ lẩm bẩm câu thơ học hồi phổ thông, “cười như mùa thu tỏa nắng…”.

Cũng chẳng nghĩ được câu thơ, câu văn nào “đắt” hơn để diễn tả nụ cười Viengxay giữa cái rét nhức nhối này. Cũng chẳng nhớ thêm một câu thơ nào khác để diễn tả vẻ cởi mở mà không vồ vập, hiếu khách mà từ tốn, chừng mực. Qua một hẻm núi, có đám trẻ chơi bắn nạng thun, chụp hình chúng xong, một đứa xòe tay ra. Tôi giật mình, một chút chua xót, một chút ngậm ngùi. Nhưng… thằng nhỏ chỉ muốn mời khách xa một trái cây mọc rày bên núi, nhỏ xíu, vừa chát vừa chua.

Cái bàn tay lấm lem nhỏ xíu đó không biết xin tiền. Mà tôi đã gặp đâu đó trên đất nước mình. Chân của trẻ Viengxay cũng trần, áo cũng rách, đôi ba chỗ thịt da tím tái, nhưng năm ngón tay không ra giá “5 USD”.

Nhận ra không phải vì những nụ cười, và câu chào có âm cuối rất ngân nga “Sa – bai – đi…i…i...” (mà phiên âm ra tiếng Việt cũng… buồn : xa bay đi” mà tôi lại cảm động trước Viengxay. Ở cái thung lũng lặng lẽ này, tôi gặp lại tôi, gặp lại những vùng miền trên đất nước tôi của thời đã mất. Hèn gì mà cảm giác thân thiết, dịu dàng, ấm áp. Hèn gì sưởi cái cười mà cóng róng đi qua được rét.

Tôi rời Viengxay đúng hôm mặt trời quay lại. Những hàng rào bên đường trở nên sặc sỡ với váy áo, chăn màn hong nắng. Vài người phụ nữ Lào tắm gội xong ra sân phơi tóc. Chào nhau bỗng thấy nắng vẫn nhợt hơn những nụ cười. Không biết khi mùa hè trở lại, thì nắng trời có rực và ấm hơn nắng trên môi người không ?! Và không biết khi tôi trở lại, bàn tay xòe của những em bé xinh đẹp Viengxay vẫn những ngón tay trong veo, lung linh hoa trái ?!

________________________________________

* Huyện Viengxay thuộc tỉnh Houaphan, được xem là cái nôi, căn cứ địa của Pathet Lào với địa hình hẻo lánh cùng với khoảng 500 hang động tự nhiên ẩn trong các dãy núi. Những năm chiến tranh ác liệt, Viengxay bị cày nát dưới mưa bom, quân dân Lào sống trong các hang động, nhiều tài liệu ghi, có lúc lên đến 23.000 người. Cách Xieng Khouang 370km đường đèo dốc ngoằn ngoèo. Cách cửa khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) 56km. Hàng ngày, tầm 10h sáng, có xe đò Viengxay tới cửa khẩu đón khách. Nên mang theo… khẩu trang, nếu không muốn mũi thành hai… ống khói, vì đây là xe thùng trống trải, lại phải è ạch đi đường núi.

*Bạn chỉ cần học câu chào và lời cảm ơn của người Lào thì có thể sống khỏe một tuần. Sau đó thì… chắc phải học thêm bởi diễn hoài cũng… mỏi. Có trường học dạy tiếng Anh nhưng thường thấy người dân… cười mà không nói tiếng Anh (tất nhiên, mấy anh hướng dẫn viên thì ngon lành rồi). Túng quá, bạn cứ nói tiếng… Việt, vì khá nhiều người Viengxay đã từng học tập tại Việt Nam. Nếu bạn đi ngang một sân bóng chuyền và gặp người hát “hết rau rồi em có lấy măng không” trước khi giao bóng thì cho tôi gởi lời thăm. Nhắn rằng tôi nhớ một đêm mùa đông ngồi uống rượu ca hát với bạn, cười nôn khi nghe bạn nói “nhà quê bỏ mẹ” rất ngôn ngữ vỉa hè, ngậm ngùi nghe bạn kể về người con gái Việt, “người ta đã có chồng rồi, mình phải giữ cho người ta yên ấm…’”. Nhớ rượu Viengxay cay ứa nước mắt ra…

happypack
05-10-2010, 11:53
Mường Lò (Yên Bái, Việt Nam)
Bút ký của Hoàng Thế Sinh

ND - Tu hú vừa mới cất tiếng gọi bầy, những chùm vải đỏ vít cong cành, tôi đã vội đi Mường Lò. Chao ơi là nhớ! Chẳng hiểu ra làm sao nữa, vì tôi đã từng qua Mường Thanh - Mường Than - Mường Tấc, nhưng chẳng mường nào để thương để nhớ thật nhiều như Mường Lò.

Thế nên vừa vượt đỉnh dốc Thái Lão, không kịp nghỉ ngơi, tôi đã ào vào cái biển lúa vàng mênh mông. Rồi một mình lững thững ra ngắm dòng Thia - dòng suối mát lành và trữ tình đến nỗi đã trở thành thi ca - nhạc - họa của bao nghệ sĩ. Dòng suối Thia chẳng hiểu chứa đựng những gì của trời đất mà tắm cho da con gái Thái Mường Lò cứ trắng hồng, mà tưới tắm cho cả cánh đồng Mường Lò những 2.400 ha bốn mùa lúa ngô xanh tươi, hạt mẩy, gạo trắng thơm ngon nức tiếng cả nước, đến nỗi trở thành thương hiệu "Gạo cô gái Mường Lò".

Bây giờ đầu hạ, nước dòng Thia còn xanh trong. Tôi men theo dòng Thia xuống Noong Ỏ. Ðứng ngay ven ngã ba suối - nơi hợp lưu rộng lớn của suối Nhì và suối Thia, tôi mải xem mấy chàng trai lưng trần quăng chài. Cả chục chiếc mảng quây thành vòng tròn, rồi một - hai - ba, cả chục chiếc chài bung lên trời những cái vòng tròn tựa như những chiếc dù, trong chớp mắt, ụp cả mặt trời đỏ xuống dòng Thia.

Từ lâu, quăng chài quây trên dòng suối Thia là một thú đam mê của các trai bản Thái. Dõi theo mấy chiếc mảng vòng sang bờ bên kia, tôi giật thót khi nhìn thấy mấy thiếu nữ Thái eo vai để trần, đương xỏa mái tóc mướt xanh xuống dòng nước lấp lóa ánh chiều. Ôi dô! Sao các em hồn nhiên đến thế! Tôi biết, chốc nữa các em còn tắm nữa kia, tắm không áo váy, thỏa mái cho dòng suối nguồn mát lành thấm đẫm da thịt trắng hồng một thời con gái. Chả thể đứng mãi đây, tôi đành chân thấp chân cao, vội quay về, cũng bởi tối nay nhà anh bạn tôi có cuộc vui xòe mừng cơm mới.

Về đến bản Cò Noòng thì trăng cũng vừa nhô lên khỏi đỉnh núi Phình Hồ. Ánh trăng đổ vàng lênh loáng khắp bản. Ba hũ rượu cần đã xòe cong cần như hoa cúc giữa khoảng sân còn đương vương rối thóc rơm. Một lúc thì các em gái bản ríu rít kéo nhau tới, chẳng khác gì đàn bướm xinh rập rờn bay từ đồng lúa vàng vào bản. Chúng tôi ra chào. Em Sương. Em Nhình. Em Ban. Em Hương. Em Xạ. Em Na. Em Thương... Ôi dô! Toàn các em gái chưa tằng cẩu - chưa búi tóc tức là chưa có chồng, xinh tươi như hoa ban mùa xuân ấy. Các em mời chúng tôi vào vòng cần. Chào nhau vài mút rượu cần đã. Các em gái nhoẻn cười, sờ tay vào yết hầu mỗi người xem có mút cần thật không.

Chừng đã chuếnh choáng, các em gái cầm tay chúng tôi nối vòng xòe. Lập tức, trống cắc tùng - cắc tùng tùng. Chiêng xèng xùng xèng - xùng xèng. Khèn te tò tí - te tò tí. Lời khắp ngoài kia cất lên à - ơi - ời - ời. Vòng xòe giăng giăng, ríu rít, nghiêng ngả, miên man.

Mọi người đang say xòe thì tôi dứt khỏi vòng xòe, lên nhà sàn xem nấu nướng. Bếp lửa rực đỏ cho thêm hồng đôi má các em. Tôi sà vào cạnh bếp lửa, xem. Một em đang đặt mấy pa pỉnh tộp (cặp cá nướng) trên than hồng, toàn cá chép to bằng bàn tay. Một em khác đang lật giở mấy cặp cá sỉnh - một thứ cá suối chuyên ăn rêu suối Thia và suối Lung, mình xám chỉ to bằng ống trúc, miệng tẹt bằng, ngon nổi tiếng cả vùng Tây Bắc.

Than hồng đốt cho cá căng thịt, mỡ chảy xuống than xèo xèo, bốc khói thơm nức, khiến tôi ứa nước miếng. Một em phía bên kia bếp than đang gói mấy gói cay hỉn (rêu đá), vùi vào than hồng. Còn cái chõ gỗ trên bếp, tưởng là xôi nếp, hỏi ra mới biết là các em đang xôi phắc nhả hút (cỏ mần trầu).

Khi các mâm cỗ được bày ra sàn, mọi người dừng xòe để vào cuộc rượu, với nhiều món ngon món lạ, nào nó xổm héo (măng chua héo), nhưa khoai mọ min (thịt trâu để ôi đem xôi), nhưa cáy mọ (thịt gà xôi), mắc pi cuội (hoa chuối thái nhỏ), bản phắc me (lá nhội), hom sa lan (rau húng rừng), mac khén (hạt sẻn), mẳm pa (nước mắm cá)..., cũng do chính bàn tay khéo léo của các em gái Thái chưa tằng cẩu (chưa lấy chồng), làm ra. Thì nhắm! Ôi giời! Ngon ơi là ngon! Vui ơi là vui! Vừa uống rượu cần, các em gái vừa khắp à ơi, lời khắp mừng được mùa, chúc tụng gia chủ những điều tốt đẹp.

Tôi nghe em Ban dịch loáng thoáng, nhiều lời hay ý đẹp, nhưng chỉ nhớ một đoạn. Lời rằng: Ka nị chắng dú li xương phủ luông ké/ Chắng dú li xương me luông con/ Dét óh bon nha mảy/ Xảy chết hai mương lun nha thong (Từ nay sống hãy như rồng lớn/ Sống đẹp như rồng thiêng/ Nắng trên không chớ cháy/ Ðau ốm dưới trần gian chớ mắc phải!). Lời nữa: Kha nị khảu lậu nháư nha mong/ Nả coong luôn nha xẩư/ Kin lẩu tánh tị/ Y y tua phén din mường bản (Từ nay vựa thóc lớn chớ vơi/ Cơm coong to đừng mốc/ Rượu nồng càng đượm ân tình/ Vang vọng vui vẻ khắp mường bản).

Thế mới biết, con gái Thái đã được các mẹ, các chị dạy dỗ thật chu đáo, từ khi chưa tằng cẩu. Dạy từ cách đi đứng, nói năng, hát múa, dệt thổ cẩm, thêu thùa, gieo trồng cấy hái, cách nấu ăn - kiểu mẹ truyền con nối, là bản sắc văn hóa làm nên cái đẹp, nét riêng, rất bền chặt của tộc người Thái. Cuộc rượu xong, lại xòe tiếp.

Vòng xòe lúc hẹp lại, lúc rộng ra, các cô gái thay nhau đổi chỗ để cùng được nắm tay mỗi chúng tôi trong phút giây vui vẻ. Càng về khuya vòng xòe càng bền chặt tha thiết. Ôi, các em gái Thái mắt lấp lánh, lấp lánh sao trời mùa hạ, má hồng tươi, môi đỏ như son. Các em chưa tằng cẩu, tóc xanh mướt xỏa dài tận eo lưng. Chiếc xà tích bạc cứ lóng lánh lóng lánh nơi cạp váy. Hàng cúc mắc pém lẻ đôi cứ nhúng nhính nhúng nhính. Vào vòng xòe, tay trong tay, chân như bay đỉnh núi, mắt nhìn đắm đuối, thấy các em gái Thái sao đẹp thế, sao mà cuộc đời này đáng yêu thế. Ai nấy ngả nghiêng say xòe...

Chẳng còn biết sau cái đêm xòe từ ngoài sân lên sàn, xòe rơi cả xuống chân thang, xòe từ chiều vào khuya ấy, bạn nào đã dìu tôi về ngủ lịm ở nhà khách huyện.

Sớm hôm sau tôi vẫn còn ngơ ngẩn nhớ đêm xòe bản Cò Noòng, rồi mang cả cái ngơ ngẩn nhớ ấy đi một vòng quanh Mường Lò. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi nhà sàn Bác Hồ - nơi đồng bào miền Tây Yên Bái thờ Bác Hồ trong khuôn viên xanh biếc.

Tôi nghiêng mình trước Tượng đài Victoria Nghĩa Lộ trên đồi cao Pú Chạng, một phút tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh cho Tây Bắc, cho Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Tôi thanh thản thả bộ trên phố núi Nghĩa Lộ nhỏ xinh như một bông hoa rừng - bông hoa rừng nở giữa mênh mông vàng lúa, giữa trùng trùng núi giăng bọc suốt từ Phình Hồ sang Suối Giàng - núi Dâng, vòng về núi Pú Lo - Pú Chạng - Túc Ðán. Tôi rẽ vào Bản Lè xem các em gái Thái dệt thổ cẩm. Tí tách thoi đưa, dệt nên muôn hình dáng và sắc mầu của mây trời, núi non, sông suối, chim muông, cỏ cây, hoa lá. Rồi qua chợ Mường Lò, chợ miền Tây Bắc xa xôi nhưng không thiếu một thứ gì, từ rau cỏ núi rừng đến đồ điện tử Tây - Tàu...

Tôi đảo qua các dãy hàng, từ tầng dưới lên tầng trên, cứ lẫn vào nhộn nhịp bao nhiêu là các em mua sắm, các em chơi chợ, chìm lút vào bao nhiêu là hàng quán. Nhộn nhịp lắm nhưng thôi chả chơi chợ nữa. Tôi đi vào Cò Cọi để tắm suối nước nóng. Mới ngấp nghé bờ ruộng ở ven lũy tre, đã thấy nhiều nhiều phụ nữ, trẻ em, cả các cô gái nữa, cứ tự nhiên cởi bỏ áo váy giữa rừng núi mà dầm mình xuống bể nước khoáng nóng...

Tôi ái ngại quá, đành quay ra. Chiều về cánh đồng Cầu Thia, men bờ ruộng đi sâu vào đồng lúa. Ôi giời! Mùi quả lúa chín thơm, cái mùi thơm ngọt nức, cảm nhận như mùi kẹo kéo được nhểu ra từ thứ mạch nha vàng hổ phách, cứ mê mê chép miệng, đến là thích. Ô kìa, những cánh cò trắng lượn theo nhau, vòng suốt từ Cò Noòng xuống Noong Ỏ - Cang Nà, sang Bản Hẻo - Cò Cọi, lại bay về Cầu Thia, thỉnh thoảng chúng dàn hàng ngang dênh ngược lên lưng núi Dâng trông chẳng khác gì những cánh diều màng của lũ mục đồng thả chơi cùng mây núi.

(còn tiếp)

happypack
05-10-2010, 11:58
Mường Lò
Bút ký của Hoàng Thế Sinh
(tiếp theo và hết)

Ðây rồi, các cô gái Thái đang nối nhau, nhún nhẩy gánh lúa về bản. Nắng chiều lấp lóa hàng cúc mắc pém. Dáng áo cỏm thon bó làm mềm cả trời chiều. Thì vẫn chân trần lấm đất, dưng mà, mỗi khi vào vòng xòe sao mềm mại, dẻo dẻo, khéo khéo là. Bàn chân trần lấm đất của các cô gái Thái khiến tôi không thể quên cái đêm xem xòe cổ dưới chân núi Pú Chạng.

Ðúng ra, đấy là một đêm hội đại xòe với hàng trăm người tham gia, nhưng chương trình trước đó có biểu diễn sáu điệu xòe cổ: Khắm khen, Phá sí, Ðổi hôn, Nhôm khăn, Ỏm lọm tốp mư. Phải thừa nhận, chưa bao giờ tôi được xem đủ sáu điệu xòe cổ độc đáo đến như thế.

Xem các em gái Thái chưa tằng cẩu đam mê xòe cổ mà tôi như thấy núi đang sừng sững mọc lên giữa trời đất, như nghe tiếng suối tiếng gió đang ào ào đổ về từ thời hồng hoang, như dõi nhìn mây ngàn bồng bềnh bồng bềnh phiêu dạt, như đang hít hà hương lúa chín đồng vàng Mường Lò, như nghe tiếng hát ngọt ngào tiếng cười giòn tan trong ánh lửa nhà sàn, như nhìn thấy muôn cánh chim trời thấp thoảng chiều hôm về ngàn. Tôi hiểu, mỗi điệu xòe cổ còn là một biểu hiện tình cảm tinh tế, sâu sắc, là một trạng huống giao tiếp, một cung bậc tình cảm của người Thái Mường Lò cùng nguồn cội. Xem xòe cổ, tôi cứ ngỡ các diễn viên biểu diễn. Nên khi xong các tiết mục, tôi liền tìm gặp các em.

Hỏi mới biết, các em đều là sơn nữ bản Cò Cọi, Noong Ỏ, Cang Nà, Thanh Lương, Cò Noòng, Ao Luông, Vòng Cài, Pú Chạng. Các em không phải nghệ sĩ, mà toàn là các em gái xinh ở bản lúa, bản ngô khoai sắn, bản rừng cây, chưa tằng cẩu, bàn chân trần còn ngái chua bùn đất đồng Mường Lò. Tôi cứ nằm im trên bờ ruộng, đầu vẫn nghĩ về đêm xòe cổ, mắt thì mải dõi theo các em gánh lúa về bản. Thôi mà, trong các em gánh lúa không có Sa, vì Sa đã tằng cẩu rồi. Sa với tôi từng gặp nhau trong hội lồng tồng mãi trên Tú Lệ.

Sa ngày ấy chưa tằng cẩu, tóc mướt xanh như dòng Thia, mắt đen lay láy, môi thắm hoa đào, gương mặt như hoa ban trắng hồng, kinh cổm nỗm tẳng (mình thon vú dựng), xinh ơi là xinh. Sa từng múa sáu điệu xòe cổ mà tôi được xem, em lại dịu dàng, hát hay, hát đối đáp giỏi nên được chọn làm Sao tổn khuống trên Sân hoa Hạn khuống.

Sau đêm Hạn khuống, tôi đang ngẩn ngơ lẫn vào bao nhiêu là thơm tho áo cỏm, áo chàm, thổ cẩm, nâu sồng, ngẩn ngơ trước bao nhiêu là ánh mắt, nụ cười sơn nữ Thái - Tày - Mông - Dao - Mường, thì tình cờ chạm mắt Sa. Thành quen. Thành thân nhau. Rồi tôi đưa lời thương lời nhớ qua Ðèo Ách vào trong Mường Lò. Và mỗi năm chỉ gặp nhau đôi ba lần trong các ngày lễ hội. Cứ nhớ, cứ thương thế thôi. Mãi một ngày Sa tằng cẩu.

Tôi tiếc Sa như tiếc một báu vật mà biết rằng mình không bao giờ được cất giữ, không bao giờ được ôm ấp, nâng niu. Bởi thế, trước ngày Sa tằng cẩu, tôi đã vụng trộm gửi lời trái tim mình vào trong Mường Lò, rằng: Tôi mê em, theo em vượt chín đèo mười núi, theo em qua trăm sông nghìn suối đến dòng Thia soi bóng chúng mình. Ôi, dòng Thia thao thiết bao tình, khăn piêu trao nhau qua cầu gió thổi, nụ hôn trao nhau nghiêng nghìn trái núi, đánh đắm vào nhau non nước bồng bềnh.

Tôi theo em lên thác xuống ghềnh, để được bước lên ngôi nhà sàn em ở, để được uống chung rượu cần trong ché, thứ rượu ngàn đời như bỏ bùa mê. Ngôi nhà sàn dấu chân hoa nở mỗi đêm xuân vui có bạn bè, tiếng khèn ngân rạo rực cả vùng quê, vòng xòe mở chòng chành nhún nhẩy, xòe vòng trong vòng ngoài, xòe từ chiều vào đêm, xòe qua đêm đến sáng, xòe cho tình ta giăng mắc như thổ cẩm và bốc cháy, lời tỏ tình chuếnh choáng lên môi. Bỗng một chiều biền biệt em tôi, mây đã giạt lên ngọn nguồn núi núi, gió thoảng về xa vời vợi, kỷ niệm xưa cỏ biếc, kỷ niệm xưa lá bay, chỉ còn nhành ban tím ướp một trời thương nhớ miền tây...

Lời của trái tim tôi bây giờ lại ngân lên, lời riêng gửi cho Sa thoảng vào mênh mông đồng vàng. Không có bước chân trần của Sa trong những bước chân trần lấm bùn đất kia, để đêm về, cùng cả miền gái xinh Mường Lò sẽ lại chòng chành trong vòng xòe mê đắm!

happypack
05-10-2010, 17:08
Nhớ "món Tết" giữa núi cao và mây mù... (Mường Tè, Lai Châu, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Lãng Quân

1.
Tết, Tết đến rồi. Cái câu thật giản dị, nhưng bao giờ nó cũng kèm theo niềm xao xuyến chẳng giản dị chút nào. Cứ háo hức như thể chưa từng có rất nhiều cái Tết đã qua và không có bao nhiều cái Tết ở phía tương lai đang đợi chờ đời mình vậy. Hán tự hình như người ta chiết tự Tết là cái gì đó liên quan đến chữ Tiết, tiết hình như có nghĩa là một sự phân chia, một khúc, một đoạn gì gì đó. Nghĩa là cái mốc để chặn dòng chảy thời gian miên man kia lại để đong đếm cho nó dễ. Tôi cứ vẩn vơ nghĩ, năm cùng tháng tận cộng vào (dù hụt dù nhuận) thì vẫn đến hẹn lại lên, ai chả biết có ngần ấy ngày ngần ấy đêm rồi thì lại đến Tết. Muốn chặt đoạn nào trong số khoảng 365 ngày của năm ra (như thể ta chặt một cây mía thành các tấm khác nhau) thì đoạn ấy sẽ là cái khấc để ta đong đếm thời gian, có gì mà quan trọng. Nếu giả dụ người Việt Nam chọn tháng 6 là Tết, thì mỗi năm vẫn có một cái Tết với ngần ấy ngần ấy ngày và đêm như thường. Có khi (lúc đã thành quán tính) vẫn cũng ngần ấy xao xuyến như thường. Tất nhiên, chẳng ai dại gì mà kéo gai đằng ngọn như thế.

Tóm lại là cả năm đánh đu với đời, thì cũng phải nghĩ ra một ngày thật sự nghỉ ngơi, chiêm nghiệm và lột xác chứ. Ngày ấy, với nhiều người là ngày Tết. Tôi cứ nghĩ, không có ngày Tết thì cuộc sống sẽ có nhiều stress, nỗi buồn, nhiều ẩn ức hơn. Là bởi vì người ta không được tách mình ra khỏi cái mình thường nhật để thăng hoa và ngâm ngợi. Phải có một cái ngày để ai ai, dù phiêu bạt tha hương thế nào cũng phải về với gốc phần cho bằng được chứ. Cũng như người vùng cao có chợ tình để người ta trốn chạy đời thường. Để ai muốn nhớ ai thoải mái, ai nợ tình ai thì giả, thậm chí ai với ai bị đau đáu món nợ thịt da tính dục thì tìm đến nhau cho thoả nỗi buồn ngăn sông cấm chợ. Nhiều vùng cao có chợ tình, ở vùng xuôi cũng có những hội làng gỡ mối ẩn ức tình duyên. Đỉnh cao của hội làng là hội ở cái vùng người Kinh ở xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Từ nghìn đời nay, người ta táo bạo tới mức mỗi năm làm một cái lễ linh tinh tình phộc, có hẳn hoi cái giờ tháo khoán, lễ mật. Lễ chính thức, nhang đăng hẳn hoi dùng hai cái sinh thực khí nam nữ (cái khoét bằng mo cau lớn, cái đẽo gỗ hình dùi đục linga-dương vật) đâm vào nhau phùm phụp cầu những điều phồn thực cho cỏ cây, cho xóm mạc, cho nhân tình nhân ngãi. Giờ lễ mật, là tắt đèn, tháo khoán cho trai gái thoải mái trên bộc trong dâu. Tóm lại là tình dục. Hình như các cụ biết rất rõ, ngoài cuộc sống này có quá nhiều ẩn ức, quá nhiều cái vô thức nó đeo bám con người ta nhèo nhẽo.
Vì thế nên cộng đồng người nào trên quả đất này cũng phải có Tết?

2.
Những cái Tết vùng cao đã cho tôi một nhận thức khác. Nhận thức về những kiếp người, những cộng đồng người sống chẳng bao giờ giống nhau; song những cái Tết thì bao giờ cũng đến với người ta bằng một con đường. Con đường rất giống nhau.

Bản Ma Ký, xã Mù Cả, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ngoài các người hùng muôn thở (chiến sỹ biên phòng và giáo viên cắm bản) ra, cả năm mới có vị khách dám đi bộ bốn năm ngày vào với bản, vui lắm. Tết của người Hà Nhì đến sớm hơn Tết miền xuôi cả tháng trời. Có lẽ tại ông Trời châm lửa, thắp đỏ cho hoa đào theo cái cách châm từ trên đỉnh núi cao, châm dần xuống chân núi, xuống gò đồi trung du, rồi mới về châu thổ bãi bồi của Hà Nội, Hà Tây... Lưỡi khí xuân liếm đến đâu, hoa đào bung sắc tới đó. Xuân vùng cao bao giờ cũng đến sớm. Người Hà Nội vừa mới rục rịch quay sang nhau thở dài: “Còn hai tháng nữa, đã lại đến Tết”; thì người Hà Nhì đã giết dê, giết lợn, giết bò, giết chó… ăn với nhau rất nhiều bữa tiệc núi rồi.

Họ làm lễ cúng bản, cúng cái bản; lễ cúng bản cũng là lễ cúng tất cả chư thần, thần sông thần suối, thần cây thần cỏ, thần mặt mũi thần chân tay, thần lông mi thần lông mày… Trong quan niệm cổ sơ của người Hà Nhì, nơi nào cũng là nơi trú ngụ của thần linh. Chỉ cần đi qua thần bậu cửa là sẽ gặp ngay thần rừng. Vì người Hà Nhì không bao giờ phá rừng. Lễ cúng bản cũng là lễ cúng rừng. Mỗi người cõng đến bên tảng đá lớn nơi cửa rừng một con vật gì đó. Có bác cắp nách đôi gà, có bác dắt theo một chú lợn bốn chục cân. Có gã thanh niên cõng con dê đực kêu be be táu hạu. Con dê có bộ râu dài đen nhánh, vểnh như râu anh hùng trong một vở cải lương Nam bộ. Riêng Sừng Khai, hắn vạm vỡ khoác súng lớn, dắt theo chú bò lớn, lông vàng ruộm. Đám súc vật được giết, như tráng sỹ trong "Thủy hử" sắp làm lễ tế cờ vậy. Máu chó máu lợn máu dê loang khắp bìa rừng. Thủ cấp con bò để nguyên cả lông, cả máu me, đám súc vật bị hành quyết cứ thế hướng vào trong rừng, trịnh trọng thực hiện nghi lễ cúng rừng cùng chủ nhân. Thịt luộc, thịt nướng được bày ra lá chuối, lá vả trải xanh rì một góc rừng. Cả bản tiệc tùng say túy lúy. Giữa lúc ấy, lời thề giữ rừng vang lên. Giọng thề của những người đàn ông ề à, kính cẩn, đắm say. Họ thề sẽ bảo vệ rừng. Thề không để cho con ma ám vào đầu những kẻ tham lam, chúng nó muốn ngả pơmu, ngả gỗ nghiến trên núi đá để bán cho người dưới xuôi. Nếu có mặt trong lễ cúng rừng vào cái Tết “thề giữ rừng” lớn nhất trong năm của người Hà Nhì (bà con người Hà Nhì với khoảng 12 nghìn người, chỉ sống ở 3 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai của VN) thì tôi tin, các đồng chí ở Cục Kiểm lâm nhất định phải rưng rưng xúc động. Nếu nhân rộng mô hình lời thề giữ rừng nguyên sơ mà rất thời sự ấy lên, có khi nhân loại chửa chắc đã phải điên đầu vì hiệu ứng nhà kính với lại băng tan ở các cực quả đất như hiện nay…

(còn tiếp)

happypack
05-10-2010, 17:13
Nhớ "món Tết" giữa núi cao và mây mù... (Mường Tè, Lai Châu, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Lãng Quân
(tiếp theo và hết)

3.
Lễ thề giữ rừng cũng chính là lễ cấm bản. Trong lúc van vỉ, bảo vệ các vị thần của bản, bà con quan niệm rất rõ: phải làm một cái cổng bằng gỗ cây gạo (như cái cổng chào vào… hội chợ) để ngăn không cho ma tà xâm nhập. Muốn thế, cây gạo non trồng trước bản phải tua tủa gai nhọn. Dọc “cổng chào” bà con tết rất nhiều cái tua rua xanh đỏ, nhiều cái nan phên bùa chú để hù doạ ma tà. Đặc biệt, các đầu bò, đầu lợn, đầu dê, lông gà, lông ngan bê bết máu sẽ được treo ở đầu bản. Giống như độ nọ Gia Cát Khổng Minh vấy máu chó máu lợn máu dê lên để xua đuổi tà phép của những dị nhân hô phong hoán vũ trong "Tam Quốc diễn nghĩa" vậy. Tôi, một người miền xuôi đã khựng người lại, mồ hôi hột toát ra buồn nhây nhẩy ở sống lưng, khi gặp lễ cấm bản như thế ở Tá Miếu (cách Ma Ký một ngày đường). Vùng đất thượng nguồn biên ải, qua chiến tranh, qua những ngày phỉ hành hoành (tận đầu những năm 1980 của thế kỷ trước), giờ còn sót lại rất nhiều bom đạn. Có những vỏ đạn pháo lớn. Có những khẩu súng gỉ hoang tàn. Và bà con nghĩ, súng đạn từng đã làm ly tán bao nhiêu mảnh đời của bản, bà con còn hãi, huống gì tà ma. Thế là họ treo vỏ đạn, treo súng cũ lên đầu bản, trong ngày Tết Cấm Bản.

Trước, Tết Cấm Bản diễn ra rầm rĩ, say bí tỉ, hát ầu ơ đưa đẩy suốt 9 ngày trời. Nay, “văn hoá mới” thì cũng phải 3 ngày đêm. Tự dưng những chuyến lên rừng lấy măng, những ngày đi săn thú, bắt cá dưới Đà Giang đầu nguồn, dưới Ma Nhù Hồ (suối Nậm Ma) của bà con bị khựng lại. Để rượu. Và để hoá kiếp cho súc vật tế thần rừng. Đó là Tết. Cấm bản, cấm ma, cấm cả người. Cấm người đi ra khỏi bản trong ba ngày. Người Hà Nhì vạm vỡ trên núi cao như con đại bàng cô độc, như đám mây ngàn, nên họ hào hiệp lắm. Không cấm người vào với bản trong Tết vui. Nhưng đã vào bản rồi thì cấm được ra khỏi bản trong 3 ngày (kể từ khi lễ Cúng rừng diễn ra). Ai cố tình đi ra, thì nghĩa là người ấy đã cố tình mở cửa bản cho con ma ác ùa vào. Thế là họ phải mua rượu, mua thịt về làm lý để tiếp tục đuổi con ma đi cho bản yên lành. Lễ cấm bản vui tới mức, chẳng bị phạt làm lý thì bạn cũng tình nguyện ở lại và uống rượu suốt ba ngày hoặc hơn thế nữa. Cái tình hào hiệp, cái tình nguyên sơ và nỗi buồn thân phận của những cô gái sinh ra chỉ để dịu dạng ở bản Hà Nhì…

4.
Lỳ Phì Pa 16 tuổi, khăn áo đỏ, những quả tua rua đỏ, tròn, như trái tú cầu kén rể của công chúa Trung Hoa rủ xuống trước mặt em. Răng trắng trong như ngô nếp thơm. Nụ cười rờ rỡ đẹp của em làm tôi hụt hẫng, thấy mình bụi bặm và nhàu nát đi. Em vào bếp mang ra món Tết. Đãi a cồ (anh) món Tết do a nhí (em) làm nhé. Đó là một khúc dồi lợn dài, nó đen xì, uốn lợn như một dây xúc xích bên trời Âu. Dồi lợn để từ Tết năm ngoái, khói gác bếp làm nó đen như bồ hóng, bà con gọi là món Tết. Món sậm hương vị của mùa Tết năm trước. Một cỗ dồi lợn (trong rất nhiều cỗ) của năm nay lại được Phì Pa đưa lên làm món Tết cho cả năm buồn bã sắp tới…

Lần đầu, tôi không dám ăn món Tết. Nhưng bà con giám sát quá ngọt ngào, tôi ăn rồi lén bỏ xuống gậm bàn lúc nhúc chó con. Rồi đến lượt Phì Pa gắp món Tết cho tôi. Rượu vào, lại thêm ánh mắt óng ngọt như mật ong của em. Tôi nhắm mắt nuốt. Thế rồi đâm nghiện, bữa nào cũng trơ tráo đòi ăn món Tết. Cái mùi mông mốc, cái mùi ngậm ngùi thế nào ấy. Vị thơm len lén ngấm vào tôi, như là đang ăn khói bếp giữa đêm Mù Cả lạnh giá vậy. Trên này làng bản lúc nào cũng ủ trong mây cao đỉnh núi, trời như cái tủ lạnh kỳ ảo; bếp lửa sau rất nhiều nách núi của Mường Tè ấy đỏ suốt đời nọ qua đời kia là một cái chảo giữ nhiệt cho món Tết rất tuyệt. Trời đất đã ướp hương rừng Ma Ký, Tá Miếu, Tả Kho Khừ. Như ướp cả cái tình khoáng đạt của Sừng Khai, Phì Pa vào trong món Tết.

Món Tết miệt rừng còn là lúc lỉu những đùi lợn ướp muối trong căn bếp rộng như một khuôn viên chùa cổ nhà Phì Pa. Em cười lấp lánh. Em vạch từng đùi lợn muối, từng khối mông lợn tròn đầy đến phồn thực; em nắm những cái đuôi lợn óng bồ hóng, cứng quèo vì ngấm muối suốt năm nhưng dường như vẫn biết ngoe ngẩy ấy... Em đi giữa một dàn các món Tết treo đen đúa, mỡ màng, phồn thực trên đỉnh ngọn lửa. Em đi như cô gái Hà Nội đi trong quầy quần áo thơm treo móc giữa siêu thị. Phì Pa đi chọn cái đùi lợn ngon đãi khách.

Tiễn khách xuôi, bàn tay em tần ngần cầm một nắm cỏ tranh khô tước mềm. Em hun cỗ dồi lợn để làm món Tết cho mùa Xuân năm sau, biết được, bấy giờ tôi có lại được về đây ăn món Tết? Khi ấy, em sẽ 17 tuổi. Nắm lá tranh khô kia em làm tổ én đầu nhà. Nhà chình đất của người Hà Nhì bao giờ cũng lúc lỉu những cái tổ én. Cái tổ chim én do những người con gái trinh tự tết để mời gọi thần chim én bay lượn sinh sôi trước nhà mình. Nhà Phì Pa có đến ba chục cái tổ chim én. Cái tủ lạnh đầy mây mù khí lạnh khổng lồ mà trời đất đặt ở Mù Cả, hình như chỉ để cho Phì Pa làm món Tết, để em dụ én về trước hiên mỗi nhà trong bản...

Má em hồng như tua rủa đỏ thắm ngúc ngoắc khắp vành khăn em. Tôi đón món Tết của Phì Pa ở tít mãi đầu bản Xi Nế. Em đi tắt đường tiễn khách. Bàn tay thô ráp của em làm tôi thảng thốt. Cụ Mé Lòng bảo, Phì Pa nó trèo cây lấy phong lan rất giỏi. Cánh lái buôn phong lan vẫn thường dụ em leo lên đỉnh núi vặt trụi phong lan núi. Không đi học, lại nghèo. Nụ cười của Phì Pa làm tôi buốt lòng vì thấy mình quá nhàu nhĩ trước vẻ đẹp nguyên sơ trong trẻo. Cái câu “a nhí a cồ cà cồ lí a” (em và anh sẽ nhớ nhau nhiều lắm đấy) làm tôi nhói ngậm ngùi với biệt ly tít tắp. Cái tài trèo phong lan của bàn tay thô ráp của món Tết ấy sẽ còn mãi day dứt trong tôi.

Tết lại đến rồi, cái duyên lội rừng theo Tết cấm bản biết bao giờ mới lại có được lần thứ hai. Và Phì Pa có còn dệt tổ dụ chim én về trước hiên khi đào hoa y cựu tiếu đông phong ở Mù Cả…

Nhớ Tây Bắc, cuối năm 2006
Đ.L.Q

happypack
05-10-2010, 17:19
Quỳ lạy một nền văn minh đã mất ở Cánh Đồng Chum (Phonsavan, Lào)
Tản mạn của Đỗ Doãn Hoàng

Nếu chưa lang thang ở Cánh Đồng Chum (ba chữ tôi đều viết hoa), thì bạn sẽ cho rằng có thể tôi hoá rồ rồi, lặn lội từ Việt Nam sang Bắc Lào xa xôi trên cao nguyên đầy sương khói này để quỳ lạy mấy cái đống đá nhấp nhô gồm bảy trăm viên: đá ong, đá vôi, đá cẩm thạch. Tôi biết chẳng khó khăn gì để bạn nghĩ như tôi vừa nói. Song, tôi lại vẫn tin rằng, bạn mà sang xứ sở hoa Chăm-pa đó, lặn lội với Cánh Đồng Chum, chắc chắn bạn cũng sẽ phải sụp xuống quỳ lạy 700 cái chum có từ 3.000 năm trước! Như là quỳ lạy biểu tượng của sự bí ẩn đầy kiêu hãnh. Niềm kiêu hãnh của một nền văn minh đã mất được đẽo tạc bằng đá. Và bạn sẽ không cười tôi.

Bạn tự hỏi: di sản văn hoá thế giới này, do trời đất hay một vương triều, một bộ tộc nào tạo tác mà thành? Câu hỏi vẫn còn phong kín cho loài người thả rông trí tưởng tượng của mình mà tiếp tục “thầy bói xem voi”. Thứ đá ấy dậy tình mê tơi lên được. Đó là những trang sử đá kỳ thú mà loài người chưa thể đọc dịch nổi. Thứ mật ngôn mà có thể, chỉ có đá mới hiểu nổi. Tiếc thay, đá không biết nói thứ ngôn ngữ mà một ai trong số khoảng bảy tỉ người của địa cầu này có thể nghe nói được. Cánh Đồng Chum được tạm coi như sứ giả của một nền văn minh không đã mất, nó được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới, năm 2001. Là biểu tượng của đất nước Triệu Voi quyến rũ.

Phôn Sa Vẳn - trước lúc kể chuyện những chiếc chum
Đêm Phôn Sa Vẳn tĩnh lặng tuyệt đối. Xiêng Khoảng rộng nhất nước Lào, nằm ở phía Bắc xứ sở hoa chăm-pa, giáp ranh với tỉnh Nghệ An của Việt Nam. Thị xã Phôn Sa Vẳn cổ kính với những vòm án nhà thưa thớt quanh những quả đồi cỏ savan mỏng mượt, những đàn đại gia súc mơ màng đi trong nắng; nhưng, cái góc sôi động của nó, trong đêm, ở vũ trường sàn nhảy thì lại chẳng kém gì Ma Cao trác táng. Vũ nữ quay cuồng và (nói vụng) người ta cứ chọn các noọng-sáo (em xinh đẹp) rồi quắp đi bán mua tình ở đâu đó một cách tương đối tự do. Chợ Phôn lèo tèo, nhưng có bác bảo vệ súng AK báng gấp lăm lăm. Tinh thần đề phòng phỉ vẫn còn rất cao. Đặc biệt là khi chúng tôi ghé thăm đơn vị quy tập hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện Vịêt Nam hy sinh tại chiến trường Lào, anh em vẫn phải ăn dầm ở dề trong rừng hoang, đối mặt với phỉ như cơm bữa. Những chuyến ôtô vượt đèo dốc kinh người cả tuần trời, những chuyến máy bay trực thăng vào thủ phủ của Vàng Pao (mà Long Chẹn chỉ là một ví dụ), ở mỗi khu vực, các chiến sỹ ta vẫn phải lập chốt bảo vệ cẩn mật cho công việc chở cả trăm bộ hài cốt về Phôn Sa Vẳn.

Nhưng, dẫu thế nào thì, đêm nay, Phôn Sa Vẳn vẫn tĩnh lặng tuyệt đối. Koong Kẹo ngoài ba chục tuổi, là chủ một khách sạn lớn, chuyên phục vụ ăn ở và công việc hướng dẫn viên cho khách nước ngoài. Kẹo gầy toong teo, anh Tâm - lái xe của huyện uỷ Kỳ Sơn ngồi với Kẹo ở phố Phôn Xạ Ạt cứ tủm tỉm “phát song ngắn” với tôi rằng: ở nước mình mà gặp thằng này thì ai cũng nghĩ là nó nghiện. Tôi nói điều đó bằng tiếng Anh cho Kẹo nghe (anh Tâm không nghe được), Kẹo cười sảng khoái, cái cười của dân làm ăn quyền biến. Hắn lái xe Zeep của quân đội Mỹ chính hiệu với bộ ba đờ xốc trước xe cong cong như hai lưỡi hái đen ngòm rất găng-xtơ đưa chúng tôi vào vũ trường. Kẹo khoe, theo lối của một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp: Xiêng Khoảng gồm cả hệ thống đồi núi trập trùng, cao từ 1.600 -2.000m so với mực nước biển. Lào quá rộng, nhưng dân số chỉ… 7 triệu người. Khí hậu lại càng trong lành. Mỗi ngày có đủ bốn mùa, buổi sáng và buổi tối se lạnh, lại bảng lảng sương mơ. Tạo hoá ban cho sự tốt tươi ấy, chẳng hiểu sao Kẹo vẫn gầy. Có thể vì hắn khôn quá nên người quắt lại. Khách sạn của Kẹo, từ cái đĩa đựng nến cũng làm bằng quả lựu đạn chẻ đôi (như nửa quả dưa hấu). Khu trưng bày toàn… bom và súng ống, nhặt từ đống phế liệu của cuộc chiến chống xâm lăng. Người Lào yêu nước (Pa-thét Lào) hy sinh đã nhiều. Riêng quân tình nguyện Việt Nam hy sinh ở Xiêng Khoảng đã là khoảng 12 nghìn người, trong đó hơn 2.000 người vẫn lặng lẽ tủi hờn nằm đâu đó trong hoang rậm rừng Lào. Hầu hết những cánh rừng tít hút đó vẫn có phỉ hành hoành.

Địa phận Xiêng Khoáng có chung biên giới với Việt Nam và đã từng là nội thuộc Việt Nam (1434) cũng như bị sáp nhập vào Việt Nam dưới cái tên Trấn Ninh (1479) ; sau khi vua Souriya Vongsa băng hà (1694), Lào bị chia ra ba vương triều, Xiêng Khoáng lại nội thuộc Việt Nam lần nữa. Năm 1893, hiệp ước Pháp-Xiêm được ký kết, Xiêng Khoáng mới trở lại của Lào thuộc Pháp. Mỹ ném bom xuống Xiêng Khoảng ác liệt nhất là vào cuối những năm 1960 (thế kỷ 20), có trận, sử cũ chép: bom Mỹ đã san phẳng 3.000 ngôi nhà, nhiều ngôi chùa và nhiều kiến trúc nổi tiếng khác của Phôn Sa Vẳn. Cách Phôn Sa Vẳn không xa, Hang Thẩm Piu từng được cả thế giới đau lòng biết đến với việc: năm 1969, không quân Mỹ bắn vào đó 3 quả tên lửa, giết chết trong tích tắc hơn 400 thường dân và bộ đội tình nguyện Việt Nam. Người ta đã tìm thấy trong hang ít nhất 400 bộ xương người bị chết cháy.
(Sưu tầm)

Giữa bối cảnh ấy, Xiêng Khoảng có Cánh Đồng Chum bí ẩn. Bí ẩn như đá và câm lặng như vỏ quả đất đang ngày càng hung hãn của chúng ta vậy. Cánh Đồng Chum ở Lào cũng nổi tiếng như Sa Pa hay Vịnh Hạ Long ở Việt Nam. Tôi, Kẹo và hai cô gái người Anh đẹp ngời ngời ngồi ở góc phố Phôn Xạ Ạt nói về Cánh Đồng Chum. Hai cô khoe, ở nước Anh khu vực kỳ ảo, với những tảng đá nhẵn nhụi, xếp hình rất là ám ảnh (như những bức điêu khắc, như nghệ thuật sắp đặt kỳ khu) trên một khu vực cỏ mượt rộng lớn. Như là bày thạch trận. Kẹo bảo, đá bị xô ngã nó thành hình thế, có gì là lạ. Công viên đá hát ở Tây ư? Đá rỗng, đá chênh vênh, gió hít vào thì đá nó rú hát, có gì lạ. Còn đá ở di sản thế giới nổi tiếng Cánh Đồng Chum của Xiêng Khoảng, 700 cái chum khổng lồ bằng đá, nằm mênh mông rợn ngợp, thách thức trên ba khu “thánh địa” - thật không tài nào lý giải nổi. Khoa học đem về xét nghiệm các-bon (C14), đã chứng minh là chum đá có từ 3.000 năm trước. Trước cả khi chúa ra đời và khi thế giới và Việt Nam có Tây lịch, thứ lịch (mà đến nay nó đã ra đời được 2007 năm). Mà kết luận ấy là do người Tây đưa ra, chứ có phải người Lào tự hào quá mà khoe khoang đâu (kết luận của nhà khảo cổ học nổi tiếng thế giới, bà Colani, nhà khảo cổ nổi tiếng người Pháp, cũng là bà chủ - chuyên gia số một về nền Văn hoá Hoà Bình trải rộng từ Việt Nam đi khắp vùng Đông Nam Á). Các em người Anh tròn mắt đòi lái xe Zeep đi ngay. Chàng trai người Lào đi cùng mê em Sabine mắt xanh như nước biển hút thuốc lá phì phèo quá, cũng dặn ra được một câu tiếng Anh: tôi nghe nói, người ta có thể chết vì một nhan sắc. Xưa, tôi không tin. Nay gặp Sabine, tôi mới tin đó là chuyện có thật trên đời. Khắc-ti-sút - tiếng Lào, nghĩa là yêu đến giọt cuối cùng. Câu nói diễm tình, bập bẹ thật đấy nhưng cũng làm Sabine lóng lánh cảm động. Mắt đảo như chuột ngày. Nàng là sinh viên đi vòng quanh thế giới rồi mê đắm Xiêng Khoảng, nên trong trường tình cũng có vẻ từng trải tợn.

(còn tiếp)

happypack
05-10-2010, 17:22
Quỳ lạy một nền văn minh đã mất ở Cánh Đồng Chum (Phonsavan, Lào)
Tản mạn của Đỗ Doãn Hoàng
(tiếp theo)

Trong trụ sở của Ban quản lý di tích Cánh Đồng Chum, ngoài treo một cây sào (như sào đuổi vịt của mục đồng), căng một sợi dây nilông lè phè, đầu buộc một hòn gạch chỉ (như cái barie); bên trong là tấm áp phích. Tấm áp phích Cánh Đồng Chum rất lớn, ở đó không cần phải có… ngôn ngữ. Vì nó được ghép bằng những tấm ảnh chụp cực kỳ chuyên nghiệp. Chum đá bạt ngàn, như ngàn vò rượu lớn, nằm ngổn ngang trên cỏ mượt. Xa xa là thung lũng bạt ngàn, là sân bay Phôn Sa Vẳn, cũng nhấp nhổm toàn chum đá. Đây, một người đàn bà ngồi xổm, đăm đắm nhìn vào máy dò mìn xoè như cái mâm lớn trên cỏ mượt. Trong mắt chị, hình như còn sự thảng thốt bởi di hoạ của chiến tranh và cái chết thảm sầu của những người dò mìn trên cánh đồng bom đạn; phía sau chị là lừng lững, ngổn ngang toàn những chiếc chum đá nghìn năm tuổi. Trong ký ức của tôi (người viết bài này), Cánh Đồng Chum là một cái gì thật đó thảm khốc, bởi tôi từng nghe quá nhiều về sự thảm khốc - huỷ diệt do bom đạn qua những vị cựu binh từng chiến đấu ở Bắc Lào kể lại. Anh Bình, hang xóm nhà tôi, dẫu đã bị tâm thần phân liệt, nhưng hễ cứ mở miệng ra là kể về những ngày bời bời bom nổ ở Cánh Đồng Chum. Nơi ấy, bạt ngàn bom đạn, là chết chóc hăm-bơ-gơ (kiểu như đồi thịt băm trong tiểu thuyết “Thân phận tình yêu” (Nỗi buồn chiến tranh) của nhà văn Bảo Ninh). Giờ lại nhìn thấy cảnh đứa trẻ ở trần truồng, bé như cái búp măng non, vịn vào quả bom tấn nằm thuồi luồi như con trâu đằm ở Cánh Đồng Chum xanh rợn. Đầu kia quả bom tấn là một cụ già ngồi ngẩn tò te mà hình như ký ức chiến tranh vẫn còn ngơ ngác, hoảng loạn. Chỗ này là con voi già cặm cụi kéo một quả bom tấn ra khỏi Cánh Đồng Chum. Chỗ kia một ngôi nhà sàn đất Xiêng Khoảng toạ lạc trên ngọn của đám dày đặc những quả bom đứng ken dày sừng sững (thay cho cột nhà). Chẳng đâu xa, những ngày này, ở Phôn Sa Vẳn, chúng tôi vẫn gặp những quán cà phê… dùng bom để trang trí. Những ngôi nhà ba tầng giữa lòng thị xã, trước cổng đỗ chiếc xe Humer như một cỗ xe tăng (mà ở Việt Nam chỉ có vài tỷ phú chơi siêu xe mới dám mua), những chiếc TOYOTA cáu cạnh (bên Lào này toàn aufng xe bán tải để leo dốc, và xe ôtô ở đây rất rẻ, chứ không chịu thuế dã man như ở Việt Nam), nhưng trước cổng cũng cắm ba bốn quả bom. Bom to tới mức, tôi đứng vào chụp ảnh mà cứ ngỡ mình là con nhái ôm củ măng tre to gộc. Tại Việt Nam, chúng ta cũng từng “đào” được quả bom tấn lớn nhất từng có mặt trên toàn cõi Đông Dương, nó có thể san bằng một diện tích rộng 32ha trong chớp mắt. Nó, cũng như quả bom ở Lào, vẫn là bom của đế quốc xâm lăng thôi; Việt Nam và Lào cũng là nạn nhân của trò chơi súng đạn ấy; bom to bom nhỏ thì có gì là lạ - song, cái tôi muốn nói là ký ức của người Xiêng Khoảng, Phôn Sa Vẳn về bom đạn vẫn quá nặng nề và dai dẳng. Nó ám ảnh như bức ảnh đám trẻ nhỏ chạy vô tư lự bên một khu tường rào sin sít nối đuôi nhau những quả bom khổng lồ đứng đuỗn đuỗn, đứng xám ngoét một góc trời ở rìa Cánh Đồng Chum (năm 2001, Cánh Đồng Chum đã được UNESCO công nhận là Di Sản văn hoá thế giới, nó trở thành biểu tượng của đất nước Triệu Voi).

Một du khách sau chuyến đi thăm Cánh Đồng Chum trên mạng Internet:
Trên kia tôi đã nói Cánh Đồng Chum là hấp lực dẫn tôi đến Xiêng Khoáng, nghĩa là trước khi đến vùng đất nầy, tôi đinh ninh chum là đặc sản duy nhất lừng danh thế giới của Xiêng Khoáng. Tản bộ một vòng trong lòng Phonesavanh, tôi phát hiện ra ở đây còn một đặc sản thứ nhì nữa: bom !
Thật vậy. Không ít thì nhiều, nhà nào cũng có sự hiện diện thứ của nợ nầy. Ở khách sạn ST tôi đã thấy cả chục quả bom bi, bom, ổi có, bom dứa có, bom lựu cũng có ... chúng được dùng làm gạt tàn thuốc lá hay làm chân nến. Đương nhiên là thuê vàng tôi cũng không dám gạt tàn thuốc lá vào đó, biết đâu người ta sơ ý chưa gỡ hết thuốc nổ ... Ngoài sân khách sạn có dựng nguyên một quả bom cao hơn thước, bự cũng tròn một vòng ôm người lớn, không xa là cái giàn bắn rocket. Quanh tôi, nhà nào có rào y như rằng các trụ chính là vỏ bom, nguyên có, sẻ đôi có, cao cũng phải 2 thước trở lên. Nhà nầy treo bom bi tòng teng trên cành cây trông như cây thông mùa Giáng sinh. Nhà kia hai cột chính chống cái ban công phía hướng ra đường là hai quả bom khổng lồ, được kê trên hai trụ đá. Tôi chưa sống với chiến tranh 1 giây 1 phút nào nên không biết đó là thứ bom gì, hỏi một ông qua đường, thay vì trả lời ổng lại vuốt vuốt, đập đập hai bàn tay vào nhau như xóc bài cào: B-52 !

(còn tiếp)

happypack
05-10-2010, 17:26
Quỳ lạy một nền văn minh đã mất ở Cánh Đồng Chum (Phonsavan, Lào)
Tản mạn của Đỗ Doãn Hoàng
(tiếp theo)

Mật ngôn của những viên đá được gọt đẽo thành chum

Điều làm tôi sửng sốt là: em Sabine mắt xanh như nước biển đã lạy những chiếc chum đá. Chum đá ngơ ngác nằm miên man trên cỏ, cỏ và chum dài mãi, như là dài tới tận cuối chân trời. Bất giác tôi nhớ anh nhà thơ làm báo Nguyễn Việt Chiến (Báo Thanh Niên), anh viết tặng Tây Bắc: “Núi như ngàn vò rượu/ xếp ngổn ngang bên đường”. Tôi nghĩ, cái men say với thơ, với cảnh sắc ấy mà gán cho tình yêu Cánh Đồng Chum thì hợp hơn. Đúng như ngàn vò rượu/ nằm ngổn ngang bên đồi. Quả là không thể hiểu nổi. Tôi đã đi, đã gặp rất nhiều dáng núi, dáng đá được tạo tác kỳ lạ, nhưng kỳ lạ đến như những tác phẩm đá của người ngoài hành tinh tạc đẽo bên thảo nguyên gì đó của nước Anh, thì tôi vẫn nguỵ biện rằng: vô tình, trời sinh ra thế. Đến như bãi đá cổ Sa Pa với những nét vẽ nguyên thuỷ mà Việt Nam và thế giới chưa tỏ tường nổi; thì nhiều người vẫn có thể coi là vớ vẩn, đó là nét vẽ nghịch (cả vẽ dương vật và âm hộ) của trẻ mục đồng tục tĩu. Việt Nam cứ làm hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận bãi đá cổ Sa Pa Di sản văn hoá thế giới, tôi vẫn cãi bừa được. Nhưng đến thế giới của những chiếc chum nghìn nghìn năm tuổi ở Xiêng Khoảng, tôi, cũng như người đẹp mắt xanh như giấc mộng Sabine, tôi phải sụp lạy đất trời và một vương triều xa xôi nào đó. Kỳ bí, kỳ bí đến mức không thể cãi chày cối kiểu AQ được. Trời không thể làm ra được những cái chum khổng lồ, đích thị là những cái chum cao tới gần 3m, lòng chum đựng vừa cả con trâu mộng, được tạc bằng đá tự nhiên nguyên khối, chứ không phải là viên đá hình cái chum có từ thuở tạo sơn được. Các thiên tướng của Ngọc Hoàng và các cung nữ do bà Vương Mẫu quản lý, chưa bao giờ tham gia đẽo chum đá kiểu này!

Ai đến Lào cũng hỏi thăm Cánh Đồng Chum, và tỉnh Nghệ An và tỉnh Xiêng Khoảng cũng đã bàn thảo, xúc tiến mở tuyến du lịch TP Vinh - cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn - Kỳ Sơn – Xiêng Khoảng, trong đó, trọng điểm bên phía bạn Lào, dĩ nhiên là Cánh Đồng Chum. Theo số liệu chính thức của các nhà khảo cổ đã công bố, có tới 700 chiếc chum đá kỳ lạ được ghi trong hồ sơ quản lý (kỳ quan thế giới). Điều đặc biệt ở những chiếc chum này là ở khối lượng và kích thước chưa từng có của của chúng. Những chiếc chum được làm từ đá cẩm thạch, đá ong, đá vôi với hình dạng khác nhau: miệng lồi, miệng tròn, chiếc vẹn nguyên như chum đựng thóc của bà con Bắc bộ Việt Nam, chiếc tan hoang chẻ ra từng miếng đá lớn do bom Mỹ đánh trúng giữa từ hồi nơi này còn là chiến trường cách đây gần nửa thế kỷ. 700 chiếc chum, mỗi chiếc nặng trung bình 6 tấn, đường kính 0,8m và cao tới 2,5m. Sau khi được đo cac-bon (giám định niên đại), số chum khổng lồ này được xác định có tuổi cách ngày nay khoảng 3.000 nănm (niên đại tương đương hoặc cổ hơn cả nền văn hoá Đông Sơn của Việt Nam). Người ta, ai cũng phải sững sờ khi đứng trước những cái chum đá liền khối được khoét một cách khó hiểu, mà đường kính của nó tới 3m; chiều cao hơn 3m. Đám trẻ con công kênh nhau leo lên miệng những chiếc chum rồi lại công kênh nhau xuống như là… leo núi đá. Dễ đến chục đứa trẻ chơi ú tim có thể ngồi vừa trong đó. Chúng ngồi trên miệng chum, như con mèo nằm trong cái nong phơi thóc.

Chất liệu đá tự nhiên, cổ kính, chum tạc nguyên khối đứng sững sững giữa trời đất mấy nghìn năm qua, một vẻ đẹp bể dâu quyến rũ. Các nhà khoa học, từ đầu thế kỷ 20, đã dày công nghiên cứu và đặc biệt, kể từ khi UNESCO công nhận Cánh Đồng Chum là di sản văn hoá thế giới, thì những câu hỏi về nguồn gốc của những chiếc chum ngày càng trở nên day dứt, thách thức hơn bao giờ hết. Hệ thống chuyên gia hàng đầu của loài người, đã khảo sát 65 trên tổng số 109 địa điểm được phát hiện có sự xuất hiện của những chiếc chum cổ. Hầu hết chúng nằm bí ẩn trong rừng sâu hoặc những quả núi, cánh đồng hẻo lánh. Vì bom đạn còn quá nhiều trên đất Lào nói chung và Cánh Đồng Chum nói riêng, cho nên, đến bây giờ, đất Triệu Voi mới chỉ cho voi kéo bom ra, dọn làm khu du lịch có thể an toàn phục vụ du khách được ở 3 địa điểm phân bố di sản… chum đá. Địa điểm thứ nhất là Bản Ang, cách Phôn Sa Vẳn 12km; địa điểm thứ hai là bản Lắt Sén, địa điểm thứ ba là Bản Sua (đều cách Phôn Sa Vẳn khoảng 20-30km). Chưa biết, đến bao giờ người Lào mới tháo hết bom mìn phục kích tiếp tục giết người do thằng Mỹ “gài” lại để du khách có thể đến với cả thảy 700 cái chum đá khổng lồ, kỳ bí kia? Điều thú vị là: không phát hiện thấy bất cứ cái chum đá dạng Cánh Đồng Chum nào ngoài tỉnh Xiêng Khoảng của Lào.

Cánh Đồng Chum là tên dịch từ tiếng lào Thôồng Háy Hín; tiếng Pháp: Plaine des Jarres ; tiếng Anh: Plains of Jars. Theo truyền thuyết, truyện cổ của người Lào thì, chiếc chum đã được đẽo gọt từ đá tảng nguyên khối từ hơn 3000 năm trước. Bộ tộc người của nước Lào (bộ tộc Puon) đã tổ chức đẽo gọt ra những chiếc chum sau này thành Di sản văn hoá cho thế giới văn minh của thế kỷ 21 chỉ việc làm hồ sơ công nhận ấy. Chuyện khác lại kể, các nghệ sỹ điêu khắc làm chum đến từ một bộ tộc người khổng lồ. Bước chân của họ đi thành ao hồ vùng Xiêng Khoảng mênh mông, nhiều trái núi do người khổng lồ bốc đất đá dựng nên vẫn sừng sững cùng non cao của những dãy núi Bắc Trường Sơn hiện nay. Và trong một trận chiến chống ngoại xâm để bảo vệ nòi giống, khi chiến thắng, họ đã đẽo đá làm chum làm coóng đựng rượu, làm ché uống rượu khao quân. Các chum bé chum lớn đều có thể làm chén uống rượu của người khổng lồ. Theo đó, nhiều cái chum vỡ là do người khổng lồ tuý tửu (say rượu), “quẳng chén làm hiệu” giết kẻ thù. Truyền thuyết khác lại kể, bộ tộc đẽo chum là bộ tộc Lao Thoeng. Tất nhiên, câu chuyện vơ với mù mịt hơn cả sương khói này sẽ bị khoa học tỏ ý chưa tin tưởng (!). Dân tộc nào, bộ tộc nào, bản làng nào chả có truyền thuyết, truyền thuyết sử thi có giá trị nhân văn không thể thay thế của nó, nhưng nó rất ít có giá trị với các nhà khoa học quen đi đào mồ đếm xương đem vào phòng thí nghiệm.

Các nhà khoa học bảo: làm gì có người khổng lồ. Mà ai lại khao quân bằng cách đẽo chum đá khổng lồ? Mà đẽo cả chục năm trời với lực lượng là hàng vạn chiến binh có kỹ nghệ tạc đá điêu luyện may ra mới được ngần ấy cái chum lớn. Đấy là chưa kể, đá ở để tạc đẽo chum cổ không phải là thứ đá có phân bố ở vùng Cánh Đồng Chum. Phải đi cõng về từ rất xa. Nếu đẽo ở chỗ có đá hoặc đẽo ở ngay trên cánh đồng nơi thế giới chum vại đang tồn tại thì kiểu gì cũng phải có hàng vạn con voi làm nhiệm vụ vận tải chum về rải khắp các cánh đồng, trên diện tích mấy chục cây số vuông. “Cần cẩu” lấy ở đâu ra nhỉ? Sao lại phải kỳ công như thế để phục vụ cho việc khao quân? Đấy là chưa kể, nếu là khao quân, thì phải khao ngay, chứ sao lại đợi đẽo nhiều năm xong ngần ấy cái chum đựng rượu rồi mới khao thì có mà “nguội” hết cái nóng hổi của khúc ca khải hoàn? Các nhà khảo cổ mải mê bác bỏ “truyền thuyết” người khổng lồ nhưng cũng chẳng đủ để thuyết phục trí tưởng tượng hồn nhiên đến nguyên sơ, nguyên thuỷ bên bếp lửa của những người “trị vì” bộ tộc. Cụ cười móm mém “khốp cháy la la” (cảm ơn rất nhiều, tiếng Lào) các nhà khảo cổ đã thương yêu bộ tộc chúng tao, rồi vị tộc trưởng vuốt râu cười lớn: đã bảo người khổng lồ mà, họ dẵm chân thành ao hồ, vứt đá thành núi cao của Xiêng Khoảng mây mù, thì có gì trong một ngày, một chiến binh chả đẽo được một cái chum. Cũng như người hiện đại chúng ta bỏ một buổi sang chặt sọ dừa làm cái gáo dừa uống rượu với nhau ấy mà, bảy trăm cái gáo dừa thì “mỗ” (tao, tôi) làm trong mấy nả. Thế là khao quân thôi (hề hề - các cụ cười.

(còn tiếp)

happypack
05-10-2010, 17:30
Quỳ lạy một nền văn minh đã mất ở Cánh Đồng Chum (Phonsavan, Lào)
Tản mạn của Đỗ Doãn Hoàng
(tiếp theo và hết)

Các nhà khảo cổ lại hì hụi đào bới và kiếm tìm. Họ tìm thấy truyền thống chôn người trong chum của bộ tộc Puon (thật ra, ngay tại Việt Nam ta, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy nhiều vùng có truyền thống chôn người trong mộ chum), rồi họ lại đào được xương người, răng người; những chiếc vòng đeo tay làm bằng đồng thau, những hạt chuỗi bằng thủy tinh và bằng cả đá quý carnelian ... trong những chiếc chum khổng lồ. Lại tìm thấy cả những nồi đất đựng xương người chôn chung quanh những chiếc chum đá. Đúng như nhà khảo cổ học Colani miêu tả, ở Bản Ang, nơi có những chiếc chum lớn và nổi tiếng nhất, có một cái hang lớn, tôi (người viết bài này) cũng đã vào trong lòng hang đó. Trong hang có ban thờ, hoa cúng vẫn tươi, lòng hang ám khói, và có hai lỗ tròn như hai họng súng lớn nhằm thẳng lên nền trời. Cuối cùng, bà Colani phỏng đoán rằng, các cái chum đá lớn kia là những cái mộ chôn người chết. Thi thể người ta được táng ở chum đó, còn cái hang kia là nơi đốt xác người về trời, khói vẫn bám trong lòng hang đen ngòm, hai lỗ thông thiên tròn vo kia là cái ống khói của lò hoả thiêu (kiểu như đài hoá thân Hoàn Vũ ở ta?).

Cá nhân người viết bài này, thì thấy rằng, giả thuyết trên có lý ở chỗ: người khổng lồ thì không có rồi, nhưng người ta, nếu đã kỳ công tạc những cái chum mà thế giới phải nghiêng mình kính nể vì nghệ thuật và sự công phu thế này thì không thể là “chế tác” để phục vụ người sống được. Phải là chế tác cho người chết. Phải là một tín ngưỡng thì người ta mới có mãnh lực đến thế để thực hiện (đấy là giả sử, thế giới chum đá kia đã thật sự đã được chế tạo bởi bàn tay người của hành tinh thuộc hệ mặt trời mà chúng ta đang sống này). Tôi tin nữa là bởi vì tôi vô cùng ngưỡng vọng, kính trọng bà Madeleine Colani, bà làm việc cho trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Ecole Française d'Extrême - Orient). Bà, dường như đã hiến dâng đời mình cho công việc tìm tòi và tôn vinh nhiều giá trị tuyệt vời của Việt Nam cùng nhiều nơi trên thế giới. Nhiều vùng miền ở Việt Nam, người ta đã và sẽ tạc tượng bà trong các công trình hàn lâm, trang trọng nhất.

Sau cả nghìn năm tồn tại và được giải ảo (hay vun đắp sự ảo) bằng truyền thuyết người khổng lồ khao quân, đến một ngày của năm 1923, một nhân viên thu thuế người Pháp (xâm lược Lào) tên là Vinet đã tình cờ đến và sửng sốt (không biết có lạy chum như Sabine) nhận thấy sự kỳ lạ không thể lý giải của Cánh Đồng Chum. Vị khách tò mò này đã đủ sắc sảo để nhận ra một Di sản Văn hoá thế giới, thay vì mê đắm tin vào bước chân của người khổng lồ đẽo gáo dừa (bằng đá, đường kính tới 3m) khao quân. Giới khoa học trên thế giới đã giật thột từ bấy. Đến năm 1930, bà Colani bắt đầu công việc nghiên cứu lao tâm khổ tứ của mình trên Cánh Đồng Chum. Tôi càng kính trọng bà Colani hơn, khi mà, dẫu sống chết bảo vệ quan điểm khoa học của mình, song, trong 2 cuốn Mégalithes du Haut - Laos (Cự Thạch Cổ của Bắc Lào, xuất bản năm 1935) bà Madeleine Colani một mặt cho rằng, chum là một loại mộ, chôn người trong chum là một táng thức. Nhưng, một mặt, bà cũng sòng phẳng chấp nhận đưa câu chuyện bước thụt (tiến?) một nửa trở lại với đám mây huyền thoại về những người khổng lồ khao quân bằng chum rượu đá – khi mà bà thú nhận: khi phân tích các-bon thì tuổi xương người tìm thấy gần cái chum lại còn cao hơn cả tuổi của những cái chum. Vậy là sao? Là người ta đã chết từ rất lâu rồi, vô tình hay hữu ý bộ xương ấy mới “lạc” vào trong chum? Không thể gọi là “cải cát” bỏ từ quan tài gỗ vào tiểu sành như người Việt Nam (sau ba năm) được, vì khoảng cách tuổi của chum và tuổi (niên đại) của bộ xương quá xa nhau. Cách lý giải: chum đá là sản phẩm của một táng thức từ đó bị nhiều người bác bỏ. Song, gì thì gì, đến giờ phút này, nó vẫn là cách hiểu được nhiều người đồng tình hơn cả. (Cá nhân người viết bài này, xin nhắc lại, dù rất kính trọng người phụ nữ Pháp mỏi mòn lang thang, hiến thân cho lý tưởng – bà Colani, nhưng vẫn thiển nghĩ rằng: lò thiêu xác, khói ám, hay những di vật gợi cho người ta suy nghĩ về tục táng người trong chum đá chưa… thuyết phục. Đó là một cách hiểu áp đặt. Mộ chum tìm thấy ở Việt Nam bé như cái tiểu sành, chứ đâu có cao hơn 3m, đường kính 3m như hệ thống chum đá “độc nhất vô nhị” trên toàn thế gian của Cánh Đồng Chum? Câu chuyện về bộ tộc Puon chôn người trong chum đá, nếu có, cũng chỉ là… truyền thuyết. Chúng ta hãy cứ bình tĩnh chờ đợi, một lúc nào đó, khoa học sẽ mời được những trang sử đá cất lên tiếng nói mến thương và thuyết phục hơn. Di sản văn hoá thế giới kia, chắc chắn, sẽ không vì đám mây huyền ảo kia mà bớt phần quyến mời). Ngay cả khi đem khoa học ra đọ với truyền thuyết người khổng lồ phủ đầy sương khói cổ tích của người Lào, khoa học cũng vạch ra một điều “đá” lại lý lẽ của vị tộc trưởng bên bếp lửa: tuổi của những chiếc chum đá bí ẩn, nó còn “già” gấp đôi tuổi của truyền thuyết. Hoá ra, truyền thuyết và khoa học, chưa ai thua, cũng chửa ai thắng.

Mấy chục cái địa điểm có chum cổ, chum vẫn khổng lồ, vẫn kiêu hãnh trơ gan thách thức loài người và trêu đùa cả hoá công. Chum thách thức Trời và Người bằng thứ đá triệu năm tuổi, và bằng sự bí ẩn của mình. Tôi lạc vào những khu rừng hoang, ở đó chum đá lớn bị bom Mỹ đánh vỡ, rồi cây rừng húc lên như muôn ngón tay bóp nát đá sỏi. Bom Mỹ chưa nổ vẫn hăm hia phục kích dưới tán rừng đòi giết người sau khi đã đánh gục những cái chum. Cuối cùng, nhân loại vẫn nợ nhau một câu hỏi: ai đã đẽo chum đá, đẽo để làm gì, đẽo bằng cái gì mà tài thế? 77 năm trôi qua, kể từ khi bà Colani chính thức sang sống mái với bí ẩn của Cánh Đồng Chum, thế giới vẫn bó tay với cái Di sản văn hoá nổi tiếng mà Loài người đã phải nghiêng mình công nhận. Trí tuệ của 7 tỷ người của quả đất còn chào thua những chiếc chum của người khổng lồ, thì gã lãng du như tôi, Sabine - cô gái còn quá trẻ mắt xanh như nước biển trong một cơn mơ vắng vẻ kia làm sao lý giải nổi.

Cánh Đồng Chum còn bí ẩn hơn cả tiếng gió rít trong đêm cao nguyên Phôn Sa Vẳn. Khó hiểu hơn cả việc Sabine mắt xanh, tóc bạch kim nức nở lạy cái chum ba nghìn tuổi, cái chum nằm ngâm một nửa mình cổ kính xuống đất sâu và cỏ mướt. Cái chum nằm nghiêng bên miệng hố bom lớn có cắm biển bằng chữ Lào loằng ngoằng như những cọng giá đỗ, không biết chữ ấy chiết tự ra nó có nghĩa rằng khéo ngã xuống hố bom sâu, hay là khéo khéo dưới hố còn bom chưa nổ. Khó hiểu như khi chàng trai Lào thốt nhiên dặn ra được câu tiếng Anh, rằng từ khi gặp Sabine, cậu ấy mới ngộ được rằng thì là mà, sao người ta có thể chết vì một ánh mắt đẹp. Thôi, Chăn Tay à, cậu tán là Hắc ti sút đi, tiếng Lào nghĩa là yêu đến giọt cuối cùng rồi còn gì nữa. Mà đêm Phôn Sa Vẳn bình yên, chẳng cần phải nói gì đâu, cứ im lặng như cao nguyên rải rác bảy trăm cái chum đến từ thời thượng cổ, thế có khi lại là tốt hơn hết…

Nhớ Phôn Sa Vẳn, rạng sáng 24/5/2007

happypack
07-10-2010, 10:58
Si Ma Cai - bài ca đỉnh núi… (Lào Cai, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Doãn Hoàng

Đứng ở thượng nguồn sông Chảy trên đất Si Ma Cai (tỉnh Lào Cai) huyền thoại, tôi chợt nhận ra rằng: có một cách để vẽ chân dung huyện lẻ, cụt, khuất nẻo Si Ma Cai - đó là đặt nó trong mối tương quan so sánh với thiên đường du lịch Sa Pa. Sa Pa và Si Ma Cai, tôi muốn ví "họ" như cặp nữ song sinh, cùng bánh đa bánh đúc, chơi ô ăn quan, đánh chắt đánh chuyền với nhau từ lúc miệng còn hơi sữa, rồi hai cô đều thảo hiền và rực rỡ với nhan sắc khuynh quốc đổ thành. Đến một ngày, Sa Pa may mắn hơn, vì nhà ở gần đường cái, nên một ngày chàng hoàng tử kiêu hùng nọ đi qua đã sớm rước nàng về làm… hoàng hậu. Si Ma Cai ở lại quê hương núi rừng, vẫn quyến rũ người ta chính bởi cái nét thậm hoang sơ "thơm tho ai biết/ ngát lừng ai hay" của mình.

Cái bụng con ngựa thồ

Cách đây hơn 100 năm, người Pháp đã phải lòng chốn tiểu thần tiên Sa Pa, và họ đã ngay lập tức quy hoạch, xây dựng ngành công nghiệp không khói (du lịch) ở nơi này. Với nguồn thu khổng lồ, với tốc độ phát triển chóng mặt, nay, Sa Pa trở thành thiên đường du lịch trên toàn cõi Việt Nam. Bản sắc, thiên nhiên ở Sa Pa bị khai thác đến cạn kiệt, cạn kiệt đến đáng sợ kiểu cô gái người Dao, người Mông xòe tay nói với khách Tây bồi "no money no photography" (không cho tao tiền, tao không cho chụp ảnh). Trong khi ấy, gần như giống hệt Sa Pa - cùng trong tỉnh Lao Cai, cũng ở giữa núi cao và mây mù, cũng ở độ cao hơn 1.500m so với mặt nước biển, cũng sa mộc già gân guốc phác dáng đại bàng núi của mình lên nền trời đặc quánh mây, buốt giá gió lạnh; cũng sặc sỡ sắc màu thổ cẩm (với nhiều nét văn hóa đặc sắc của nhiều cộng đồng người biên ải) - thì Si Ma Cai hầu như bị người làm du lịch lãng quên. Không phải sự lãng quên nào cũng đã hằn là chuyện buồn. Vẻ chân chất quê mùa đó, trong nỗi niềm tái ông thất mã lịch duyệt, ai ngờ, đã tạo cho Si Ma Cai thật sự là bài ca khoáng đạt cất lên trên những đỉnh núi cao, núi ủ trong mây mù, mây mù ôm cuốn lấy sông núi du mục bản làng nguyên sơ. Si Ma Cai...

Cả trên bản đồ, cả ở ngoài thực địa tột đất Việt Nam, Si Ma Cai đúng nghĩa là một bài thơ biên tái diệu vợi. Vòi vọi thành quách đá chồ ra mép đường đi. Si Ma Cai vốn tên một cái xã chỏm chòe lưng núi của huyện xa xôi Bắc Hà, đến lúc tách ra thành huyện mới, Si Ma Cai trở thành cái huyện hiểm trở đệ nhất miền đất mang hình cánh bướm vỗ cánh giữa điệp trùng mây núi (tỉnh Lào Cai). Chỉ mới cách đây dăm năm (xin nhấn mạnh điều này), đường lên xã Si Ma Cai vẫn bé bằng bụng ngựa thồ, bà con hơn chục xã khuất nẻo với 82% dân số là người Mông muôn đời chênh vênh trên vách đá. Dễ đến hàng tấn thuốc nổ mới khảm được một khúc đường ôtô lủi trong mây đặc quánh, bò quằn quại trên đá chênh vênh hôm nay. Nhiều khi mây đặc đến mức, cánh tài xế phải cho phụ xe đi đằng trước, tay huơ huơ một manh áo trắng vừa khuấy loãng mây ra, vừa làm hoa tiêu dẫn đường thì xe mới dũi mây mà đi được. Chệch nửa vòng bánh xe là đi đời nhà ma! Tầm nhìn xa đúng là chỉ còn… một mét, đỉnh núi cao nhất của Si Ma Cai nằm tại xã Quan Thần Sán, khoảng 2.800 so với mực nước biển. Nghĩa là chỉ thấp hơn nóc nhà toàn xứ Đông Dương có một tẹo. Ủ trong mây quánh, núi trầm mặc thò ra những thớt đá khía khấc lan man, tôi cứ ngỡ, núi trông như vừng trán nhiều nếp nhăn u uẩn của ông bố rừng già, người Cha bao dung suốt đời kể về khúc tráng ca của đá. Si Ma Cai như vầng trán bằng đồng bằng đá còn nhiều ưu tư của đất Mẹ.

Có nhiều cách lý giải cho cái tên Si Ma Cai. Có người chiết tự, Si Ma Cai có nghĩa là vùng đất của rồng ở. Thượng nguồn sông chảy trên đất Si Ma Cai là Pha Long, một xã sặc sỡ bản sắc của huyện Mường Khương – Lào Cai, nơi có cửa khẩu Lùng Cố Nhin nổi tiếng (sang Trung Quốc), nơi có ngã ba sông Xanh, sông Trắng gặp nhau. Pha Long, còn gọi là Phá Lùng, theo tiếng Quan hỏa, đó là con rồng hoa. Đánh vật với đá phiến, đá tảng dọc sông Chảy (bà mẹ sinh ra thủy điện đầu tiên của Việt Nam, thủy điện Thác Bà), chúng ta gặp vùng đất của các vị rồng ở. Không biết rồng có trú ngụ ở đó không, nhưng mây, núi, rừng nguyên sinh và những cộng đồng người vùng biên ải thương mến sẽ đưa gót lãng du của bạn tới một chốn bồng lai. Chốn ấy không hẳn là của riêng người trần tục nơi phố thị. Tôi đã từng đến và gắn bó với tả ngạn sông Chảy khúc thượng du ấy.

Bí thư huyện ủy Si Ma Cai, ông Tráng *** Hùng, người Mông gốc gác Sín Chéng, thì nhất nhất phải cho rằng: Si Ma Cai là lối đọc chệch (bà con vùng cao thì phát âm cái gì cũng chệch so với người dưới xuôi) của cái tên Sín Mà Cái (hay Sín Má Cải), Sín là mới, vùng đất mới (như các địa danh Sín Chải, Sín Cái, Sín Thầu… vẫn thường gặp ở rất nhiều miệt rừng) theo tiếng quan hoả; còn Mà Cái là cái chợ bán con ngựa. Về chiết tự thì điều này rất đúng. Cũng lại hợp lý ở chỗ: bao đời nay, đến tận thế kỷ hai mươi mốt khi loài người hè nhau đi du lịch cung quế Mặt Trăng với lại Sao Hoả bỏng lửa rồi, đường lên nhiều xã của Si Ma Cai vẫn chỉ bé bằng bụng ngựa. Ngựa quẩy hàng xuống chợ, bụng ngựa còn chịn mòn nhẵn hai vách đá cao. Nên cái chợ ngựa có vai trò cực lớn và tuần nào cũng nhóm họp ở Si Ma Cai nghìn đời trước cũng là hợp lý. Dưới Bắc Hà, huyện cũ, huyện vốn chứa cả đất Si Ma Cai nay trong bụng mình, đã làm du lịch Chợ ngựa Bắc Hà quảng bá trên internet, trên các tài liệu hướng dẫn du lịch rồi đó ư? (Có gì là lạ nữa ru?). Xưa, đường không có, phương tiện duy nhất là ngựa. Sử cũ còn chép: trước đây, chợ ngựa họp trong khu huyện lị Si Ma Cai hiện nay, ở cạnh khu rừng cấm. Sau, dân đông mà đất chật ngựa nhiều, chợ ngựa mới tách một nửa sang cái chợ Si Ma Cai sặc sỡ thổ cẩm hiện nay, gọi là chợ ngựa mới (Sín Mà Cái) – cũng như chính sách dãn dân mà nhà nước ta vẫn làm. Từ bấy, bà con có một phong tục rất hay: trước mỗi phiện chợ ngựa (như chợ xe máy, chợ ôtô dưới xuôi), bà con tổ chức đua ngựa, chọn ngựa, định giá ngựa. Trai vùng cao đi chọn ngựa, có lẽ phải kỹ càng như nhiều người đi chọn vợ. Họ "thử" ngựa bằng cách đua từ chợ mới sang chợ cũ. Lẽ ra, khi có Chợ Ngựa Mới rồi, thì con đường nối hai chợ (nay trải nhựa) phải được gọi là "Trường đua" tiếng quan hỏa thì mới đúng.

(còn tiếp)

CVN
07-10-2010, 11:01
Bạn có thể edit bài đầu để thêm vào một cái mục lục link đến từng tác phẩm, như thế có thể hấp dẫn mọi người hơn.

happypack
07-10-2010, 11:01
Si Ma Cai - bài ca đỉnh núi… (Lào Cai, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Doãn Hoàng
(tiếp theo)

Đèn cao áp

Chợ Si Ma Cai giờ vẫn bạt ngàn ngựa. Nay, dẫu ngựa không còn là thứ phương tiện duy nhất để đến xã đến bản cheo leo đỉnh núi như trước kia nữa, nhưng nếu ai đã một lần lạc vào chợ ngựa Si Ma Cai, chợ ngựa trâu bò Cán Cấu (xã của huyện Si Ma Cai), thì mới thấy cái hương vị hoang sơ khoáng đạt nó dậy lên từ mỗi dáng ngựa. Người đến từ những đỉnh núi xa, họ uống vài chén rượu, chao nghiêng ngươờ leo núi (chợ họp trên dốc núi) như một cánh đại bàng xám. Lũ ngựa, trâu, bò trà trộn vào nhau, có những cặp súc vật hứng chí làm tình giữa chợ. Chợ ngựa, còn là cái chợ để ngựa gặp gỡ, giao hoan, tự tình nữa, chứ không chỉ là chợ để cho người vùng cao mua bán súc vật. Chợ tình cho người ta giải quyết những ẩn ức ái tình; cũng lại là chợ để cho đám ngựa đực ngựa cái chờ đợi cả một năm đằng đẵng rồi cõng ông chủ bà chủ đến. Ngựa ta cũng cứ là… hò hẹn, là ái tình “tháo khoán”, thậm chí thanh toán ân oán giang hồ giữa hai gã ngựa đực (tôi không phải là ngựa, song vẫn hồ đồ nghĩ thế). Nếu ai chưa từng thấy đôi ngựa trẻ trung tự tình, nghiêng ngó hôn nhau, cà cà đôi tai đôi môi vào nhau giữa chợ ngựa Si Ma Cai thì chưa bao giờ biết được sự quyến rũ của cái huyện duy nhất ở Việt Nam mang tên là Chợ Ngựa. Và, chàng đi bán ngựa, bán trâu nào cũng thản nhiên vẽ lên lưng con vật to nhất của bản mình một vài ký hiệu đánh dấu. Có khi lưng ngựa vẽ một khoanh tròn màu đỏ như tiết đọng, trong có tên của chủ bán ngựa “Ly *** Châu”, ai mua thì cứ vào quán rượu thắng cố cho gọi đồng chí Châu ra ngã giá. Có con trâu mộng đang mệt mỏi “ế ẩm” (bán mãi không ai mua) ở góc chợ kia cũng đang nằm trệu trạo nhai sự ngẫm nghĩ của mình giữa dốc núi nhão nhào bùn đất sau mưa. Trên quả mông trâu viết chữ bằng vôi choe choét: “Vàng Chỉn Chúng”, chữ viết nguệch ngoạc. Có gã lái trâu miền xuôi lên, cứ nắm sừng con trâu có chữ “Páo” mà gân cổ gọi, ra điều tao có tiền mày ra đây mà bán. Gã không biết rằng, chú Páo đang nằm ôm đống cỏ khô ở cạnh quán chân giò lợn thui rơm uống với từng cái can màu vàng ướp ủ rượu ngô hạ thổ của Bản Phố.

Ngay cạnh chợ Si Ma Cai là khu rừng cấm. Rừng rậm rì, mây phủ là là trên những tán cổ thụ. Mặc xe máy chạy rèo rèo ngay đường nhựa qua mép rừng, mặc cán bộ huyện ai cũng đồng loạt đeo thẻ cán bộ và ăn mặc chỉn chu toàn comple cà vạt như Tây. Trong mây, mấy em má đỏ hây nổi lửa nướng ngô nếp nương bán ở cửa rừng cấm. Bà cụ bán xôi bảy màu ướp tẩm nhuộm quết toàn bằng lá với rễ cây rừng với hương vị rất ngậy, rất lành và ngồ ngộ cả thị giác lẫn vị giác của thực khách. Có bà cụ chỉ ẵm một con mèo con xuống chợ, thế cũng thành một phiên. Mèo ngồi trên đầu gối bà cụ vẫn còn ngo ngoe kêu như nhớ sữa mẹ. Có cô em má đỏ hây hây, miệng cười lấp lóe răng vàng, tay cầm một bó dây thừng loằng ngoằng, mỗi sợi dây buộc cổ một con lợn con con. Chúng đang lồng lên đòi vào dũi rừng cấm. Em đi bán cả đàn lợn. Tôi chưa gặp ở Việt Nam mình một cái thị trấn huyện lỵ nào mà còn giữ được một trảng rừng cấm nguyên thủy đến thế (kể cả những địa danh nghe tên đã thấy diệu vợi như Mường Tè, Mèo Vạc). Cả năm cấm kỵ không cho ai xâm phạm rừng cấm, đến bẻ một cành khô hay hái vài cái nấm về nấu canh cũng tuyệt đối không được. Tết của người Mông sắp đến, bà con lại lục tục đem đồ tế lễ vào rừng, họ cúng thần rừng, thề trước thần rừng rằng chúng con sẽ giữ gìn bảo vệ bà mẹ rừng. Giữ rừng thành một tín ngưỡng nguyên thủy của bà con. Hồi mới tái lập huyện Si Ma Cai (năm 2000) - trước, từ năm 1925, người Pháp đã chia địa giới để Si Ma Cai trở thành một huyện riêng lẻ như hiện nay - lãnh đạo địa phương về "tiếp quản" xã Si Ma Cai đã nhận định ngay về khu rừng cấm: có thể dựa vào thứ tín ngưỡng cội nguồn với rừng (cụ thể là khu rừng cấm) để ngành kiểm lâm vận động bà con bảo vệ rừng. Mô hình rừng cấm và suy nghĩ giữ rừng như giữ gìn sự lễ phép với thần rừng được nhân rộng. Nên, kiểm lâm huyện rất song phẳng khi báo cáo với cấp trên (hoặc khách xa): tỷ lệ rừng che phủ trên huyện núi đá (chỉ 28% là đất nông nghiệp) này tuy thấp, song diện tích rừng (tương đối) nguyên sinh rất nhiều. Vì có tục cúng rừng, rừng cấm bản nào cũng có một dải, với lời thề giữ rừng như giữ mồ mả tổ tiên. Không có cách nào giữ rừng tốt như giữ bằng… tâm linh.
Cạnh rừng cấm là ngôi đền hoang phế thờ ông Quan Công - Quan Vân Trường (nhân vật trong Tam quốc chí); rừng càng trở nên bí ẩn.

Bây giờ, huyện còn nghèo, nhưng khách hỏi thăm đường xá, cán bộ huyện tự hào bảo: bác đi 80km từ TP Lào Cai, đi hết núi đá, gặp một cụm dân cư hiếm hoi trước mặt, ấy là huyện em. Đi qua khu rừng cấm, gặp con đường có đèn cao áp, ấy là khu huyện uỷ, uỷ ban. Huyện không có bất cứ cái nhà nghỉ khách sạn nào. Và, trên toàn huyện mênh mông núi thẳm rừng hoang, mênh mông thượng du sông Chảy huyền thoại này, chỉ có duy nhất món đèn cao áp ấy thôi. Quan khách khỏi cần phải hỏi thăm, mà hỏi cũng khó, vì huyện nhà vắng lắm cũng ít có ai mà chặn hỏi. Huyện không có dịch vụ xe ôm. Có nhiều địa danh tên là Lù Thì Chồ (đường là cái thang đá bắc lên đến trời) lắm.

(còn tiếp)

happypack
07-10-2010, 11:04
Si Ma Cai - bài ca đỉnh núi… (Lào Cai, Việt Nam)
Bút ký của Đỗ Doãn Hoàng
(tiếp theo và hết)

Huyện lỵ, dòng suối ngầm, lỗ hút nước

Cái việc nhiều cán bộ vừa dày dạn chiến chinh lại vừa tráng chí xông pha được đem “đồn trú” trên cao nguyên 1.500m so với mực nước biển Si Ma Cai này lập một cái huyện mới toe năm 2000 nó rất là tráng chí. Rất là khai sơn phá thạch (xin lưu ý, cao nguyên cao nhất nước Việt Nam là Cao nguyên Đồng Văn, chỉ 1.700m so với mực nước biển). Ông Đỗ Đình Lương, Phó Chủ tịch UBND huyện là người ở vùng Trung du Phú Thọ lên Si Ma Cai đã 9 năm, ông bảo: tôi không thích nói sách vở, nhưng đúng là, khi mà mình biết nghĩ cho bà con mình, thì mọi cam khó không còn đáng ngán ngại gì nữa. Bà con lành lẽ, ăn đời ở kiếp với núi cao và mây mù này, có sao đâu. Mình lên đây, đói bà con cho ăn, khát bà con cho uống, uống say bà con đưa về. Cửa không cần đóng, xe vứt ngoài đường không sợ mất. Cả huyện có vài con nghiện thì toàn là lũ người dưới xuôi lên làm công trình, thỉnh thoảng họ lại bị cán bộ gọi lên răn mắng là "chúng mày khéo mà làm hư dân tao"! Một năm có bảy tháng giời mây mù như Sa Pa, trời se lạnh dưới những triền sa mộc ôn đới đẹp mê hồn, nếu anh lãng mạn một chút, anh sẽ thấy rằng, người Si Ma Cai quanh năm được đi ăn dưỡng. Từ những ngày dựng lều bạt dựng huyện mới, nhìn thấy thăm thẳm đá, não nùng những đá, có người đã buột miệng yêu cầu kiến nghị Bộ Tài nguyên Môi trường: nếu chỉ cấp sổ đỏ cho đất thôi, thì Si Ma Cai không bao giờ làm được sổ đỏ. Nơi này, phải gọi là sổ đỏ cấp cho diện tích đá. Công trình gì ở nơi này cũng làm trên đá. Thốc mình vào, đá bằng gian nhà lăn ra, ghè đá ra lấy mặt bằng, một căn nhà ba mặt là đá. Dưới nền nhà cũng đá. Cứ sẵn nền đá triệu triệu năm vững vàng ấy mà xây toà ngang dãy dọc lên trên, khỏi cần đào móng ép cọc làm gì. Giữa đá có người thở dài, có cán bộ huyện quắc mắt: "Anh hy sinh một tí chuyện xa nhà, ở lều bạt ăn mì tôm. Nhưng anh đem lại niềm vui cho hàng nghìn hàng vạn bà con mình. Anh phải thấy điều đó là hạnh phúc chứ". Cũng hiếm có huyện nào mà cán bộ "xuất môn như kiến đại tân" (ra khỏi nhà đi làm - trừ khi đi vào bản xa để ba cùng với bà con – ăn vận phải chỉnh tề như bắt đầu một buổi tiếp kiến quan trọng) với thẻ cán bộ treo trước ngực một cách trịnh trọng như Si Ma Cai. Cán bộ huyện bảo: nơi này còn hoang sơ, mình phải ăn mặc tử tế để bà con nhìn vào. Mình mà lôi thôi lếch thếch, thì bà con đi ngựa, ở nhà chình đất, ăn mèn mén kia họ biết trông gương vào ai?

Mặt đất vốn không có đường, đường là thứ mà người ta đi mãi thì nó hình thành thôi. Không có đường thì ta mở đường. “Cả huyện không có một tẹo nhà nghỉ, khách sạn cũng chưa chết ai. Không có đường thì dân mình khổ lắm” - một cán bộ huyện tâm huyết. Thế là mùa khô đến, người người, nhà nhà, bản bản đi mở đường. Đường phá đá lớn của Chính phủ cho tiền cứ lùi lũi tiến vào thượng huyện. Trẻ em đói quá, nghèo quá, đi học cũng nằm lả trên ghế. Nhà các cháu xa đến mức, học xong, về ăn miếng cơm, nếu tiếp tục đến trường thì các cháu lội bộ đến lớp, có khi ông mặt trời đã đi ngủ. Núi quá cao, bàn chân lội bộ của các cháu thì nhỏ bé. Hôm nào trời mưa, vách núi trơn, 80% học sinh đành phải ngửa cổ trông trời mà đứt buổi học. Ông Chủ tịch xã, và ông hiệu trưởng trường Thào Chư Phìn xa xôi cứ trăn trở mãi rồi chợt mới nghĩ ra mô hình bán trú dân nuôi. Nghĩa là cho học sinh ở lại trường, bố mẹ các cháu góp gạo, thầy cô và các cháu nấu cơm cho các cháu ăn. Ăn no rồi tự học trong sự “quản thúc” của thầy cô. Ai ngờ điểm sáng giáo dục mang tầm quốc gia lại ra đời từ xó núi Thào Chư Phìn ấy. Mô hình bán trú dan nuôi ở Thào Chư Phìn, Sín Chéng, Bản Mế, Quan Thần Sán… giờ là niềm tự hào của giáo dục Lào Cai. Đường hay trường, nếu muốn sáng lên, nhất thiết phải nảy ra từ tâm huyết, từ phút cay lòng của người cán bộ biết nghĩ cho bà con mình như thế!

Có một câu chuyện rất lạ ở trung tâm Si Ma Cai thế này: khi xắm nắm lên gây dựng cơ đồ lập huyện mới ven khu rừng cấm nguyên sơ của xã Si Ma Cai, ông Sương (sau này là Bí thư huyện ủy Si Ma Cai, giờ là Tổng Biên tập Báo Lào Cai) và ông Lương (giờ là Phó Chủ tịch UBND huyện) đã rất trăn trở về nguồn nước sạch cấp cho cả một cái huyện mới. Thì sống trên đỉnh đá tai mèo rợn ngợp thế, nỗi lo muôn thuở của Mèo Vạc, Đồng Văn vẫn là nước sạch. Bài toán đang bế tắc với Si Ma Cai thì một người già ở khu Phố cũ (trước là phố Hoa kiều) hiến kế: dưới thung lũng kia có một con suối ngầm. Không biết đỉnh đá ngất trời không bao giờ nhìn thấy chóp (vì đỉnh của nó ủ trong mây) kia nó đớp nước từ con sông nào ở xứ sở nào, nó ngậm nước trong bụng núi bao lâu bao xa, chỉ biết rằng, khi nhò ra kè đá ngoài thung lũng nó chảy rất đều, rất êm, chảy từ đời này qua đời khác. Nước ấm và lành Mắt ông Lương sáng rực, đó là một dòng sông ngầm trên địa hình chất ngất, sắc nhọn Katster – ông đã đọc điều này từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường vùng Cẩm Khê, Phú Thọ. Sông ngầm đã nhò ra, nhất định quanh đây phải có lỗ hút nước, hút nước biến mất vĩnh viễn trong lòng đất, lòng núi (để nó lại nhò ra ở một nơi nào khác!) - đó có thể là lỗ nước thải tạm thời và kinh điển của thị trấn (rồi thị xã, thành phố sau này?) Si Ma Cai. Thế là một “nhà máy nước” ra đời dưới thung lũng sâu, nước được bơm lên, đem đi xét nghiệm chất vôi của nó hơi nhiều (chảy ngầm trong đá vôi mà lị), không độc lắm, nhưng cần phải “khử”. Khử xong, bơm vào đường ông, cấp cho cả thị trấn ăn thả phanh. Nước thải, đặc biệt là hệ thống nước trời trong mùa mưa của toàn huyện lập trên nền đá phiến triệu triệu năm tuổi được vun vén cho chui vào một cái lỗ hút nước kỳ lạ do trời đất sinh ra. Anh em cán bộ thở phào: “Đúng là người tính không thể bằng… trời tính!”. Nước trời lại trả về cho trời đất. Một nhà máy cấp và thải nước vĩnh viễn không bao giờ có sự cố, vĩnh viễn không sợ ai phá đường ống hay ai thải cái gì độc hại từ phía đầu nguồn (vì sông cấp nước chảy luồn lủi trong núi).

Cùng với rừng cấm, lỗ hút nước và dòng sông ngầm đột ngột lộ thiên đều là những đặc sản mà tôi nghĩ, thị trấn Si Ma Cai nên đưa vào làm… tuyến du lịch về rừng. Thế là câu chuyện bánh đa bánh đúc của hai người đẹp cùng đánh chắt đánh chuyền Sa Pa – Si Ma Cai đã kết thúc có hậu. Dù người đi trước, người đi sau, nhưng rồi đường nhựa cũng vào tới nơi, và chàng hoàng tử hào hoa cũng đã đến đón cả hai nàng đem lên sắc dậy hương. Si Ma Cai - thành một bài ca đỉnh núi, một nàng công chúa ngủ trong rừng vừa bừng thức (khi cô bạn cùng xóm đã trở thành hoàng hậu từ 100 năm trước - thiên đường du lịch Sa Pa). Vẻ nồng say, hoang sơ, sặc sỡ, tựa lưng vào rừng cấm, uống nước dòng sông ngầm vắt mình qua bí ẩn đời sông kiếp đá của Si Ma Cai đang dần trở nên quyến rũ. Dần dà, người ta nhận ra tiềm năng của Si Ma Cai chính lại là những con đường chỉ bằng bụng ngựa, những bảo tàng hoang sơ, đậm sắc, ngỡ như chỉ còn trong cổ tích ấy.

Và, trong niềm vui mở đường đem ánh sáng mới tới thượng nguồn sông Chảy hôm nay, tôi còn thấy lấp lánh niềm vui của những người cán bộ âm thầm mê mải và kín đáo tự hào, lòng nhủ với lòng: mình là người đi tiên phong phá đá mở đường. Vùng đất lành lẽ, nhưng con người thô mộc ở sau rất nhiều dãy núi cao kia đã thốc thổi thêm cả ngọn lửa nồng say nào đó, cộng vào với tráng chí của những người "mang gươm đi mở cõi" (lập huyện mới) ấy. Vinh quang thay là người lính đi đầu. Tổ quốc ta, trong công cuộc đưa miền núi tiến kịp miền xuôi không đơn giản hôm nay, còn cần nhiều lắm những tấm lòng biết nghĩ cho đồng bào mình thật nhiều và thật ấm như thế. Lời tâm sự của ông Lương, trong căn bếp nhỏ, ngang bữa rượu đêm biên thùy, cứ ám ảnh tôi mãi: thì mình xa vợ con một tí, mình đem lại niềm vui cho cả nghìn cả vạn bà con mình - thế phải gọi là hạnh phúc chứ, sao chú lại nói là hy sinh…
Ngày 30-12-2006
Đ.D.H

happypack
07-10-2010, 11:16
Xa Đầm Thị Tường (Cà Mau, Việt Nam)
Bút ký
Nguyễn Ngọc Tư

Mình ngờ ngợ là mình đã quên cái gì nơi ấy.

Lục lạo lại thì đúng là mình có bỏ lại cây bàn chải đánh răng. Nghĩ lại, cây bàn chải đánh răng thì nhằm nhò gì, mà mình bứt rứt khó chịu như vậy. Mình vẫn còn cảm thấy bỏ lại một cái gì đó, khác hơn và lớn hơn, sâu đậm hơn nhiều.

Vậy thì có phải mình để lại Thị Tường một mùa gió chướng không?

Là vì? Mình về Thị Tường ngay đầu mùa gió. Chướng về lặng lẽ, nửa đêm nghe hây hây trên da, trên tóc. Nằm trong căn chòi giữ lú giữa đầm nghe gió lạc xạc trên nóc. Mấy cái đuôi lá xao xác, nước biển như chỉ chờ có vậy, chạy từ cửa sông ông Đốc qua kinh xáng Bà Kẹo, le liếm lan vào dòng ngọt. Thức dậy ngậm một ngụm đã nghe mặn cứng môi, vậy mà hôm qua mình còn lấy gáo múc lên rửa mặt. Nước đang lợn cợn đục bỗng trong vắt, phớt đỏ, người ta chép miệng, “Mới đây là nước “chè chè” rồi”. Chim én không biết về trước gió hay sau gió mà đậu chiu chít trên mấy đống chà. Nghe gió về, người Thị Tường hy vọng rất nhiều, rất nhiều mùa tôm cá đang đi tới.

Người Đầm Thị Tường làm lúa suốt năm nhưng trúng mùa nhất là vào giờ này. Lúa ngoài đồng sau đang xanh lá, có vạt trổ đòng đòng đất, chờ ngọn gió lao rao lạnh là đốn tre xuống lú. Miệng lú rộng tròn như miệng thúng, rộng hơn một tí, bao quanh bằng lưới. Lú giăng ngang Đầm, miệng nằm giữa hai cái ven lúc nào cũng hướng xuôi theo con nước đón luồng tôm. Con tôm ngộ lắm, tụi nó lội ngược, thấy ánh đèn treo trên đầu lú, tôm de đít vô. Không thể đếm có bao nhiêu ngọn đèn trên Đầm vào mùa này. Nhưng người Thị Tường biết rành lắm kìa, ngọn đèn kia là của một đôi vợ chồng son, đem theo là để xem lại album ảnh cưới, và tối nay đã có một vạt đèn vừa tắt ngấm của một cụ già nhất xóm chiều hôm qua đi vào cõi vĩnh hằng. Thị Tường trút bỏ vẻ lãnh đạm, ơ thờ ban ngày để trở thành một thành phố đêm rực rỡ. Thành phố của những người làm nghề hạ bạc. Những ngọn đèn chong mắt thức sáng đêm. Những ngọn đèn đứng yên mà như hấp háy trôi mãi, trôi mãi. Ửng mờ mờ những khuôn mặt người nhòe trong bóng nước. Thất tình cũng không thèm buồn. Cuộc sống đẹp thế, vui thế cơ mà.

Mình tiếc sao năm ngoái, không về mùa này, về ngay gió nầy. Khi đêm hoa đăng không mặc cảm với trăng đã từ từ giếng giăng sáng mặt Đầm. Mình thả xuồng ra đó chơi.

Ra Đầm, mình sẽ thấy mùa xuân đang tiến đến gần hơn bao giờ hết. Bờ lá dừa nước xa xa, mờ mờ sẫm. Bầu trời xa lắm. Mặt nước mênh mông. Mình cứ nằm soãi chân, tay gối đầu lên sạp xuồng, cần gì khua đầm, gió đẩy mình đi, linh đinh trong lòng nước. Sóng vỗ lốc bóc vô mũi xuồng. Dạt xa bờ, gió không khuất rặng dừa nước dày bịt, nên sóng cồn cào, nằm trên sạp đóng băng gỗ cau lão, nghe sóng nhảy nhót hấp hé be xuồng. Đầm Thị Tường bao đời nay không sâu lắm, nước có chỗ le đé ngực, có chỗ chỉ đém lưng quần, tại gió thôi mà hôm qua chiếc xuồng buộc ngang hông chòi, bị sóng đánh chập chã một hồi, chìm lỉm, còn dây buộc vướng lại nên cái mũi ngóc lên trời.

Tại gió mà có nhiều đêm không đốt đèn được, gió thổi phù phù. Gió giật hiu hút. Gió tháng Ba mang hương cà bắp, mùi hương dân dã bay ra từ bờ lá đang trổ rộ lưỡi mèo phèn. Gió tháng Sáu mang từ trong xóm quê mùi rạ tươi thơm, mùi rơm giòn đượm. Gió tháng Chạp bát ngát hương nếp mới, nghe rõ ràng nhịp chày hì hụp quết bánh phồng, những nhịp chày ròng rã. Những chiếc đệm, chiếc chiếu trải rộng trước sân nhà, dưới nắng phơi bánh phồng vàng óng màu mật ong.

Tại gió này nước cũng ngấp nghé lên. Không sôi réo ồn ào mà lặng lẽ. Rất lặng lẽ. Đêm ấy, nằm chò co trong chòi mà đang mơ thấy một người, nghe lưng dưng không lạnh ngắt. Lớ ngớ bò dậy thì nước lên đã ướt đầm lưng rồi. Cái cà ràng chị mình để trên sàn đang nấu cơm buổi sớm ngập nước rã ra làm ba mảnh. Chị mình buồn lắm, không biết có phải tại cả nhà bữa này ăn nồi cơm nửa sống nửa chín hay tại thương cho số phận ba ông Táo, nông nổi như vậy mà còn phải chia xa.
Nhưng mình vẫn còn quên cái gì ở đó vậy cà?

Không, mình có đem về quà xứ Đầm. Mình nhớ lời chị T. nói hôm trước. Chị ngồi tả, vừa tả vừa chắc lưỡi ngọt sớt: “Trời ơi, giữa trưa mà ăn cơm nguội vớì ghẹm muốỉ còn gì bằng, mà phải muốỉ cho thật mặn nghe,(chắc lưỡi), ăn đã dữ lắm. Còn mắm thì làm hai món: nấu ninh lược nước làm lẩu, ăn với cá rô, cá phổi, khổ qua, rau thì có rau đắng đất, cải xanh... mắm chua thì ăn sống. Mắm cá nâu ác bống nhỏ tẳn mẳn để nguyên con, trộn gừng, đường cát, vắt tí chanh. Gắp một con mắm cặp với chuối chát, khế xắt lát mỏng dính mà ăn, (chắc lưỡi), nó ngon hỏng biết làm sao mà nói. Vừa chua vừa ngọt, vừa chát vừa cay, tả một hồi bắt thèm”.

Mình nghe chị tả, hiểu lòng chị, xách về khệ nệ nào mắm, nào ghẹm. Ở Đầm, vào mỗi con nước rằm hay ba mươi, ghẹm nhiều vô số. Lớp vô lú, lớp bu đầy bập dừa thả lềnh bềnh ngắm trời chơi. Ở Đầm người ta cầu kỳ ghê lắm, muối toàn là ghẹm cái, loại nhiều gạch nhất, ăn vừa mặn lưỡi vừa béo ngậy. Rồi hỏi về mắm, dù mùa cá hội đã qua lâu lắm rồi nhưng nhà nào cũng còn hũ mắm chưa giỡ, chỉ cần hé cái nắp đậy một chút đã nghe thơm lừng lựng mũi. Cái xứ ngộ, con người nhiệt tình, chưa kịp nói gièm thì đã dúi vào giỏ biểu mang về rồi. Tình thật, mình muốn mang về đâu phải bao nhiêu đó. Một buồng dừa nước cơm thơm, con cua gạch son, một mớ tôm bạc, tôm càng, một con cá dứa... cho bạn bè mình biết cái xứ mình hào phóng cỡ nào. Cho những người xa Đầm Thị Tường nhớ đến ứa nước mắt khi nhìn tại những món ngon năm cũ.

Có rất nhiều người từ Đầm Thị Tường ra đi. Đây Tân Phong, Đất Cháy, Kinh Một, Hai, Ba, Tư, Vịnh Dừa, Giáp Nước. Bà Ký, Thọ Mai, Vịnh Trăn, Mũi Mắm... những cái xóm nhỏ bình thường, cái tên cũng bình thường nhưng là vùng căn cứ nổi tiếng thời chống Pháp, Mỹ. Xứ ủy Nam kỳ ở đây, Tỉnh ủy nằm ở đây, các báo kháng chiến nằm ở đây, Xóm làng che chở. Trực thăng, máy bay địch không biết bắn phá ở đâu chiều về quẹo lại Đầm xả bom đạn chơi vậy, cũng không cần mục tiêu gì, bỏ xuống cho nhẹ lái, vì khát máu nên họ thấy cái đẹp mà không biết nâng niu, cảm nhận.

Hồi đó sao người ta thèm nhiều chuyện “độc” vậy không biết. Thèm buổi sáng ngắm mặt trời mọc từ Đầm, buổi chiều khập khựng úp mặt về mũi mắm cuối Đầm, thèm nhìn một bầu trời tinh tươm không bóng bầy ác điểu đen xì. Thèm thả xuồng ra Đầm, mang theo một ít ghẹm muối nguyên con, thịt non mềm, một tay cầm củ gừng một tay cầm con mắm cứ cắn gừng một miếng, cắn mắm tnột miếng mà lai rai dưới trăng. Có cầu kỳ gì đâu, có đòi hỏi gì cao sang đâu mà vì bom đạn chiến tranh vẫn không làm được.

Bây giờ những người từ Đầm Thị Tường ra đi có còn nhớ không? Đất và những con người hào sảng đậm chất Nam bộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũng một mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ (đôi khi cũng buồn tình đập chén, đánh vợ không kể), đàn bà say chỉ nhảy múa cho vợi hơi rượu đi. Người dân móc ruột mình ra mà nuôi cán bộ, sống chết với cách mạng. Không đếm được bao nhiêu hy sinh mất mát của người dân xứ Đầm. Rồi có còn nhớ không những cơn gió?

Mình vẫn còn thấy quên, thấy xon xót trong lòng, có phải vì một bờ lá ven đầm bắt đầu nham nhở... Đứng bên này bờ Đất Cháy đã nhìn thấy lồng lộng những mái nhà trắng xám phía bên kia Phú Mỹ. Người dân phá lá ngoài Đầm, phá vườn trong xóm làm vuông, nuôi tôm. Những rặng dừa nước giao ngọn, âm u hoang sơ ngày xưa đã mất. Mình đứng tiếc. Có phải vì mình “văn nghệ” quá không? Có phải mình phi thực tế không?

Đầm Thị Tường vẫn là vùng nước mênh mông, vẫn như trái tim nối những mạch máu kinh rạch đi trăm ngả. Ừ, nhìn qua thì cũng như ngày xưa. Nhưng không, ngày ấy ông cố mình sinh ra mười người con, ông ra Đầm cắm đăng đặt đó, vậy mà thảnh thơi, mười anh em của ông nội mình cùi cụi khôn lớn, dựng vợ gả chồng và mỗi người lại sinh ra một đàn con khác. Ông nội mình lại ra Đầm, bắt đầu dầm dãi, nhọc nhằn. Đến đời ba mình thì không còn những mẻ tôm nặng ký. Chuyện cá tôm nhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồng con với vài tay lưới có thể nuôi cả nhà đã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâu, đàn cá nược đuổi theo đến đấy, dường như chỉ là cổ tích.

Ngày trước cứ năm trăm mét là một hàng lú, bây giờ là một trăm, những nò, những chà,... lưới chi chít mặt Đầm như một ma trận. Tôm cá thiên nhiên cạn kiệt. Mình xin mọi người đừng trách cứ Thị Tường ở bạc. Chúng mình thở gió Đầm, ăn con tôm, con cá trong Đầm, mặc cái quần, cái áo, từ Đầm mà lớn lên. Mai mốt này chúng mình tại vắt kiệt sức thiên nhiên để nuôi đám con chúng mình khôn lớn y như vậy.

Mình sợ ngày ấy, Thị Tường sẽ khác bây giờ. Nuôi tôm có thể nhiều nhà ngói, nhà lầu, có thể nhiều tiện nghi hơn bây giờ. Và vườn dừa cao vọi trong xóm không còn nữa, rặng dừa nước bao bọc ôm ấp con Đầm, nơi con cá kèo chạy giỡn rượt nhau, con tôm bạc ẩn mình... không còn nữa. Con người tự bào chữa, trấn an mình, tại không sống được vào nó nữa rồi chớ nào muốn làm cho vùng Đầm đánh mất nét duyên dẻ bao đời.

Mình sẽ trở lại Thị Tường, đứng bên bờ xáng, nơi có bụi ô rô lá võ vàng. Mình đứng đó trong lồng lộng gió, gió không hương. Mình đứng đó trong vàng dãi nắng, nắng cô hồn.

Mình sợ phải nhìn thấy Đầm Thị Tường vốn từng nhớ thương sâu sắc trong lòng đưa tay vẫy cái chào xa mãi.

Trong quyển Nước Chảy Mây Trôi
Lên mạng này ngày 22-10-05

happypack
07-10-2010, 11:22
Những mái trường chỉ biết có cơm rau... (Si Ma Cai, Lào Cai, Việt Nam)
Tác giả, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng

1. Quả là tôi đi với miệt rừng tương đối thường xuyên. Cảnh nghèo se sắt, cảnh hoang rậm bịt bùng, những tưởng sẽ không còn là một chân trời lạ trong mắt tôi nữa. Vậy mà, không hiểu sao, chuyến ngược bắc ải Si Ma Cai (tỉnh Lào Cai) này lại ám ảnh đoàn công tác từ thiện chúng tôi đến như vậy. Hàng nghìn bức ảnh được bấm, nhiều giờ máy quay phim của VTV hoạt động tích cực. Về xem lại, nhiều nhất vẫn là những đứa trẻ ở truồng, rét tím tái, thịt da ngoang nguếch. "Sinh thực khí" hồn nhiên của chúng phô ra, vương vãi với bùn đất, cỏ cây. Cha mẹ nuôi con như núi rừng nuôi cỏ. Cho đến trước khi cắp sách bước vào lớp một, trẻ em ở nhiều bản làng tôi đã qua, hầu như các cháu không biết đến khái niệm mặc quần, đi dép, đội mũ và tiếng Kinh. Những bàn chân trần nhỏ bé xéo òm ọp trên bùn đất giữa mây mù giăng bủa, giữa giá rét như kim châm phọt máu mười đầu ngón tay. Đặc biệt là hàng trăm mái lều xiêu vẹo của học trò dựng ven các ngôi trường. Mười trường như nhau cả mười, hầu như suốt tuổi học trò, bữa cơm nào cũng chỉ có cơm và rau cải. Khoảnh vườn trường nào (do học trò tự trồng), bữa cơm nào cũng chỉ có rau cải. Ăn chỉ là để no cái bụng đói, gạo bố mẹ đóng góp, rau cải ngoài núi đồi. Nấu cơm chỉ là nấu một nồi ba mươi cơm trắng; đun sôi nồi nước lã, xắt nhỏ rau cải xanh ra, ném vào quấy đều. Bữa cơm chỉ gồm hai cái nồi, một nồi cơm trắng toát, một nồi canh xanh lét. Trên chiếc bàn học sinh bằng gỗ dài thượt, mỗi "mâm" chỉ có hai cái bát to đùng, một bát xanh lét rau cải lõng bõng nước; một bát là cơm trắng. Trẻ con hau háu ăn như nong tằm ăn rỗi nó ngốn lá dâu. Và, ai đó bảo, có cơm ăn thay mèn mén muôn thuở (bột ngô đồ lên) là may mắn lắm rồi.

Chúng ta coi việc bữa cơm chỉ có nhõn nhòn món rau cải, bữa này qua bữa khác, năm nay qua năm khác, trường này qua trường khác… (bữa cơm ấy đi hết tuổi học trò của các cháu) là việc hết sức bình thường? Chúng ta bằng lòng với điều đó? Nỗi đau, ai ngờ lại nằm ở chỗ ấy.

2. Thào Chư Phìn là xã đầu tiên trong toàn huyện Si Ma Cai núi đá xa xôi thực hiện mô hình lớp bán trú dân nuôi. Cảm động lắm, "cô nuôi dậy hổ" dậy múa hát cho học trò ba bốn tuổi xúng xính quần áo Mông, Thu Lao đến cuối buổi, cô treo trước ngực em nào đó một tấm "phù hiệu": Nấu cơm cho các cháu (như thẻ cán bộ). Thế nghĩa là hôm sau đến lượt bố mẹ cháu bé phải thu xếp đến nổi lửa lo bữa cơm "bán trú dân nuôi" cho đám con đỏ của mình và của bà con mình. Tại trường tiểu học, nhà trường thuê một giáo viên vừa làm bảo vệ, vừa nấu cơm phục vụ mấy chục cháu nhà ở xa xôi phải tá túc "thiết quân luật" tại trường. Lên đến cấp hai (trung học cơ sở) các cháu đã lớn, tự cắt cử nhau ra, lần lượt hai cháu nấu ăn một buổi. Thầy Tiếp, hiệu trưởng bảo, giáo viên chỉ việc giám sát, và họ ý tứ cứ cắt cử một bạn khéo tay nấu cơm tập thể cùng một bạn hơi… vụng củi lửa, để các bạn rèn cặp nhau cùng tiến bộ.

Gạo nước thì bố mẹ các em đóng góp. Trường xây một cái nhà kho khổng lồ, gạo được phụ huynh nộp cả vào cho Ban khuyến học của xã, trường cần bao nhiêu, cứ vào kho đem lúa đi sát đi nghiền là xong. Có lúc, ban khuyến học xã Thào Chư Phìn giữ gìn đến 13 tấn thóc phục vụ con tàu chữ nghĩa của xã xa xôi tột cùng của miền địa đầu Si Ma Cai (cách tỉnh lị Lào Cai 100km, hầu hết bà con là người Mông). Con số này ở xã Sín Chéng còn lớn hơn, bởi trường lớp quy mô hơn và bữa ăn tập thể gồm nhiều học sinh hơn.

Mô hình đáng tuyên dương này xuất phát từ Thào Chu Phìn, là vì, bắt đầu từ năm 1991, bấy giờ, vận động trẻ con các bản đi học khó quá, bởi nhà các cháu quá xa, leo núi mất cả ngày đường. Trời mưa là đám trẻ núi bỏ học đồng loạt. Có đứa ăn no ngô răng ngựa ở nhà, leo như khỉ vượt dăm ngọn núi đến lớp thì đói meo, gục mặt lả xuống sàn lớp học. Mấy bà mẹ xót con người Mông, người Thu Lao ở bản Lao Pà Chải mới nghĩ cách đem con đến cổng trường học, dựng một cái lều tre bé bằng cái màn tuyn đang mắc ở đó cho con nằm ngủ qua đêm. Sáng chợ phiên bà đi qua, ném vào lều hai bó rau cải với túm gạo, cút dầu hoả. Tự đứa trẻ đi học về, nổi lửa nấu nướng, một mình một lều thực hiện công cuộc "trọ học" khá tiện ích. Hàng chục cái lều mọc lên khiến cho thầy hiệu trường nhà trường, nhà giáo Giàng Sín Chớ và ông Chủ tịch UBND xã Sùng Sào Mìn giật mình nhận ra cái tình yêu chữ Bác Hồ của những người sống sau nách núi ủ mây mù hoang lạnh kia. Lập tức, ý tưởng lập lớp bán trú dân nuôi thay cho manh lều xập xệ thỉnh thoảng được lẳng vào một bọc gạo với mớ rau của phụ huynh học sinh. Ông Mìn giờ nghỉ hưu ở bản Hồ Sáo Chải; ông Chớ giờ làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra huyện ủy Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Họ được xem như hai ông tổ của mô hình bán trú dân nuôi trong toàn khu vực.

3. Giờ đây, có hàng trăm, hàng nghìn học sinh theo mô hình bán trú dân nuôi kể trên - chỉ tính riêng trên địa bàn huyện nhỏ bé, rợn ngợp núi đó, lẩn khuất trong mây xa núi thẳm Si Ma Cai. Chúng tôi đến thăm các trường tiểu học và THCS, THPT ở các xã: Bản Mế, Thào Chu Phìn, Quan Thần Sán, Sín Chéng... Hơn chục cái trường chúng tôi đã qua, đã ghi nhận. Có đoàn diễn viên lộng lẫy hơn chục người mang theo loa đài, ánh sáng, máy nổ biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại chỗ (do NSUT Thúy Ngần làm trưởng đoàn); hai cái máy quay hiện đại đệ nhất của Truyền hình Việt Nam thực hiện một chương trình hết sức quy mô; nhiều nhà báo và cán bộ huyện xã về thăm; vì thế, các nhà trường dọn dẹp phong quang. Nhưng, thu vén thế rồi mà cái nghèo, cái đói vẫn như cái đuôi nhằng nhẵng ma quái của núi rừng chẳng lẫn đi đằng nào được. Những cháu bé ở trường Sín Chéng đi đất đi học trong trời lạnh giá, quần áo thủng rách. Gạo, mì tôm, quần áo được phát cho những đứa trẻ dựng lều ven trường (do khu “nội trú” không đủ chỗ). Chiều đến các cháu ra suối tắm, nổi lửa nấu cơm, ngồi học với ngọn đèn dầu, trong căn lều đứng dậy cộc đầu, quay đằng nào lều lung lay đằng ấy. Bạn tôi, một nhà báo từng sống ở dưới chân tháp Effel bên "Kinh đô ánh sáng" quay xong những cảnh ấy, cứ ra sau cánh gà sân khấu dã chiến phục vụ đồng bào ngồi… khóc. Cô nghĩ về tương lai của bọn trẻ mà quặn lòng. Quặn lòng hơn cả là những bữa của chúng cứ ăn lặp đi lặp lại hai màu xanh và trắng ở tất cả các nhà trường, ở nhiều thời điểm, với học sinh nhiều lứa tuổi. Và người ta coi đó là một việc hết sức bình thường.

Nỗi đau của những bữa cơm hai màu ấy vinh dự đến sau niềm vui các em đã được đến trường, được "quản thúc" nghĩa tình trong các ký túc xá, được ăn cơm trắng thay vì bột ngô đến hẹn lại lên. Nhưng ngần ấy cũng đã đủ là nỗi đau khó hình dung với người Hà Nội, với thế giới văn minh rồi, tôi nghĩ vậy. Có những đứa trẻ, suốt 9 năm đến trường, học giỏi, cháu chỉ lác đác được ăn vài bữa cơm có hạt lạc rang, có tí mỡ tí thịt. Còn lại, bữa nào cũng cơm trắng, rau cải xanh nấu nước suối lõng bõng. Thầy Mai, hiệu trưởng trưởng Sín Chéng bảo: bố mẹ các cháu đóng góp mỗi tuần vài cân gạo đã là cố gắng lắm rồi. Nhiều nhà ở bản xa, nghèo đến độ không có một cái gì ngoài đôi chiếc nồi và một chiếc điếu cày cho ông bố đông con hút thuốc lào. Không góp gạo được, học sinh và bố mẹ cháu rất mặc cảm. Cơm và rau. Hôm nay có khách, muốn tìm mua ít lạc rang (đậu phộng) cho các cháu ăn để "quay tivi" nhưng không ở đâu bán. Vì mình cũng chưa đi mua thế này bao giờ. Trường chúng tôi có vận động mỗi giáo viên, một tháng tự nguyện đóng góp 15.000 VNĐ tiền lương để cải thiện bữa ăn cho các cháu. Nhưng, chẳng thấm vào đâu, đành chuyến sang hướng: thương các cháu thì để ý đứa nào rách rưới, rét mướt quá mua cho cháu bộ quần áo 45.000 VNĐ. Các trường ở Bản Mế, Thào Chư Phìn, Quan Thần Sán cũng có nhiều giáo viên xót học trò, tự nguyện mua sắm quần áo, giày dép chống lại cái rét mướt hầu như quanh năm của những đỉnh núi chon von. Nhưng, nỗ lực đó cũng chỉ như muối bỏ bể.

(còn tiếp)

happypack
07-10-2010, 11:24
Những mái trường chỉ biết có cơm rau... (Si Ma Cai, Lào Cai, Việt Nam)
Tác giả, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng
(tiếp theo và hết)

4. Lần nào, đến thăm một khu nội trú, một túp lều trọ học, tôi cũng chú mục vào bữa cơm của các cháu. Không bao giờ gặp một bìa đậu, một con cá mắm hay một cái gì đó mật mỡ mút mát gọi là thịt thà cá mú một tí. Rặt có rau xanh biếc và cơm trắng toát. Những bữa ăn lành lẽ; nhưng nhói buốt và ám ảnh. Mỗi cuộc đời chỉ có vài năm thơ ấu học trò. Dẫu ngôi trường có hai ba tầng cao, dẫu kinh phí từ nguồn trái phiếu chính phủ mà cả nước giành cho xây dựng cơ bản rót về nhiều thế hay nhiều nữa mà để bữa ăn các cháu đạm bạc đến cay xót trên diện quá rộng như thế, có nên không? Dăm năm học trò thơ ấu rồi cũng qua đi, chẳng có ai chết héo chết mòn hay chết buồn chết thảm vì ăn cơm chỉ có cơm trắng và rau xanh cả. Song nỗi buồn cho các em, nỗi ám ảnh cho những người chứng kiến cảnh đạm bạc quá ư kia cũng lại cứ còn mãi.

Các thầy cô giáo đều thở hắt ra: đau đầu nhất bây giờ là bữa ăn cho các cháu. Không có dự án cải thiện bữa ăn, không ai trích phần trăm cho việc cải thiện bữa ăn học trò (như trích tiền trong xây dựng cơ bản). Thầy cô, học trò cũng trăn trở với bữa ăn, họ đùm túm cưu mang học trò của mình, nhưng như thế làm sao xuể được. Chỉ cần có một nghìn đồng/học sinh/ngày ăn là có thể cải thiện bữa ăn chỉ có rau và cơm lõng bõng của các cháu. Trường nhiều nhất, đông học sinh nhất như trường Sín Chéng cũng chỉ có 80 em nội trú. Một ngày, các giáo viên nơi đây chỉ ao ước có thêm 80.000 VNĐ để cải thiện bữa ăn cho các cháu. Thế mà nhiều năm qua, mong muốn này vẫn không có cách gì thành hiện thực.

Tại bản Sử Pà Phìn, xã Quan Thần Sán, cũng của vùng Si Ma Cai đang nói, trong cuộc trả lời phỏng vấn chúng tôi, ông Ly *** Páo hồn nhiên bảo: bữa đến ông chỉ ăn cơm, không có rau đâu. Đi chợ chỉ dám mua mỗi thuốc lào. Lâu lắm tôi chưa được ăn thịt. Sắp Tết rồi à, tôi ăn thịt có lẽ từ Tết năm ngoái. Chủ tịch xã Ly Xuân Lẩu ngồi cạnh ồ lên: đúng rồi, Tết trước thịt lợn, tôi mang cho ông Páo một đùm. Ai nấy, cán bộ TƯ, cán bộ huyện, xã cùng chết điếng. Nhưng cái nghèo của ông Páo dẫu là sự thật, nhưng chỉ cá biệt thôi. Còn hàng trăm, hàng nghìn học sinh (tính riêng) ở Si Ma Cai mà chúng tôi đã gặp: bữa ăn chỉ có rau và cơm của họ đã trở nên phổ biến, quá quen thuộc. Quen thuộc đến mức không ai còn phải thắc mắc nữa. Cái dạ dày và sự háu đói của các cháu đã quen với sự đạm bác đi rồi. Ăn vẫn ngon, vẫn hết veo cả nồi lớn màu xanh lẫn nồi lớn màu trắng. Những năm tháng thơ ấu học trò vẫn có vẻ như an bình dù các em hầu như không biết đến thịt, trứng, sữa hay thứ lương thực, thực phẩm nào khác ngoài cơm trắng và rau cải xanh.

Khát khao có năm trăm đồng (năm trăm VNĐ người ta thường dùng để mua một nhánh hành ở dưới xuôi) hòng cải thiện mỗi bữa ăn cho một học sinh miền núi cứ treo đó. Để rồi, bữa cơm dọn ra, ở tất cả những trường trên Si Ma Cai mà tôi đã gặp, vẫn chỉ có màu xanh của rau cải và màu trắng của cơm tẻ. Nếu so sánh với cái giá ba nghìn VNĐ/lần đánh giày; hàng chục, hàng trăm tỉ đồng trong một vụ bê bối, tham nhũng mà báo chí vẫn liên tục, liên tục đề cập – chúng ta sẽ thấy nỗi đau ngấm vào mình rất ngọt. Và không bất ngờ khi bạn tôi phải ngồi sụt sùi khóc với câu hỏi tương lai của đám trẻ miệt rừng. Cái văn hóa vì cộng đồng, cái lý của lối sống bác ái bật ra từ nỗi ám ảnh ấy, từ phép so sánh ấy.

(Trên đây là vài dòng tâm sự, tôi - trong tư cách nhà báo - muốn gửi tới các doanh nhân có lòng hướng về người nghèo, lực lượng luôn đi đầu trong cuộc vận động nối vòng tay lớn vì đồng bào kém may mắn của mình. Kính thư!)

Si Ma Cai – Hà Nội, cuối năm 2006

happypack
08-10-2010, 13:38
Bạn có thể edit bài đầu để thêm vào một cái mục lục link đến từng tác phẩm, như thế có thể hấp dẫn mọi người hơn.

xin cảm ơn anh cvn đã giúp em lập Mục Lục :-)

happypack
10-10-2010, 17:58
Nửa thế kỷ trôi qua, đường lên cao nguyên Đồng Văn giờ đã được cải thiện rất nhiều. Gần hai mươi năm sau khi con đường Hà Giang - Đồng Văn – Mèo Vạc được thông xe, nhà nước ta tiến hành mở thêm tuyến đường Yên Minh lên thẳng Mèo Vạc (gọi là đường Quyết Thắng); cho nên, bây giờ, bạn có thể đi một vòng hình miệng thúng từ Hà Giang qua Yên Minh lên Mèo Vạc rồi vòng về Đồng Văn, trở lại thị xã Hà Giang chỉ trong... một ngày. Một ngày đủ du thám vòng quanh cao nguyên cao và hiểm trở nhất Việt Nam, đi xuyên qua con đường Hạnh Phúc mà phải mất 6 năm ròng rã, hàng nghìn thanh niên của 18 dân tộc anh em mới dùng tay đẽo đập đá làm nên.


Sau này, nhiều đồng đội và thân nhân những người đã khuất đến gặp ông Đảm để xin “tách rửa” khuôn mặt người thân trong ảnh ra làm... ảnh thờ.

Đây là một chi tiết rất buồn. Nó là bằng chứng nói rằng, nỗi đau đáu sợ rằng con đường Hạnh Phúc và chiến công mở đường Hà Giang - Đồng Văn sẽ vĩnh viễn biến mất khỏi cả... ký ức của chúng ta là có thật. Là cần thiết. Nếu lãng quên là có tội.

Tôi không nghĩ là vì khó khăn của thời ấy (những năm 1960) mà chúng ta hầu như không lưu giữ được ký ức về việc xây dựng đường Hạnh phúc - Vạn lý trường thành Việt Nam! Chắc có lẽ, chưa một ai đặt mình vào vị trí của những người cống hiến 6 năm tuổi trẻ cho phần công việc khó khăn, khốc liệt, nặng nề và có thể hy sinh tính mạng bất cứ lúc nào của hàng vạn lượt thanh niên xây dựng đường Hạnh Phúc. Không ai nghĩ, ký ức về con đường Hạnh Phúc sẽ đeo bám cả một thế hệ, suốt cả một đời.

…tôi hỏi anh Âu Văn Hợp, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hà Giang, anh ấy cũng thật thà: cháu cũng không hiểu tại sao đường Đồng Văn lại tên là đường Hạnh Phúc, bác ạ.


Đường Hạnh Phúc là con đường có lịch sử phá đá thủ công nhất, khủng khiếp nhất, đi qua biển đá tai mèo, đá phiến dữ dằn nhất Việt Nam. Một Vạn lý trường thành của Việt Nam.

Trong diễn đàn chắc hẳn đã có nhiều bạn đi qua cung đường Hà Giang - Đồng Văn - Mèo Vạc. Hôm nay xin gửi tiếp một ký sự dài kỳ của anh Đỗ Doãn Hoàng về lịch sử khai mở con đường này. Vì bài viết rất dài (khoảng 50 trang A4, bao gồm cả hình ảnh) nên mình chỉ xin trích lược những đoạn mình cho là quan trọng ở đây. Bạn nào quan tâm có thể tìm đọc bài viết đầy đủ tại http://my.opera.com/dodoanhoang/blog/?id=1167246 trong đó có thêm nhiều chi tiết thú vị mà có thể bạn muốn biết.


Cuộc trường chinh vào trong lòng đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của Đỗ Doãn Hoàng
(lược trích)

Lâu nay nhiều người cứ lầm tưởng cao nguyên Đồng Văn chỉ gồm có một mình địa giới hành chính huyện Đồng Văn bây giờ, nhưng thực ra, đó là cụm từ chỉ vùng đất mênh mông núi đá gồm hầu như toàn bộ cả 4 huyện Quản Bạ - Yên Minh - Đồng Văn – Mèo Vạc. Cao nguyên Đồng Văn là cao nguyên cao nhất của toàn bộ đất nước Việt Nam, khoảng 1.600m so với mực nước biển (xin lưu ý, Phanxipang cao 3.143m của dãy Hoàng Liên Sơn chỉ là đỉnh núi cao nhất Đông Dương - chứ không phải với tư cách là một cao nguyên).


Với tất cả những chú giải khí hơi dài dòng kể trên, người viết bài này muốn nói một vấn đề: đến tận năm 1959 (tức là khoảng 5 năm sau khi người Pháp bị đánh bật khỏi Điện Biên Phủ và rút khỏi nước ta), cao nguyên Đồng Văn vẫn chưa có đường để bánh xe có thể lăn vào. Đường, từ trăm nghìn năm qua, ở cao nguyên này (trước năm 1963) chỉ là đường mòn để cho người ta đi bộ, hoặc đi bằng ngựa thồ. Những kiếp cuốc bộ, những bước chân ngựa Mèo trệu trạo, trồi thụt, nhục nhằn trên đá. Vùng đất mênh mông, rợn ngợp chỉ có đá, đá và đá ấy chìm khuất trong mây, trong mông muội, thiệt thòi. Và cả trong bí ẩn, với ít nhiều lầm lạc. Có lẽ, bấy giờ, năm 1959, khi quyết định mở đường, người ta cũng không hiểu miền đá rộng và khắc nghiệt đến rợn người Đồng Văn khủng khiếp tới mức nào. Chỉ biết rằng, không mở đường thì không có cách nào đánh thức được cao nguyên đá.

Trung ương quyết định mở đường vào Đồng Văn – Mèo Vạc, suốt 6 năm trời, hơn hai triệu công lao động của thanh niên xung phong 6 tỉnh của Việt Nam đã mở được 160km đường từ thị xã Hà Giang vào Mèo Vạc. Xin nhắc lại là: hơn hai triệu ngày công, với lưu lượng ngày nào cũng có cả nghìn thanh niên (chưa kể dân công nghĩa vụ) đổ máu, đổ mồ hôi, lao động thủ công phá đá mở đường trong 6 năm ròng để có được con đường 160km xuyên qua biển đá mênh mông.
Con đường ấy, Trung ương đặt tên là Đường Hạnh Phúc, thật ý nghĩa. Có cả một nghĩa trang ở huyện Yên Minh hiện nay, dành để tưởng nhớ những chàng trai cô gái đến từ 8 tỉnh của Việt Nam đã ngã xuống cho con đường Hạnh Phúc được ra đời.

Tiếp đến là con đường Quyết Thắng dẫn từ Yên Minh ngược thẳng Mèo Vạc rồi vòng qua Đồng Văn cũng chồng chất khó khăn như đường Hạnh Phúc. Bây giờ, chúng ta có hai con đường lịch sử: gồm đường Hạnh Phúc (nối Hà Giang - Yên Minh - Đồng Văn - Mèo Vạc) và đường Quyết Thắng (nối Yên Minh – Mèo Vạc); hai con đường chạy thành hình vòng thúng (gần tròn) như đôi tay bà mụ xâu chuỗi từng bản làng, nâng bước, vực cao nguyên Đồng Văn thức dậy từ hoang sơ, cam khó, tận khổ.

Trước khi kết thúc lời “dẫn chuyện” dài dòng này, tôi xin nói về vài chữ nhất nữa: đường Hạnh Phúc là con đường có lịch sử phá đá thủ công nhất, khủng khiếp nhất, đi qua biển đá tai mèo, đá phiến dữ dằn nhất Việt Nam. Một Vạn lý trường thành của Việt Nam.

Con đường ra đời, lần đầu tiên 8 vạn bà con sống trong biển đá ngờm ngợp của cao nguyên Đồng Văn được trông thấy cái... ôtô. Đó là một đại công trường mà lịch sử nước nhà không nên quên lãng như chúng ta đã đối xử với nó trong gần nửa thế kỷ qua.


Bây giờ, trên đỉnh Mã Pí Lèng có một tấm bia đá (lại là đá) tưởng nhớ cuộc chiến khốc liệt với đá này, như sau: “Nhân dân vùng núi tiến kịp vùng xuôi. Trung ương Đảng khi về Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang - Đồng Văn – Mèo Vạc. Ngày khởi công 10/9/1959; ngày hoàn thành 10/3/1965. Thành phần mở đường gồm bà con của 16 dân tộc thuộc các tỉnh Cao Bắc Lạng – Hà Tuyên Thái – Nam Định – Hải Dương. Riêng dốc Mã Pì Lèng, công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường”.

Những dòng chữ khiêm tốn, giản dị, mờ tỏ trong mây mù ở cái nơi mà nhìn sông Nho Quế chỉ bé như sợi chão vắt ngang các triền thung lũng xanh như có như không ấy chỉ là lát cắt tí tẹo của một cuộc trường chinh dài dằng dặc của tuổi trẻ Việt Nam chiến thắng sự khốc liệt của đá.

Có câu chuyện rất thật mà nhiều cựu thanh niên xung phong làm đường Thanh niên Việt Bắc cùng kể với tôi, rằng: chính những người tối mặt tối mũi chiến đấu với biển đá, trong suốt 5 năm ròng kia, họ cũng không có lúc nào ngẩng mặt lên cổng trời để thấy những gì mình vượt quá nó vĩ đại tới mức nào.

Mãi sau này, ngồi ôtô, ở tuổi cổ lai hy, vượt cổng trời Quản Bạ, rẽ mây mù Mã Pí Lèng, anh chị em mới cùng thót tim: độ ấy mình hăng thật! Tuổi thanh niên như chim tung bay thật! Nếu ai đã sống trong những ngày, tại công trường có tổ chức cả triển lãm về tấm gương khi tổ quốc cần, sẵn sàng tự chặt tay mình ngoài trận tuyến La Văn Cầu; tấm gương đội đất rụng trụi cả tóc mây của nữ anh hùng thuỷ lợi Trần Thị Vách; triển lãm về phong trào cờ Ba Nhất, gió Đại Phong, sóng Duyên Hải… thì mới cảm nhận được cái tráng chí xả thân của người trẻ trên công trường làm đường Hạnh Phúc lúc bấy giờ.

Sự chờ đợi của tám vạn đồng bào Đồng Văn – Mèo Vạc, ở phía sau mấy cái cổng trời; những người chưa hề biết đến bánh xe tròn từ cuộc sống văn minh kia mới là lời hiệu triệu thiêng liêng nhất. Tổ quốc nơi địa đầu đang đang gọi người trẻ xông lên tuyến đầu để được cống hiến. Tuổi trẻ, bao giờ cũng là như thế.


Đó là một kỳ tích, mà đời người ta không phải ai cũng may mắn được tham gia, để thấy mình đã sống không vô nghĩa, đã biết tình nguyện cống hiến vì những đồng bào chịu nhiều thiệt thòi sau rất nhiều dãy núi đá. Quan trọng hơn, là họ đã trưởng thành từ trong gian nan của biển đá.

(còn tiếp)

happypack
10-10-2010, 18:04
Cuộc trường chinh vào trong lòng đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của Đỗ Doãn Hoàng
(lược trích)

(tiếp theo)


Tay búa, tay troòng, một mình khắc tự xoay sở quai búa, khoan choòng. Mà một tay tôi 3 cái mũi troòng cơ. Một mũi 30cm dùng để mở lỗ, tức là lấy búa đục mũi troòng vào đá. Khi có lỗ nhỏ rồi, bèn rút mũi troòng 60cm ra,đút vào, đục đá tiếp. Cuối cùng là rút cái troòng dài 1,2m ra thay cho cái troòng 60cm.


Điều đó không đơn giản, choòng là dụng cụ như cái xà beng, gồm 8 cạnh (ta thường thấy là loại 6 cạnh) của Trung Quốc. Anh chị em khoan lỗ trên đá, rồi đổ nước vào, một người giữ, một người đục - xoay cái choòng để thúc nó khoan sâu vào lòng đá. Đục tay, khoan tay.

Mãi khi công trình đường Hạnh Phúc cơ bản hoàn thành, chỉ còn vài khúc vào Mèo Vạc, anh em mới được cấp cho duy nhất một cái máy khoan DK34 của Tiệp gồm 6 mũi khoan. Còn lại, toàn bộ công việc dời non lấp bể theo đúng nghĩa đen kể trên, chỉ thuần tuý dùng sức lao động chân tay của nam nữ thanh niên 16 dân tộc, thuộc 8 tỉnh nước ta.


Đội cơ dũng đã có một sáng kiến tuyệt vời, họ dùng toàn bộ choòng (xà beng 8 cạnh) - trước đây dùng để khoan lỗ nhét thuốc nổ - cắm dọc vách đá xám cao hàng trăm mét Xống-mũi-ngựa. Rồi anh em dùng dây buộc vào các cái cọc (xà beng) cắm chi chít ven vách đá cao cả nghìn mét so với... mặt sông Nho Quế rồi cảm tử đu người trên các sợi dây đó mà dùng máy khoan khoan đá.

Khoan lỗ xong, họ lại đu mình trên các sợi dây vắt dọc hàng cọc xà beng trên vách đá mà tìm chỗ nấp nú. Tìm chỗ an toàn, bắt đầu khai hoả nổ mìn. Đá rơi như trời long đất lở. Cứ thế, họ tiến từng bước dọc khối đá to như... quả đất của Mã Pí Lèng, nhích từng xăngtimét vào phía Mèo Vạc.


Kỷ niệm đau nhất của ông Mai, không chỉ là những hình nhân xanh như tàu lá vì sốt rét ác tính, những cuộc “tống tiễn” thê lương vì “giữa đường đứt gánh” của những chàng trai cô gái trẻ chốn rừng thiêng nước độc – mà lại là một… bữa ăn. Đơn vị cả trăm người thuộc C Lạng Sơn các ông, bấy giờ lương thực khan hiếm, ông là cấp dưỡng, bèn cho người vào bản mua một ít đậu phụ của người Mông về, thả vào nồi nước nấu lên làm canh - kiêm làm thức ăn. Có khi “cơm” hết cả gạo tẻ, phải nấu bằng gạo nếp thật nhão, quấy đều lên rồi cứ thế sột sệt ăn.

Nằm trong lán, khỉ chạy ào ào như... gió ở ven rừng. Lợn rừng, nai thì nhiều vô kể. Bà con quý thanh niên mở đường lắm, có vài tàu rau cải, vài quả trứng gà họ cũng mang sang cho. Mỗi lúc họ thịt bò, có khi họ xách cho cả một đùm 5-7kg, cứ là ăn ngấu nghiến như tráng sỹ Lương Sơn Bạc.

Những ngày mưa dầm gió bấc, sống trên đá lạnh đến dưới âm mấy độ. Gió rít, rét buốt như muốn long từng đốt ngón tay ngón chân ra. Lại càng đói. Đói hơn là khi đường tiếp phẩm bị sạt. Cả chục ngày ngựa thồ và xe tải không vào được. Anh em bảo nhau ăn ngô sống tự cứu mình trước khi trời cứu!

Chậu nước khe đục ngàu như nước ruộng trâu đằm thì còn lọc được. Chứ nhai ngô răng ngựa ngày này qua ngày khác, anh chị em cố bảo nhau càng nhai ngô càng ngọt, dù chẳng ai có cảm giác ấy. Thò tay ra nhúm một vúm muối trắng bỏ vào miệng nhai với ngô, cũng chẳng thấy… ngọt.


Sợ nhất vẫn là nạn thiếu nước sinh hoạt. Nước sinh hoạt mang từ sông suối xa tít tắp về, cán bộ cho vào kho khóa lại cẩn thận, bảo quản như báu vật. Mỗi sớm mai, anh em mỗi người được nhà quản lý mở cửa kho, phân phối một ca nước vừa đánh răng vừa tận dụng cho hàng chục các nhu cầu khác nhau mà có lẽ chỉ rơi vào hoàn cảnh ấy người ta mới hình dung được tại sao mình lại sáng tạo ra được cái chu trình tiết kiệm nước tài tình đến thế (rửa mặt, cất đến chiều rửa chân tay (vì khi đi làm đeo giày bata, chân và bít tất rất... bốc mùi); đêm giặt bít tất; giữ nước lại kẻo nó bốc hơi để hôm sau dùng nước ấy đổ vào lỗ choòng khoan đá mở đường).

Mỗi tuần, anh em được chiếc xe tải cũ như cái chuồng gà của công trường chở lên Phó Bảng tắm một lần.

Trong khi đó, mở đường vượt qua Đồng Văn, sang đỉnh Mã Pí Lèng, anh chị em mới chợt nhận ra cái chân lý đau đớn cho dòng sông Nho Quế lãng mạn: nước sông Nho Quế là thứ nước chỉ để nhìn chứ không thể ăn được. Không một ai đủ sức đi bộ xuống vực sâu ngàn mét, sờ thử xem dòng nước chảy lưng chừng trời Nho Quế ấy có phải là nước thật không. Là nước thì có ăn được không. Con sông chảy như trôi trong mộng, còn cơn khát sau cả ngày treo mình trên vách đá đục đánh đá lại gào réo rất thực. Thành ra, nhìn sông mà khát, thì nỗi khát cứ lớn mãi lên.


Thoát khỏi nạn “giặc cướp” thì lại đến bệnh tật. Khí hậu quá khắc nghiệt, có những eo núi (chân cổng trời), lúc nào cũng ngột ngạt khí độc, có những nơi, lạnh đến mức tuyết đóng đầy cả một thung lũng rộng. Có khi, đến giờ, có kẻng ra công trường, cả một đội 12 người thì chỉ còn có 2 người đủ sức… nhổm dậy được. Tất cả nằm ốm la liệt như một cái bệnh viện. Kể cả y tá của A (nhóm 12 người) cũng nằm bẹp.

Trước khi nhắm mắt, anh Chanh khóc: tôi chết, tôi sẽ chết ở đây. Tôi nằm bên vệ đường Hạnh Phúc này. Anh em phải tiếp tục phá đá. Mai đây, con đường được hoàn thành, anh em về lại quê hương Lạng Sơn. Liệu có ai còn nhớ đến tôi không? Tôi sẽ nhớ mọi người lắm đấy. Nói rồi, anh tắt thở (khi ấy anh vừa tròn 19 tuổi).

Không kém phần sầu thảm là cái chết của anh Vũ Đức Lộc, người Thất Khê, Tràng Định, Lạng Sơn. Năm 1960, khi đang yêu chị Nguyễn Thị Gái (cũng người Lạng Sơn, tham gia trong đơn vị mở đường) rất thắm thiết, anh ngã bệnh và chết.

43 năm sau, bà Gái về quê, lấy chồng, goá chồng và trở lại con đường Hạnh Phúc tìm mộ người yêu. Nấm tròn hiu hắt trong nghĩa trang Thanh niên xung phong mở đường Hạnh Phúc tại huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã làm bà Gái không khỏi buốt lòng. Bà ngất lên ngất xuống, lăn xả trên mộ “người chồng trong mộng” giữa đường đứt gánh.

Cũng như năm xưa, khi còn đôi mươi, chị Gái đã áp sát quan tài, nằng nặc đòi nhảy xuống hố chôn chết theo người tình. Năm 2003, đoàn cựu Thanh niên xung phong già nua thuê xe “tăng bo” mấy lần mới vượt được núi đèo vào Yên Minh, mọi người đã hốt hoảng ôm lấy bà gái, ông Kiềm là lãnh đạo đoàn van vỉ: bà thương chúng tôi, đừng đau lòng nữa. Bà có buông nấm mộ anh Lộc ra không? Bà đang bị huyết áp với lại bao nhiêu là bệnh. Bà đột quỵ, ngất ngủng ra giữa rừng núi hoang vu này, thì chúng tôi chết mất. Ai đo huyết áp cho bà được? Nói vậy nhưng ai trong đoàn (cả nhóm cán bộ trẻ thuộc Sở Giao thông – vận tải Hà Giang đi dẫn đường) cũng phải ứa nước mắt.


Ông Thuỳ là người hồn nhiên, yêu thơ văn, nên ngần ấy khó khăn thiếu thốn, với ông chỉ lặn vào thơ văn hơn hớn khí thế: “Dù muỗi rừng vắt núi/Dù thiếu từng hạt muối cọng dưa/ Dù dầu dãi nắng sớm chiều mưa vất vả”; thì cuối cùng thanh niên xung phong làm đường Hạnh Phúc đã... hạnh phúc với “Xe đã đến trên đường Hạnh Phúc/Chở ước mơ, chở muối, chở dầu/ Chở cả niềm tin thắp sáng đêm thâu/ Và thắt chặt mối tình xuôi ngược”.

Có thể bây giờ người trẻ thích híp-hốp, họ không hát cái bài hát ông Kiềm vừa khóc vừa viết này. Có thể những ai chưa lên cao nguyên Đồng Văn, chưa thấy cái khắc nghiệt của đá xám, mây mù hờn tủi, người ta chưa hiểu hết giá trị nhân văn của cái cuộc trường chinh vào trong biển đá trước đây. Cuộc trường chinh đã khiến cho 8 vạn đồng bào sau điệp trùng núi năm xưa lần đầu tiên được nhìn thấy cái ôtô. Nhưng, có một điều chắc chắn, tất cả những thanh niên xung phong từng mở đường Hạnh Phúc, họ sẽ không cầm được nước mắt, khi nghe ông Kiềm ôm đàn xa vắng hát trong tuổi già bóng xế, hát rằng:

“Kìa cổng trời cao, chúng ta quyết vượt qua nào
Kìa vách đá cao là núi đá tai mèo
Anh em ơi, chắc tay búa, ta quai troòng/ ta xuyên vượt qua cổng trời.
Chúng ta đổ mồ hôi, vách đá kia phải nhường lối.
Tiến lên đi, vượt qua đi, ta chẳng ngại khó khăn gì.
Ngày mai thông xe, ta tăng ga vượt qua cổng trời.
Quản Bạ ơi, chúng tôi đã đến rồi.
Mã Pí Lèng ơi, ô tô đã đến rồi.
Mèo Vạc ơi, bao năm mong tháng chờ.
Mà ngày hôm nay Hạnh Phúc đã đến rồi.
Đường Hạnh Phúc đã đến rồi”.

(còn tiếp)

happypack
10-10-2010, 18:08
Cuộc trường chinh vào trong lòng đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của Đỗ Doãn Hoàng
(lược trích)

(tiếp theo)


Có nhiều người đã ngã xuống khi con đường chưa được hoàn thành, nhưng dọc đường làm đường ôtô chinh phục cao nguyên Đồng Văn, từng khúc núi được phá đá, anh em đã gọt đá tạo những tấm bia tạc tên đơn vị thi công, tạc tên quê quán anh em “phu đường”, đồng thời ghi rõ ngày khởi công ngày khánh thành cung đường khảm giữa đá. Đã có hàng trăm trang sử đá như thế.

Cũng có nhiều người đang buồn da diết vì cái nỗi đường rải nhựa ngày mới này, công nghệ làm đường thời mới của thế kỷ 21 đã nhẫn tâm xoá hết những dấu tích của con đường xưa, kể cả những tấm bia đá tạc. Một thái độ không phải tí nào với xương máu và mồ hôi của cha anh.
Có người lại uất ức vì thế hệ cán bộ tỉnh bây giờ thậm chí không cho các cựu Thanh niên xung phong nghèo một chuyến ôtô thăm lại chiến trường xưa. Hàng trăm người ở nhiều tỉnh, đề đạt mãi, xin xỏ mãi vẫn chưa một lần có kinh phí để được họp mặt anh em, để được trở lại Quản Bạ - Yên Minh - Đồng Văn – Mèo Vạc mà họ đã oai dũng cống hiến một thời; để sống lại một lần nữa cái thời hào hùng “chân đi nát đá dạ còn ngẩn ngơ” ấy - trước khi về với ông bà tổ tiên.


Vừa rồi, tóc đã điểm sương, mấy chục Thanh niên xung phong làm đường Hạnh Phúc của tỉnh Lạng Sơn có được tỉnh ưu ái cho kinh phí tổ chức một chuyến về nguồn ngược Đồng Văn, Mèo Vạc. Ông Đảm gặp đồng đội tại thị xã Hà Giang (chứ từ ngày nghỉ hưu, gần 20 năm qua, ông Đảm cũng chưa bao giờ có điều kiện lên đến Đồng Văn), ai nấy bật khóc. Tất cả đều đã lên ông lên bà. Và, quan trọng hơn là dâu bể của cuộc sống mới đã làm cho những “di tích” chứa đựng nhiệt huyết, mồ hôi và cả máu xương của nhiều nghìn lượt người trẻ xông pha trên cung đường Hạnh Phúc Đồng Văn - Mèo Vạc đã bị xoá sổ.

Điều vô cùng khó hiểu là tại sao người ta lại vô tình đến thế được? Làm đường thì cứ làm, sao lại hất bỏ sạch sành sanh bia đá, kè đá, vách đá từng hằn in vân tay hàng chục hàng trăm người trẻ tuổi kia xuống khe sâu? Có nhất thiết phải phá bỏ những cung đường chưa bao giờ hư hỏng như thế để “giải ngân” cho con đường mới không? Có tiền, nâng cấp được đường xá, là bằng chứng của một cuộc sống đi lên – nhưng có nhất thiết phải tận diệt hàng chục những tấm bia đá chứa trong mình cả trang sử hào hùng của nghìn nghìn người trẻ đi tiên phong đánh thức cao nguyên Đồng Văn kia không?

Cái quan trọng hơn là thái độ của ai đó với công quả mà cha anh mình đã đổ máu để dựng nên. Vấn đề không phải là cái bia đá khắc tên đơn vị thi công, hay vài khúc cua ghi dấu kỷ niệm về những người đã ngã xuống cho cuộc trường chinh vào trong lòng đá.

Với tư cách là Phó Ban Liên lạc Thanh niên xung phong xây dựng đường Hạnh Phúc, ông Đảm và ông Sùng Đại Dùng (đương kim Phó Chủ tịch mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Giang, kiêm trưởng Ban liên lạc TNXP xây dựng đường Hạnh Phúc) đã nhiều lần xin cơ chế, xin kinh phí để tổ chức lễ kỷ niệm ngày khởi công đại công trình đánh thức vùng mênh mông Đồng Văn – Mèo Vạc (sau nửa thế kỷ im hơi lặng tiếng); song mọi đề xuất vẫn không được đáp ứng. Điều này lý giải cho thái độ buồn bã rất... tiêu cực của ông Đảm khi kể với chúng tôi về những ngày “hồ dễ mấy ai quên” trong 6 năm trường kỳ phá đá kia.

Chẳng cứ gì những người cống hiến phần đời tươi đẹp nhất của mình cho công trường khổng lồ, kỳ vĩ ấy, bản thân chúng tôi, khi đi tìm tư liệu cho loạt bài này, cũng rất là ngậm ngùi. Bởi hầu như không tìm thấy những trang sách, bài báo nào đề cập đến hơn 2 triệu ngày công đổ xương máu làm nên kỳ tích đường Hạnh Phúc. Cả những thước phim, nghe nói ngày xưa có chụp, có quay và có chiếu, giờ hầu như bị quên lãng. Bản thân những người được coi là chủ đạo trong Ban liên lạc Thanh niên xung phong mở đường Hạnh Phúc, hầu hết cũng chưa từng được xem.

Hầu hết hàng nghìn Thanh niên xung phong và công nhân nghĩa vụ mở đường Hạnh Phúc đều chưa từng được xem lại một bức ảnh, một thước phim hay hoài niệm cùng vài bài báo vài cuốn sách viết về sự hiến dâng vì cộng đồng của thế hệ chống chọi và chiến thằng điệp trùng đá tai mèo ấy. Họ không buồn và tiếc nuối sao được, nhất là khi những dấu tích cuối cùng của cuộc chiến với biển đá rợn ngợp kia đang biến mất dần dà.

Ông Đảm vẫn nghèo, vẫn buồn và vẫn ao ước có kinh phí để anh em họp mặt trước khi tuổi già khiến cho chẳng ai trong số họ còn đủ sức (và còn sống) đi tìm gặp nhau nữa. Ông ao ước có một chuyến xe, đi và nhớ lại cung đường vượt cổng trời, vượt Mã Pí Lèng “tôi sẽ nhớ từng điểm cua, từng vách đá một, chú ạ”

Ông ngồi lục tìm danh sách những người đã ngã xuống cho con đường khủng khiếp chờm nghịch trên đá kia được khai sinh. Có lẽ ông Đảm là người duy nhất có được bản danh sách này. Ông thẳng thắn: tôi ghi từ ngày làm đường, có ai ngã xuống, tôi lại ghi, chứ chả dám chắc bây giờ xương cốt anh em đang nằm giữa rừng hay là đã được gia đình chuyển cả về quê rồi. Tôi mấy chục năm qua mới có một lần vượt núi vào đến Yên Minh, chưa dám mơ thêm một lần vào Đồng Văn, Mèo Vạc. Ông ghi danh những người ngã xuống, cũng như ông và đồng đội dựng bia đá ghi đủ thứ thông số, kiêu hùng cắm trên mỗi cung đường khi thông xe...


Mỗi lúc, anh chị em đem chiến công oai hùng của mình ra kể với con cháu, các cháu lại hoài nghi thảng thốt: có thật không ông (bà). Khúc tráng ca kỳ diệu bậc nhất của lịch sử phá đá mở đường, “tiến vào rừng sâu làm giàu cho tổ quốc”, “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”… đã ít nhiều bị bỏ quên?

Câu chuyện này có cái gì đó thật bi hài, ỏn sót. Có cái gì đó khiến thế hệ sinh ra sau giải phóng miền Nam chúng tôi cảm thấy có lỗi với giọt mồ hôi, giọt máu của thế hệ cha anh đã đổ xuống cho đường Hạnh Phúc từ gần nửa thế kỷ trước...

Phía sau mấy cái cổng trời vòi vọi của cao nguyên cao nhất Việt Nam Đồng Văn là một thế giới nguyên sơ, đầy tiềm năng. Quan trọng hơn, vào thời điểm thông xe đường Hạnh Phúc cách đây gần nửa thế kỷ, phía sau những dãy núi ủ mây ấy có tới 8 vạn đồng bào lam lũ và mến thương của chúng ta đang nao lòng vẫy gọi. Con đường khảm trên đá sau hơn hai triệu ngày công của hàng nghìn thanh niên tình nguyện kia đã thực sự đem đến Hạnh Phúc cho cả mênh mông núi đá của bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang hiện nay.

Giá trị nhân văn của đường Hạnh Phúc là không thể đong đếm. Con không chê cha mẹ khó/ chó không chê chủ nghèo. Sự hy sinh, sự dâng hiến cho lý tưởng của lực lượng Thanh niên Xung phong 8 tỉnh độ ấy cũng là không thể đong đếm. Chúng ta càng không thể nói rằng, con đường ấy to hay bé, dài hay ngắn, bây giờ đem sử dụng còn giá trị hay đã lỗi thời so với công nghệ làm đường với sự tinh nhuệ của máy móc hôm nay... để định giá sự hy sinh kể trên. Ngoài những người vĩnh viễn nằm lại với cả một nghĩa trang công trường ở Yên Minh, con đường Hạnh Phúc chính là Cuộc Đời, Số Phận của hàng nghìn người hùng trở về từ miền đá. Nó là một trang sử bằng đá. Là một sự tụng ca sức người, sự xả thân vì cuộc sống cộng đồng.

(còn tiếp)

happypack
10-10-2010, 18:16
Cuộc trường chinh vào trong lòng đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của Đỗ Doãn Hoàng
(lược trích)

(tiếp theo và hết)

Trò chuyện với ông Phạm Đình Dy, vị “Tổng chỉ huy” công trường Đường Hạnh Phúc

- Chúng cháu đã đi con đường Hạnh Phúc nhiều lần, đã chụp ảnh lại tất cả các cái huy hiệu thanh niên làm đường Đồng Văn (còn gọi là Đường Thanh niên Việt Bắc), cả những huy hiệu có vẽ hình Cổng trời Quản Bạ. Mong muốn của cháu là thế hệ nay và các thế hệ sau nên hiểu ngọn ngành về con đường bất hủ này. Chứ không nên, cứ mỗi một lần lên đấy, thấy những cung đường ngút ngàn trong mây và đá xám, thấy nó kỳ vĩ quá, bọn trẻ và du khách lại hỏi: ngày xưa làm đường này như thế nào mà giỏi thế. Rồi chẳng biết hỏi ai, chẳng ai biết mà giả nhời. Vả lại, những gì xúc cảm được, hiểu được từ đại công trường này có ý nghĩa giáo dục về thiên nhiên, lịch sử, đạo đức cống hiến rất tuyệt vời.
Thưa bác Dy, bác có nghĩ rằng: con đường Hạnh Phúc từ Hà Giang lên Đồng Văn, rồi vượt Mã Pí Lèng sang Mèo Vạc là con đường mà việc “đẻ” ra nó vất vả nhất nước ta không?

- Nhất định là nhất Việt Nam rồi. Tôi cũng từng đi tham gia mở đường Bắc Sơn – Đình Cả rồi, biết bao nhiêu đèo dốc nổi tiếng ở Việt Nam, chúng tôi cũng đã có mặt và thi công nhưng, nỗi vất vả, sự kỳ vĩ của công trình, những nơi kia không thấm gì so với đường Hà Giang – Mèo Vạc. Tuyến này đi qua biển đá, cao nguyên cao nhất Việt Nam, đến mức, lúc mở đường chúng ta đều phải nắn tuyến, phải đo đạc làm đường ở những nơi từ thuở trời đất sinh ra chưa có đường, chứ không dễ gì “lợi dụng” cơ sở vật chất của lối mòn của người bản xứ.

Tuy nhiên, sự khắc nghiệt đến đáng sợ ấy cũng đã nhiều người lè lưỡi kể rồi. Tôi muốn nói về vẻ đẹp ngay trong sự khắc nghiệt chết người đó. Qua Mã Pí Lèng đi đường 9 khoanh uốn lượn qua 9 cái dốc. Đường Hạnh Phúc phải nắn sang tuyến như hiện nay để làm cho nó đỡ vất vả. Và con dốc cũ vẫn còn nguyên, rất là huyền thoại, thỉnh thoảng chỉ có vài người bản xứ đi nương đặt chân vào đó thôi. Đường của bà con nó hẹp đến mức con ngựa đi trước thì đá ngựa đi sau. Bụng con ngựa đi cứ chịn vào hai mép đá hai bên hẻm núi. Nó hẹp đến mức như thế cơ mà. Tôi rất tiếc, tôi đã mấy lần nói với cán bộ và bà con huyện Mèo Vạc, rằng các cậu nhớ giữ cái dốc 9 khoanh này để mà làm kỉ niệm nhé. Thế mà anh em nó nghe mình được mấy năm, năm ngoái năm kia tôi lên thì… chẳng còn hình dung đâu là dốc 9 khoanh nữa rồi. Có thể bà con người ta làm nương người ta cũng cuốc đường cũ người ta làm. Nhưng rõ ràng, tôi đã bảo làm ngô thì cứ làm còn cái dốc thì cố gắng giữ để kỷ niệm với tuyến đường đã gắn bó với bà con qua nhiều thế hệ này. Con dốc 9 khoanh nhìn vô cùng gợi cảm. Nếu mà còn, dân nhiếp ảnh các cậu có mà mê tơi (cười).

- Bác có nghĩ rằng, như các bác mà cháu phỏng vấn trước đây đều cho rằng sự tôn vinh con đường này cũng như chế độ đãi ngộ những người vất vả trực tiếp làm con đường này có rất nhiều bất cập? Ngày trước, khi chưa có cơ chế thì không nói, nay, việc tôn vinh là cần thiết và là một món nợ của chúng ta với lịch sử?

- Chả có cái gì, đừng có nói chế độ gì, chả có cái gì (bù đắp cho những cống hiến và hy sinh của cả nghìn thanh niên xung phong cùng hàng nghìn dân công) hết. Làm xong đường, hết 6 hoặc 8 năm trời “đồn trú” trên đá (với người làm đường vào Mèo Vạc) là về thôi. Như vậy đấy. Chứ không phải như bây giờ, hơi một tý là đòi huân chương huân chiếc. Ngày xưa, chúng tôi chả có cái huân chương nào hết. Cũng không có một cái gì, cứ đơn giản như vậy từ anh cấp trên xuống đến anh cấp dưới. Đường xong, khánh thành vui vẻ là xong thôi, lại xông pha đi làm việc khác.

- Cháu vừa mới đi một vòng cung Yên Minh – Mèo Vạc - Đồng Văn về, đi cả đường Hạnh Phúc, đường Mèo Vạc và đường Quyết Thắng lịch sử…

- Năm kia (2005), tôi có lên lại Hà Giang, tôi có yêu cầu Tỉnh ủy là cho tôi đi xem lại con đường này. Tôi thấy anh em có mở rộng con đường, có rải nhựa được - cái đó cũng là hoan nghênh - thế còn, nói chung, tuyến đường ngày xưa như thế nào thì nó vẫn y nguyên như thế không thay đổi. Về sau anh em nó có điều kiện hơn, nó có tiền hơn nó có mở rộng thêm.
Nghĩ lại, ngày xưa, vĩ đại nhất là người dân, cậu có biết ngày xưa người dân (hàng nghìn người) tham gia làm đường thì được cái gì không? Mỗi 1 ngày công quy vào cho 1 cân gạo, 1 ngày công cho có 1 cân gạo trong đó thì có 8 lạng gạo và 2 lạng tính vào thức ăn, rau riếc. Không có hơn một tí gì nữa. Mới lại thế này: không có lán trại vì nhà nước có tiền đâu mà làm. Dân giăng bạt giăng ni-lông, người ta tự làm rồi tự chui vào đó tá túc. Bây giờ nói không phải là kể khổ đâu nhưng phải nói là hoàn cảnh đất nước lúc đó cũng không thể khác hơn được, cậu bảo làm cái đường này ông Khu (tự trị Việt Bắc) ông ấy chỉ thêm cho được tý nào thì thêm, còn bản thân “anh” Hà Giang phải móc túi móc tiếc hò nhau mà làm chứ có tài trợ kinh phí gì đâu.

- Cháu tưởng kinh phí là khu rót xuống, bấy giờ còn bao cấp mà bác.

- Bấy giờ, có lẽ dồn tiền vào đi mua mìn là chính. Suốt 6 năm trời phá đá như thế, mà không có máy móc hỗ trợ gì. Khoan lót choòng hoàn toàn bằng tay. Đấy, cái vĩ đại của người dân là ở đấy. Tôi sang Hà Giang bây giờ, nói thật, tôi chỉ nhớ dân là chính, chứ chả nhớ “ông” nào hết. Dân vĩ đại là thế mà đến bây giờ mình ngồi xem lại những thước phim thấy dân vẫn khổ như vậy, mình đền đáp với dân như vậy có cái gì đó như là không thỏa đáng...

- Cháu có nghe cái khổ nhất hồi ấy không phải là cái đói mà là nước, nước thì cực kỳ thiếu, cái thứ hai là rau xanh…

- Cậu có biết Thanh niên xung phong mùa khô này rất khổ, một ngày nam giới có một ca nước sinh hoạt; còn nữ giới một ca rưỡi, một ngày giời, có ngần này, “chúng mày” muốn làm thế nào thì làm.

- Nước ở trong kho có một người chuyên phân phối?

- Ừ đúng rồi. Mà đi làm thế này đơn vị nào đóng gần sông suối ấy thì thằng ấy phúc nhất đấy - chứ còn thằng nào đi ngược phía trên kia thì khổ. Thế mà 6 năm trời!6 năm trời đấy. Phải nói là Thanh niên xung phong của 6 tỉnh cực kỳ anh hùng.

- Bác có ấn tượng gì đặc biệt về sự kham khổ ghê gớm của anh em thanh niên xung phong làm đường Hạnh Phúc hồi đó?

- Kham khổ thì như vậy, nhưng sức lao động người dân bỏ ra mình thấy cực kỳ vĩ đại. Mà bù lại cái thiệt thòi vì sự cam go đó cho người ta thì rất khó. Tôi, nhiều lúc, ngồi nghĩ, giờ những kẻ tham ô tham nhũng mà báo chí đã phanh phui, tôi nghĩ phải bắn hết chúng nó ngay lập tức. Nghĩ đến người xưa người ta hy sinh như thế, người ta không đòi hỏi gì; lại nghĩ cái sự thoái hoá trong tham nhũng thì thật đau lòng!

- Bác có thấy, cho đến bây giờ chưa có một quyển sách, thước phim hay những tư liệu tham khảo nào nói về đại công trình đường Hạnh Phúc; thậm chí, cháu đọc Lịch sử đảng bộ tỉnh Hà Giang cũng thấy họ không hề nhắc đến….

- Nhắc thì có nhắc nhưng có mỗi cái câu tuyến đường như thế thôi, chứ không có kể lể tuyến đường ra làm sao, đầu cua tai nheo thì không có.

- Bác có nghĩ như thế là không đúng?
- Anh em thì có nhiều người nó nói với tôi là anh nên viết cái này. Nhưng tôi chưa/không viết được.

- Thay mặt độc giả VTO, xin chân thành cảm ơn cuộc trò chuyện khó có thể thẳng thắn hơn, khó có thể sinh động và chi tiết hơn của bác!
- Bây giờ, tôi nghỉ rồi chứ (nếu vẫn làm Bí thư Tỉnh uỷ Hà Giang, - PV) tôi sẽ bảo lực lượng Thanh niên xung phong cố gắng mà tổ chức lại kỷ niệm, chứ tôi chả thấy anh nào nói tới Thanh niên xung phong của tuyến đường Hà Giang vĩ đại kia cả./.

happypack
15-10-2010, 15:27
Vết sẹo trên cao nguyên đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của của Đỗ Lãng Quân
(khởi đăng trên Tuổi Trẻ Online từ 14.10.2010)

Của hiếm trên toàn cõi Đông Nam Á
Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn trải rộng trên bốn huyện phía bắc tỉnh Hà Giang, gồm: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc; rộng hơn 2.347km2 với số dân khoảng 250.000 người, thuộc 17 dân tộc anh em sinh sống.
Các nhà khoa học đã chỉ ra ở đây nhiều giá trị độc nhất vô nhị, làm sửng sốt giới nghiên cứu thế giới, như: có nơi độ dày các vỉa đá vôi có thể lên tới 4.000m (!), một của hiếm trên toàn Đông Nam Á, các hóa thạch cho thấy từ nửa tỉ năm trước, sinh vật đã xuất hiện ở cao nguyên đá với hơn 1.000 loài; thế giới có năm thời điểm các loài sinh vật bị hủy diệt thì hóa thạch cổ ở Đồng Văn đã chứa tới hai thời điểm, đây là cơ sở thú vị, hi hữu để nghiên cứu sự hình thành vỏ trái đất...
Tất cả những điều đó, thường thì người du ngoạn, thăm ngắm cao nguyên đá ít trông thấy, ít xúc cảm được. Dù vậy, chỉ tính riêng những vẻ đẹp địa chất, địa mạo độc đáo “hễ đi là gặp” của cao nguyên đá, đã đủ để bất kỳ ai cũng phải sững sờ.

TT - Ngày 3-10-2010 tại Hi Lạp, Tổ chức Mạng lưới công viên địa chất toàn cầu (GGN) đã trao quyết định công nhận cao nguyên đá Đồng Văn là thành viên. Đây là công viên địa chất toàn cầu đầu tiên ở VN.

Đúng là nhiều người yêu di sản địa chất, địa mạo tuyệt vời của cao nguyên đá đã phải nín thở chờ phán quyết mang tính vinh danh kể trên, sau ít nhất một lần bàn nghị sự của tổ chức được UNESCO bảo trợ “chưa” công nhận hồ sơ đề nghị miền đá Đồng Văn là công viên địa chất toàn cầu.
Nhận “báo hỉ”, ngay lập tức phía tỉnh Hà Giang đã tưng bừng mở hội, dự kiến một festival mang tên “Cao nguyên đá Đồng Văn” với sự tham dự của nhiều tỉnh thành trong nước, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế liên quan sẽ được tổ chức trong tháng 11-2010 tại “tân công viên địa chất” này.
Các kế hoạch đua thuyền trên sông Nho Quế, leo dây thám hiểm hang động, cưỡi ngựa vào các bản làng, lội bộ thăm Vú Cô Tiên... đồng loạt được lên dây cót. Phương án thoát nghèo cho bốn huyện phía bắc núi đá tỉnh Hà Giang nhờ đón khách trong và ngoài nước càng được đặc biệt chú trọng...
Người ta hi vọng nhiều cũng bởi từ lâu lắm, bất chấp các phán quyết mang tính giấy tờ hành chính của địa phương hay quốc tế, với nhiều du khách trong và ngoài nước, cao nguyên đá vẫn kỳ vĩ nằm đó, vẫn đẹp đến thảng thốt nơi cuối trời biên ải kia. Nó như một thứ men say nồng dễ gây nghiện cho nhiều người. Không thời sự, không ăn theo, từ bao triệu năm qua miền đá tưởng như bất tận và rợn ngợp này vẫn đẹp như vậy.

Những tượng đài địa chất
Nơi mà các nhà địa chất gọi là điểm ngoạn mục nhất, hội tụ nhiều sửng sốt nhất, xứng đáng là đệ nhất hùng quan của cao nguyên đá chính là đỉnh của cao nguyên, chóp mũi của đèo Mã Pí Lèng cao gần 2.000m so với mực nước biển, nơi phân chia hai vùng tiểu khí hậu, phân chia ranh giới hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc. Từ đỉnh đèo nhìn xuống, sông Nho Quế bé như một sợi chỉ. Núi quá lớn, hẻm vực quá sâu, dòng sông dữ dằn bậc nhất nước Nam chỉ như cái bấc đèn hiền lành.

Cũng đứng ở đỉnh Mã Pí Lèng, nơi các nhà khoa học Pháp từ một thế kỷ trước đã ngả mũ tôn vinh là “tượng đài địa chất” của loài người, ta còn được chứng kiến những hẻm vực Nho Quế kỳ lạ. Vách đá vôi Tu Sản được giới khoa học đánh giá là một trong những vách đá vôi cao nhất thế giới (gần 800m).
Cao nguyên đá Đồng Văn cũng là nơi vinh dự được sở hữu những con dốc, đèo uốn lượn ngoằn ngoèo nhất nước nhà. Chỉ nhìn đã sững sờ, chóng mặt, những cái tên như dốc chữ Em Mờ Ngược (W), “dốc Bắc Sum, hùm Làng Đán” đã đi vào nỗi kinh sợ của khách bộ hành suốt nhiều năm; nhưng nay là những kỳ quan được liệt vào thắng cảnh cần phải đến của công viên địa chất toàn cầu.
Trong hồ sơ công viên, trong tài liệu khoa học còn có nhiều địa danh quyến rũ như: hoang mạc đá Sảng Tủng, rừng hoa đá Khâu Vai, bãi hải cẩu đá Vần Chải, đá hình tháp kim Pả Vi, rừng măng đá, kim tự tháp đá Sà Phìn... Có lẽ đi tìm và lắp ghép các hồ sơ đó vào thực địa cũng hơi mệt, vì cao nguyên đá đi một nhát bổ dọc (chỉ đi trên trục đường chính) đã mất 200km đèo dốc rợn người rồi.
Song, những gì chợt gặp trên đường cũng đủ khiến người ta mềm lòng, ám ảnh, thán phục sự hữu tình của trời đất, của quá trình hình thành vỏ trái đất với bao nhiêu bí ẩn và thách thức. Ngây ngất để rồi thấy đau lòng...

“Đá núi tật nguyền vết sẹo thời gian”
Tiếng đàn môi bên bờ rào đá là tác phẩm rất được yêu thích của nữ văn sĩ Đỗ Bích Thúy, người đã gắn chặt ngòi bút và sự nghiệp của mình với địa đầu Hà Giang (sau chuyển thể thành kịch bản phim nhựa nổi tiếng Chuyện của Pao) đã được sáng tác, rồi dựng phim ngay tại cao nguyên đá Đồng Văn. Bờ rào đá - không chỉ riêng ở cao nguyên đá Đồng Văn mà tại nhiều miền đá khác của nước ta, “sống trên đá chết vùi trong đá”, bà con ta đều có tập quán sử dụng đá, đập đá, nghiền đá làm đủ thứ công trình, phần việc...

Từ xửa từ xưa đã vậy. Nên đá và các công trình kỳ vĩ từ đá, những bờ rào, ngôi nhà, bản làng và tường thành đá xếp mênh mông kia đã trở thành điểm đến, thành một phần giá trị độc đáo của công viên địa chất toàn cầu.

Sức người nhỏ bé giữa miền đá rộng đến mức chỉ đi ngang qua mỗi bề đã đến cả trăm cây số đường chim bay, biết bao giờ mới “mòn” được núi! Trong kế hoạch du lịch công viên địa chất nay mai, người ta hoàn toàn có thể trình diễn nghệ thuật đập đá thủ công, xếp đá làm nhà, làm bờ tường thẳng tắp hay cong veo phục vụ du khách, đó vẫn là điều UNESCO không hề cấm đoán.

Tuy nhiên có một sự thật khác là chưa bao giờ hệ thống máy móc hiện đại được huy động để phá đá, nghiền đá nhiều như bây giờ. Người ta phá đá công nghiệp để giải phóng mặt bằng xây dựng nhiều lỵ sở, thị tứ, thị trấn, khu dân cư; người ta xây dựng tới ba cái thủy điện trên dòng sông Nho Quế ghềnh thác nhất VN đang vắt mình xuyên qua di sản địa chất cao nguyên đá kia, nước dâng lên sẽ chôn lấp nhiều phần rừng, núi non, hang động đẹp bậc nhất của cao nguyên cao nhất VN này.

Đấy là chưa kể hàng vạn, hàng triệu tấn bột đá sẽ được nghiền phục vụ xây dựng, nhiều dãy núi, bờ sông, bản làng sẽ bị biến mất để lấy mặt bằng, mở đường, làm hồ chứa, nâng bước cho các tổ máy, cỗ máy lớn chưa từng thấy vào với các bản làng, dòng sông biên giới.

Điều đáng sợ là để thuận lợi cho việc gọt đẽo các dãy đá kỳ quan, các ngọn núi thắng cảnh thành công trình, bột đá, người ta bao giờ cũng nghiên cứu “chọc tiết” các thế giới đá ở gần đường giao thông nhất, thuận tiện cho việc vận chuyển nhất. Và, đó cũng chính là “điểm ngoạn mục” (thăm ngắm) của du khách khi đến với công viên địa chất toàn cầu.

TSKH Vũ Cao Minh (nguyên phó viện trưởng Viện Địa chất), người từng bỏ nhiều năm nghiên cứu cao nguyên đá Đồng Văn, có lần đã lên tiếng kêu cứu: “Các giá trị mà tự nhiên đã phải mất hàng chục triệu năm, thậm chí hàng trăm triệu năm mới để lại dấu ấn cho cao nguyên Đồng Văn đang có nguy cơ mất đi vĩnh viễn. Bảo vệ và bảo tồn các giá trị quý báu kể trên là nhiệm vụ khẩn thiết hiện nay. Trên dọc tuyến đường ôtô từ Quản Bạ đi Yên Minh, Phó Bảng, Xà Phìn, Đồng Văn, Mèo Vạc, Khau Vai và Mèo Vạc, Lũng Phìn, Yên Minh... đâu đâu cũng thấy các chỏm đá vôi có hình dáng kỳ dị bị người dân đập phá làm vật liệu xây dựng, làm hàng rào”.

Trở lại Hà Giang trong mấy năm gần đây, chúng tôi luôn có cảm giác đi trong những dãy núi đá tật nguyền.

(còn tiếp)

happypack
15-10-2010, 15:30
Vết sẹo trên cao nguyên đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của của Đỗ Lãng Quân
(khởi đăng trên Tuổi Trẻ Online từ 14.10.2010)

(tiếp theo)

Đổi trăm triệu năm lấy một nhát... búa
TT - Thật ra từ trước khi cao nguyên đá được UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu, trong quá trình hội thảo, lập hồ sơ, nghiên cứu, thăm thú, vài năm qua tỉnh Hà Giang đã có những kế hoạch tuyên truyền, vận động bà con đừng phá đá với tốc độ “tằm ăn rỗi” nữa.

Sự quyết liệt trên... giấy

Kế hoạch nâng cao nhận thức bảo vệ di sản địa chất cho cộng đồng 230.000 người sống ở khu vực cao nguyên Đồng Văn hiện đang được cơ quan chức năng triển khai làm ba giai đoạn, từ năm 2010-2015.

Các “phát ngôn” được đưa ra rất quyết liệt trên... giấy tờ, tuy nhiên khi chúng tôi đi dọc mấy trăm cây số cảnh quan mỹ miều đang bị đẽo gọt không thương tiếc của bốn huyện vùng cao núi đá phía bắc tỉnh Hà Giang, lúc được hỏi hầu hết bà con đều cho biết chưa nghe thấy “tuyên truyền bảo vệ” bao giờ.

Việc bảo vệ di sản địa chất này là cấp thiết, nhưng các hoang mạc đá tuyệt đẹp ở Cán Chu Phìn, Lũng Pù hay dọc đường từ thị xã lên Mèo Vạc vẫn bị phá trước mắt du khách.

Ngay bản thân ông Ma Ngọc Giang, giám đốc Ban quản lý công viên địa chất cao nguyên đá Đồng Văn, cũng nói thẳng với nhà báo về quan điểm của “đơn vị chủ nhà” xung quanh việc khai thác đá tràn lan, rằng: “Nếu (tổ chức cá nhân) xin khai thác (đá) thì vẫn được (cấp phép) nhưng phải theo quy hoạch, trước mắt là xa đường giao thông, các điểm khai thác phải cách đường giao thông 2km để tránh làm ảnh hưởng đến mỹ quan của công viên khi khách du lịch nhìn vào”.

Đây là một quan điểm rất mập mờ và thiếu khoa học, bởi xa đường 2km thì không có nghĩa một trái núi trắng hếu, như cái dằm nhức buốt trong mắt người chiêm ngưỡng công viên địa chất, sẽ bị... che khuất. Vả lại, 2km xa tỉnh lộ, nhưng ở vị trí đó núi đá là một kỳ quan kiểu như núi Cô Tiên nức tiếng cả thế giới thì cũng được phá sao?

Quan điểm của các nhà khoa học là phải cấm triệt để hoặc phải có ban bệ xét duyệt cấp phép khai thác đá thật nghiêm khắc, ai ký thì người đó chịu trách nhiệm cụ thể, may ra mới bảo vệ được di sản địa chất triệu năm tuổi.

“Ăn thịt” di sản
Cuối tháng 9-2010 (một tháng trước khi UNESCO chính thức vinh danh cao nguyên đá là công viên địa chất toàn cầu) chúng tôi có một chuyến khảo sát. Ngay sát đường Hạnh Phúc (con đường lớn nhất, duy nhất xuyên suốt cao nguyên Đồng Văn), chúng tôi vẫn gặp cảnh phá đá ầm ầm.

Thậm chí ngay gần UBND xã Cán Chu Phìn (Mèo Vạc), nơi được báo cáo là đã họp dân và thống nhất quan điểm bảo vệ di sản địa chất toàn cầu, người ta vẫn ồ ạt đẽo đá. Trận địa đá bị phá tan hoang, trắng lốp.

Nơi đây đã được các nhà địa chất địa mạo cực kỳ chú ý với các rừng đá, hoang mạc đá, đàn thú đá hình thù kỳ dị. Đá được phá bằng máy, vận chuyển bằng ôtô, bị nghiền đóng thành gạch xếp chất ngất ven đường, ngay trong khuôn viên trường tiểu học xã, không thể nói là không ai nhìn thấy.
Ngay dưới chân cột cờ Lũng Cú, chúng tôi còn chứng kiến cảnh ngang nhiên phá đá, nghiền đá, vận chuyển bằng ôtô nhả khói đen kịt. Gần thị trấn Đồng Văn, cách tỉnh lộ 4D khoảng 100m, chúng tôi gặp các công trường phá đá mênh mông, máy nghiền đá mắc điện 3 pha, bà con bảo “phá đá thế này nhiều năm rồi, bỏ nghề thì lấy gì mà sống”.

Đoàn khảo sát choáng váng khi thấy các rừng thú đá, hoang mạc đá, rừng hoa đá xám đen mà tất cả đều được... viền trắng hoặc phần chóp mũi mỗi hình thù đều có màu trắng như đeo khăn tang. Lại gần thì ôi thôi, các “kỳ hoa dị thảo”, “muôn loài hội tụ” bằng đá năm ngoái mình vừa chụp ảnh, năm nay đã bị đẽo sạch.

Có lẽ nhiều bức ảnh lưu trong hồ sơ đề nghị công nhận “công viên địa chất toàn cầu” cho cao nguyên đá, bây giờ mà so lại thì cảnh vật bị biến dạng khá nhiều.

Bà con rất “hồn nhiên”, đá khối hàng triệu tấn từ thuở tạo sơn thì khó đẽo, đá ở xa đường thì khó khiêng về, thế là họ cứ tìm các chỏm chóp nhô lên, xinh xẻo, vừa một vác vai, lại thò ra rất tiện tay... để ghè đẽo. Thế là họ “chặt”.

“Bãi hải cẩu đá” và “rừng hoa đá” là nơi người đẽo đá thích nhất, vừa tay nhất, mỗi cái mõm, cái chân hải cẩu, mỗi cánh hoa đá là đủ để hai người khiêng ra, mang về làm vật liệu. Thế là tất cả đều bị loang lổ, vỡ đổ, sứt mẻ, đá xám ngoét khắp vùng biên cương bây giờ đều trắng lốp.

Đường đi Khâu Vai, Lũng Pù, Cán Chu Phìn, sang Đồng Văn, về Sà Phìn, ngược Lũng Cú, chỗ nào cũng tan hoang.

Có một bài học buồn bã thế này: không ai lên công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn mà không mê mải với cổng trời Quản Bạ. “Đứng trên cổng trời Quản Bạ/ Tưởng mình cưỡi gió ngắm trần gian”.

Từ Quản Bạ, phóng tầm mắt sẽ gặp núi Cô Tiên - Cặp Vú Cô Tiên. Tức là hai trái núi tròn, nhẵn, mơn mởn, đều nhau, so le, “mọc” ở vị trí rất hữu tình, không ai nhìn mà không liên tưởng tới “cặp tuyết lê” của tiên nữ, nhân thế ngàn đời qua bà con, du khách, các nhà khoa học mới đặt thành tên. Cổng trời Quản Bạ/ núi Cô Tiên là hai điểm nhấn “chiến lược” của du lịch công viên địa chất Đồng Văn.

Tuy nhiên, mới đây người ta đã làm đường, đã khoét, bạt, bới, đào ở một mỏm núi bên cạnh “cặp tuyết lê”. Núi trắng hếu, nham nhở, khiến ai đứng trên cổng trời Quản Bạ ngắm Vú Cô Tiên cũng nhăn mặt nhưng sai lầm kia vẫn không tài nào sửa được. Nếu không khéo quản lý, những bài học kiểu này sẽ còn nhiều nhiều nữa.

Nhát búa tạ phá trăm triệu năm
Tất nhiên, so với di sản thiên nhiên thế giới, các quy định quản lý công viên địa chất toàn cầu có chút ít “nới lỏng” hơn, cho phép khai thác có điều tiết, đồng thời quản lý sử dụng bền vững các sản phẩm địa phương phục vụ dân sinh và du lịch, nghiên cứu.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa để người ta tự do chặt đẽo đá, phá nghiền đá bừa bãi ở mức độ “ăn thịt” di sản như những gì đã và đang diễn ra.

Không phải chờ đến ngày các trái núi biến mất do phá đá bằng máy móc và thuốc nổ, chưa cần đến khi các thủy điện ồ ạt dâng nước vĩnh viễn nhấn chìm các vách núi, hang động, bản làng rộng lớn và kiều diễm của miền biên viễn đá xám kia; chỉ cần vài nhát búa tạ, vài người phu cầm búa ghè đẽo các bông hoa đá, các vườn thú và hoang mạc đá... chỉ chừng đó cũng đủ làm biến mất, biến dạng nhiều giá trị muôn một của trăm triệu năm kiến tạo vỏ trái đất, món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng cao nguyên đá.

Một cuộc ra tay hiệu quả, một cuộc thanh kiểm tra các dự án, công trình làm biến dạng, thay đổi cảnh quan, địa mạo cao nguyên đá (cả trong “công viên” và phụ cận liên quan), một sự rà soát các tác động môi trường do ba dự án thủy điện gây ra... là đòi hỏi cấp thiết lúc này.

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 11:43
Vết sẹo trên cao nguyên đá (Hà Giang, Việt Nam)
Ký sự dài kỳ của của Đỗ Lãng Quân
(khởi đăng trên Tuổi Trẻ Online từ 14.10.2010)

(tiếp theo và hết)

Vinh danh cho đá, làm gì cho dân?

TT - Khi phản ánh thực trạng phá đá ở Đồng Văn có nguy cơ làm biến dạng công viên địa chất toàn cầu, những người trong cuộc có trách nhiệm đã lên tiếng, cho thấy đằng sau danh hiệu “toàn cầu” kia, việc tổ chức đời sống cho người dân ở cao nguyên đá Đồng Văn vẫn còn nhiều khó khăn.

* Ông Phạm Quang Tân (chủ tịch UBND huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang):

* Theo ông, làm sao để chấm dứt tình trạng khai thác đá gây ảnh hưởng đến mỹ quan, giá trị di sản của công viên địa chất cao nguyên đá Đồng Văn?

- Địa phương đã tiến hành quy hoạch vùng khai thác đá, làm sao để công việc này không ảnh hưởng đến các giá trị của công viên địa chất toàn cầu. Phải tránh các vùng đã được khoanh vùng quy hoạch làm công viên, tránh các khu vực có hóa thạch cổ, cổ sinh địa tầng, các khu vực địa mạo đẹp... Chúng tôi cũng đã được quán triệt điều này và đã họp dân phổ biến.

Tuy nhiên, nếu bây giờ mà cấm toàn bộ việc khai thác đá cũng không nên. Bởi vật liệu xây dựng ở khu vực này không lấy đâu ra cả (ngoài bột đá). Chở gạch đá từ dưới xuôi lên thì không được, đường xa xôi, đèo dốc khiến giá bị đội lên rất nhiều. Thực tế thì bà con vẫn làm (khai thác đá).

* Nhiều người đặt vấn đề một trong những cách để tránh khai thác đá tràn lan, không quản lý được, gây mất mỹ quan công viên địa chất toàn cầu là tìm vật liệu thay thế đá và bột đá cho bà con bốn huyện vùng cao?

- Trên này (cao nguyên đá) không có đất để nung gạch (toàn đá); hai nữa, nhiều nơi có chút đất màu thì để sản xuất (bà con phải đổ từng vốc đất vào hốc đá để tra hạt ngô) và cũng không đảm bảo chất lượng (không phù hợp) cho việc nhào nặn rồi nung thành gạch. Chỉ còn cách là quy hoạch các vùng và cho phép bà con khai thác đá với sự cấp phép, xét duyệt mang tính khoa học của Sở Tài nguyên - môi trường và cơ quan hữu trách.

* Theo cá nhân ông thì việc ghè đẽo đá trên diện rộng như vậy có làm xấu cảnh quan không?

- Những chỗ gần đường giao thông, đá bị ghè đẽo, phá núi, “tai mèo” của đá tai mèo bị đập đi, chặt mất thì xấu cảnh quan là rõ rồi. Các thủy điện đang được thi công cũng vậy, họ mở đường, phá đá, nghiền đá, tác động đến cảnh quan là không tránh khỏi.

* Nước sông Nho Quế sẽ dâng cao lên bao nhiêu mét so với mặt sông lúc chưa làm thủy điện, sau khi các hồ chứa được hình thành, các tổ máy của ba công trình thủy điện trên 10km sông kia cùng phát điện? Nhiều cảnh quan, địa mạo, di sản bị chìm ngập dưới lòng hồ, điều đó có ảnh hưởng tới giá trị của công viên địa chất toàn cầu không?

- Sông Nho Quế có độ dốc sông rất lớn. Chỉ mấy cây số từ đỉnh Mã Pí Lèng vào xã Khâu Vai mà có ba thủy điện, hai cái đang thi công rầm rộ. Họ mở đường lấy luôn đá đó nghiền ra mà làm thủy điện.

* Ông Ma Ngọc Giang (giám đốc Ban quản lý công viên địa chất cao nguyên đá Đồng Văn):

Không thể nằm trên đá mà không khai thác đá

Đối với người dân, việc khai thác đá đã có từ nghìn đời. Trước đây không ai cấm người dân đập phá đá cả, giống như trước đây người ta vẫn tặng bằng khen cho những người phát nương, phá rừng vậy. Phá đá là việc của họ, họ muốn canh tác, xây nhà, làm tường rào bắt buộc phải phá đá... Họ không biết là đã vi phạm đến cái gì cả.

Bây giờ dưới con mắt của các nhà khoa học, khách du lịch thì cao nguyên đá là di sản (công viên địa chất toàn cầu) mà chúng ta phải giữ, nhưng nói về góc độ di sản địa chất thì có rất nhiều yếu tố khác nhau, sự phá hoại do khai thác đá - chủ yếu đập đi cảnh quan là chính, còn sự hình thành kiến tạo của vỏ trái đất ở toàn bộ khu vực có những di sản rất lớn. Ví dụ: khe lún của Mã Pí Lèng sâu tới mấy trăm mét, bằng đôi tay dân có phá nghìn đời cũng không hết.

Không thể không cho người dân khai thác đá, nhưng thay vì để họ phá đá, ta phải tìm cho họ cách khác để phát triển kinh tế, xây dựng nhà cửa, mở rộng ruộng nương. Còn đối với những công trường xây dựng thì khai thác đá là điều tất yếu, không thể nằm trên đá mà không khai thác đá để xây dựng, không thể nào làm đường mà không phá đá. Trước đây tiện chỗ nào người ta khai thác chỗ đó. Nay ta phải quy hoạch những điểm khai thác lớn, vùng bảo vệ nghiêm ngặt, vùng đệm, vùng cho phép khai thác đá... làm sao để các công việc dân sinh kia không ảnh hưởng đến cảnh quan, không vi phạm các quy định (bảo vệ công viên địa chất toàn cầu).

* PGS.TS Trịnh Dánh (nguyên giám đốc Bảo tàng Địa chất Việt Nam, người lập đề án các công viên địa chất, khu bảo tồn địa chất ở nước ta):

Di sản có giá trị thì nhất quyết bảo vệ

Muốn có công viên địa chất, đầu tiên phải có di sản địa chất. Ta cần xác định trong công viên địa chất kia di sản nào là quan trọng nhất, là cái cốt lõi của nó, nó tiêu biểu cho công viên địa chất đó.

Ở công viên địa chất Đồng Văn, nó là vùng công viên đá vôi, trong đó có di sản địa tầng cổ sinh, hóa thạch cổ, địa hình địa mạo - thế thì cái nào phải giữ tuyệt đối những chỗ trọng điểm. Một số nơi còn lại có thể cho người ta mở mang để phát triển kinh tế, nhưng trên nguyên tắc phải không xâm hại đến phần lõi kia. Việc xâm hại cảnh quan đôi khi đã đủ để giết chết cả di sản địa chất.

Ví dụ như khu vực Đồng Giao (Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình), như đã biết, chúng tôi đã đề nghị công nhận là khu bảo tồn địa chất cấp quốc gia. Thế rồi địa phương ấy cho mở đường, phá đá, làm nhà máy ximăng, phá vỡ hết cảnh quan; thế còn các giá trị quý báu về địa mạo thì nó nằm tít ở bên trong lòng núi, trong khu vực khó tiếp cận, ai vào đó mà xem được! Dự án coi như bị xóa sổ.

Hay như các lớp rừng hóa thạch vô giá ở Na Dương (Lạng Sơn), giờ biến nó thành công trường tan hoang như thế thì có xây dựng công viên kiểu gì ở đó, đầu tư bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ai thèm đến xem đâu. Tóm lại, vấn đề đặt ra là phải xếp loại các di sản địa chất cho kỹ, những di sản có giá trị thì nhất quyết phải bảo vệ.

ĐỖ LẴNG QUÂN thực hiện

happypack
18-10-2010, 12:02
NGƯỢC DÒNG SÔNG MEKONG THỜI HOANG DÃ 1866 - 1873 (Sông Mekong, Châu Á)
Ngô Thế Vinh

ABSTRACT: Only some one hundred years ago, the Western world did not know the source of the mighty Mekong river and the nature of its course. River Road to China, the Mekong River Expedition 1866-1873 by Milton Osborne is a book based on the explorers‘s own writings. It is not only a story but also a history. It traces the adventure of Doudart de Lagre’, Francis Garnier and their friends.These six Frenchmen headed a heroic expedition in an attempt to solve the Mekong mystery and to search for a navigable route from Saigon to China. They left Saigon in 1866, moved slowly forward, never knowing what lay ahead. Obstacles like falls, floods, forest fever, dysentery and death took their toll.

When the expedition ended in 1868, two long years after it had begun, the search for a trade route to China still unachieved. Francis Garnier was the dominant and fascinating figure of the French Expedition Team.For Garnier, the advance of France into the countries of the Far East for Mission Civilisatrice - was a cause to dream about, to sacrifice for and finally to die for.On June 29, 1868 by way of Shanghai Garnier returns to Saigon with Lagre’‘s coffin and with the disappointment of an incomplete mission.On October 11, 1873 Garnier left Saigon for Tonkin (North Vietnam).On November 20, Garnier captured the Hanoi Citadel. A century after the French Expedition, the Mekong river has not changed dramatically. However, the waning of war in Indochina brings about hope for regional cooperation and prosperity.This has consequently given rise to project of series of dams and reservoirs.The turbulent Mekong once again becomes a river with promises to keep.

Từ Tây Tạng tới Việt Nam, dọc theo suốt chiều dài của con sông Mekong (đứng hàng thứ 3 (7?) của Châu Á và hàng thứ 12 của cả thế giới) đang có những dự án xây dựng và phát triển các đập thủy điện đem lại hy vọng thịnh vượng cho các quốc gia trong vùng nhưng đồng thời cũng gây mối e ngại về những tác hại không thể lường trước được trên môi sinh.

• DÒNG SÔNG ĐỊNH MỆNH

Câu chuyện sông Mekong đã và đang ngày một gắn bó với tương lai vận mệnh của Việt Nam. Sắp qua rồi thời kỳ hoang dã của con sông dài hơn 4200 cây số chảy qua lãnh thổ của bảy nước (kể cả Tây Tạng) nhưng ngót một nửa chiều dài chảy ngang trên lãnh thổ Trung Quốc. Đã 6 năm (*bài viết 4/97) kể từ ngày Thomas O’Neill ký giả tờ National Geophaphics hoàn tất chuyến du hành xuôi dòng sông Mekong bắt đầu từ thượng nguồn cao nguyên Tây Tạng xuống hạ lưu sông Cửu Long ra tới cửa Biển Đông; và cũng đã hơn 130 năm kể từ ngày một nhóm nhỏ người Pháp khởi hành từ Sài Gòn ngược dòng sông ấy để đi tìm một thủy lộ mở đường giao thông với Trung Hoa. Cùng với Milton Osborne, tác giả “River Road to China_ The Mekong River Expedition 1866-1873” chúng ta thử tìm lại khoảng thời gian đã mất trong chuyến đi hào hùng nhưng không kém phần bi thảm của đoàn thám hiểm Pháp vào hậu bán thế kỷ thứ 19 trong bối cảnh từng bước thực dân Pháp tiến tới thuộc địa hóa toàn cõi Đông Dương. Tưởng cũng nên lưu ý bạn đọc tên tuổi viên sĩ quan hải quân Francis Garnier không chỉ là phó trưởng đoàn thám hiểm sông Mekong, cũng chính Garnier là người chỉ huy cuộc đánh chiêm Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 1873, áp đặt nền đô hộ của Pháp trên cả ba kỳ của Việt Nam.

• VỚI NHỮNG TÊN KHÁC NHAU

Do con sông chảy qua những vùng dân cư nói bằng nhiều ngôn ngữ, có ít nhất 5 ngôn ngữ chính: Hoa, Miến, Thái (gồm cả Lào), Cam Bốt và Việt Nam; đó là chưa kể những thổ ngữ của các sắc dân thiểu số sống rải rác trong vùng. Các học giả cũng đã từng tranh luận về ý nghĩa những tên khác nhau của con sông. Ban đầu vì không biết được thượng nguồn, người ta gọi tên bằng lãnh thổ nó đi qua, như người Pháp đã dùng tên le Cambodge để gọi khúc sông chảy qua nước này. Riêng người Trung Hoa khi thì gọi là Lan Thương Giang, người Lào có tên Mea Nam Khong hay sông mẹ, người Cam Bốt có tên riêng Tonle Thom có nghĩa là con sông lớn, hay người Việt Nam có tên Cửu Long để chỉ con sông của họ. Nhưng rồi do ảnh hưởng của Anh Pháp và Thái Lan, tên sông Mekong được giới chức ngoại giao chấp nhận trên bản đồ, có lẽ bắt nguồn từ một tên gốc Thái, theo cách phiên âm của người Bồ đào nha, với tên gọi Mecon, Mecom hay Mekong_ có ý nghĩa thơ mộng là “ø mẹ của các con suối.”

Từ nay và trong suốt bài này Mekong sẽ là tên gọi của con sông từ thượng nguồn xuống tới cửa Biển Đông.

• MỐI QUAN TÂM TỪ SÀI GÒN

Năm 1860, Pháp đã thiết lập được nền hành chánh bảo hộ ở Sài Gòn. Nhưng theo báo Courrier de Saigon lúc ấy thì cuộc sống những người Pháp ở đây đã chẳng sáng sủa gì: họ luôn luôn bị đe dọa bởi các bệnh miền nhiệt đới, nhiều người chết rất trẻ ở cái tuổi mới ngoài ba mươi vì những loại bệnh sốt, sốt rét và kiết lỵ. Một số người sống sót thì có thái độ chịu đựng; nhưng một số khác thì tỏ vẻ bất mãn về giá trị thương mại của thuộc địa Nam Kỳ lúc đó nên muốn tìm tới một triển vọng làm ăn khá hơn cho chính họ và cho cả nước Pháp và họ bắt đầu quan tâm tới khả năng khai thác con sông Mekong.

Cũng thời gian đó đã có những cuộc thảo luận về điều mà họ gọi là “ý tưởng lớn ”. Người khởi xướng và hướng dẫn các cuộc thảo luận đó không ai khác hơn là Francis Garnier lúc đó mới 24 tuổi đang giữ chức vụ đô trưởng Chợ Lớn. Là một sĩ quan hải quân trẻ tuổi vóc người thon nhỏ nhưng lại đầy tham vọng nên được các bạn đồng sự gán cho biệt danh “cô gái Nã Phá Luân_ Mademoiselle Bonaparte.” Garnier không chỉ đam mê với viễn tượng các cuộc phiêu lưu tới “những vùng chưa biết không thể cưỡng lại được ấy”, nhưng anh ta còn có niềm tin rằng “một quốc gia như nước Pháp, mà không có thuộc địa là một quốc gia chết.” Tới năm 1865, ước muốn khám phá sông Mekong hầu như được chấp nhận rộng rãi từ giới chức thuộc địa Nam Kỳ lẫn phía bên Pháp. Và kết quả những cuộc họp ấy đã đưa tới sự hình thành một đoàn thám hiểm. Họ gồm sáu người, tuổi trẻ rạng rỡ và có học thức, sống giữa thế kỷ 19_ thế kỷ của chịu đựng và khắc kỷ. Họ có chung tham vọng về mở mang thêm thuộc địa, tranh giành ảnh hưởng với người Anh và cả tin về chức năng khai hóa_ mission civilisatrice, của nước Pháp đối với các dân tộc Á Phi mà họ cho là còn bán khai.

Điều ngạc nhiên Garnier không phải là trưởng đoàn mà là một người khác: Doudart de Lagrée, 42 tuổi, một con người trầm tĩnh, tốt nghiệp trường Bách Khoa, cũng là sĩ quan hải quân, lúc đó đang là đại diện của Pháp ở triều đình Nam Vang từ hai năm. Francis Garnier, cá tính đối nghịch với Lagrée, đam mê sôi nổi, tin tưởng mạnh mẽ ở tiềm năng sông Mekong như một thủy lộ dẫn tới sự trù phú của miền nam nước Trung Hoa, phó đoàn. Louis Delaporte, sĩ quan hải quân, 24 tuổi nhạc sĩ tài tử và là một họa sĩ ký họa mới tới Nam Kỳ một năm, với nhiệm vụ ghi lại hình ảnh sinh hoạt của đoàn thám hiểm. Clovis Thorel và Lucien Joubert không chỉ là hai bác sĩ trong đoàn, Thorel là nhà nghiên cứu thực vật còn Joubert giữ vai trò chuyên viên địa chất. Louis de Carné, người trẻ tuổi nhất được nhập đoàn với tư cách đại diện bộ ngoại giao Pháp do gốc gác là cháu của La Grandière đang là thống đốc Nam Kỳ lúc đó. Dĩ nhiên phải kể tới con số 16 người được tuyển mộ làm thông ngôn và phu phen tháp tùng theo đoàn trong đó có 7 người Việt Nam. Ngoài vàng bạc thỏi, đô la và tiền Thái dùng làm lộ phí cho đoàn, họ còn mang theo 150 kiện đồ dùng và thực phẩm, dĩ nhiên có cả rượu gồm 700 lít rượu vang cộng thêm với 300 lít rượu mạnh khác. Họ khởi hành từ Sài Gòn trong bước đầu của một cuộc hành trình hoàn toàn êm thấm và đầy ắp lạc quan tới thủ đô Nam Vang, bắt đầu một sứ mạng lớn lao mà Đô đốc hải quân Pháp Paul Reveillère cho là: “Có tầm vóc xứng đáng với đam mê của thế kỷ.”

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 12:31
NGƯỢC DÒNG SÔNG MEKONG THỜI HOANG DÃ 1866 - 1873 (Sông Mekong, Châu Á)
Ngô Thế Vinh

(tiếp theo)

• SAMBOR THÁC GHỀNH ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT MIÊN

Năm 1866: ngày 05 tháng 06, đoàn rời Sài Gòn trên một chiến hạm có võ trang, khởi đầu đi Kompong Luong ngay phía bắc Nam Vang, họ cũng đến thăm khu đền đài Angkor trước khi tới Nam Vang . Ngày 07 tháng 07, đoàn từ Nam Vang đi Kratié theo hướng đông băéc. Trước mắt không xa là thị trấn Sambor với một vùng ghềnh thác đầu tiên rõ ràng không thể vượt qua bằng tàu. Họ phải cần tới 2 ngày ròng để chuyển đồ từ tàu lên bờ rồi chất xuống những chiếc thuyền độc mộc, phương tiện duy nhất để đưa đoàn thám hiểm ngược dòng về hướng bắc. Chỉ là những thuyền nhỏ không có động cơ, sức đẩy chỉ là do người chèo chống nhưng rồi họ cũng tới gần được chân thác Sambor. Đó là một con thác mênh mông chảy siết vào mùa nước lũ nhưng vào mùa khô thì chồi lên những cồn bãi giữa vô số những con thác nhỏ. Bây giờ là giữa tháng 7 đang mùa lũ, con sông trải rộng tới hàng dặm, nước dâng cao hơn thêm năm mét so với mức thấp bình thường, ngập hết cồn bãi, chỉ còn thấy nhô lên từ mặt nước là những chòm cây vật vã trong gió. Sức nước thì chảy siết, thuyền chỉ chậm chạp nhích tới được bằng sức kéo của đoàn người đi dọc theo bờ sông phía đông.

Chưa ý thức được những khó khăn khác đang chờ họ ở phía trước; tại thác Sambor, Garnier vẫn lạc quan tin tưởng rằng khúc thác có thể vượt qua với tàu có mã lực lớn. Nhưng chỉ cần sang tới ngày hôm sau, họ đã tới khúc thử thách nhất của con thác. Họ chẳng còn thấy giới hạn đâu là bờ bãi, đâu là dòng chính, chỉ thấy những đoạn nông sâu thật bất chợt. Không có cả bãi nghỉ, đoàn phải ở lại trên thuyền qua đêm không ngủ trong sấm sét và mưa bão. Qua bao nguy hiểm, cuối cùng họ cùng vượt qua được 50 cây số của thác ghềnh để tới được Stung Treng. Tại đây trong khi Lagrée trưởng đoàn muốn thám hiểm phụ lưu Se Kong, thì Garnier lại chọn cuộc phiêu lưu khá kỳ cục là xuôi trở lại theo con thác bên phía hữu ngạn với hy vọng tìm cho được thủy lộ an toàn đi từ thị trấn Sambor tới Stung Treng. Một ý muốn mà những người Miên tháp tùng giàu kinh nghiệm cho là điên khùng nên đã không tuân lệnh cho dù được hứa hẹn trả công gấp đôi. Cuối cùng Garnier phải rút súng hăm dọa nên họ phải miễn cưỡng đi theo. Sau đây là mấy dòng nhật ký của Garnier ...trên dòng nước chảy siết và đã quá trễ để quay trở lại. Con nước lao tới như mũi tên bắn, giận dữ cuồng nộ sủi bọt khi gặp sức cản của những ngọn cây hay mô đá. Chỉ một sơ xuất con thuyền chúng tôi có thể vỡ tan ra thành từng mảnh vụn. Và bấy giờ thì Garnier ý thức được rằng chẳng có tàu bè nào có thể vượt qua được con thác Sambor ấy.

Khi Garnier trở lại được Stung Treng thì cuộc hành trình đã kéo dài gần hai tháng, và bao nhiêu hy vọng ban đầu gần như là tiêu tán. Nhưng họ vẫn tiếp tục cuộc khảo sát và tiến tới. Trong không khí chẳng mấy lạc quan ấy, thì Garnier và Joubert bắt đầu ngã bệnh. Không phải kiết lỵ mà là bệnh “sôt rừng_ forest fever”, trong khi Joubert may mắn hồi phục trong mươi ngày thì Garnier bị hôn mê kéo dài suốt ba tuần lễ. Cho dù Garnier trong tình trạng tính mạng bị đe dọa, Lagrée trưởng đoàn quyêt định tiếp tục cuộc hành trình mang theo người phó đoàn trên thuyền dù còn đang bất tỉnh. Bốn ngày sau đoàn tới gần chân thác Khone và cũng là ngày Garnier bắt đầu tỉnh lại nhưng sức khỏe thì suy kiệt với tóc rụng da bong và chân trái hầu như bị liệt. Garnier chỉ thực sự hồi phục sáu tháng sau bằng tất cả sức mạnh của ý chí và lòng ham sống. Bản tường trình của đoàn thật vắn tắt không chút xúc cảm gửi về cho thống đốc Nam Kỳ La Grandière với dòng chữ cuối như sau “Tình hình sức khỏe đoàn nói chung là tốt so với điều kiện mà chúng tôi hiện sinh sống.”

• THÁC KHONE, LẠI MỘT THỬ THÁCH TRÊN ĐẤT LÀO

Họ đã nghe nói tới thác Khone, họ đã từng tưởng tượng đó như một Niagara thứ hai, nghĩa là một thác nước duy nhất đổ trút xuống từ trên cao. Nhưng rồi đó chẳng phải một Niagara, mà lại là một chuỗi những ghềnh và thác trải dài gần 14 cây số đan móc vào với nhau từ bờ bên này tới bờ kia. Cảnh tượng thật ngoạn mục với vang ầm tiếng nước đổ sủi bọt tung tóe trên các ghềnh đá xa gần khác nhau. Qua chuyến thám sát sơ khởi, Lagrée nhận định rằng không thể nào di chuyển theo dòng chính, các con thác cao nhất thì ở bờ phía tây, chỉ còn bờ phía đông là khả dĩ đoàn có thể dùng thuyền nhỏ di chuyển. Sức mạnh của con nước có thể thấy rõ từ chân thác với xác chết của cá và cả cá sấu từ trên cao bị cuốn đập vào những khe đá. Họ còn phải đương đầu với cả những hiểm nguy chết người khác: như cọp dữ và các loại ác thú, riêng Delaporte cũng đã suýt chết vì nạn cát lún, đó là chưa kể nỗi kinh tởm hầu như hàng ngày của muỗi và đỉa vắt. Như dự tính, đoàn men theo bờ đông tiến một cách chậm chạp ngược dòng nước chảy siết; và phải mất hơn một ngày trời để vượt một đoạn đường chỉ có vài dặm để tới được đảo Khong ở phía trên con thác. Tại đây đoàn được tiếp đón nồng hậu, lần đầu tiên lại được ăn thịt bò tươi sau hơn hai tháng rời Nam Vang. Họ tiếp tục đi thêm 5 ngày theo đường sông để tới được Bassac. Đó là một thị trấn khá lớn ở phía tây ngạn của con sông.

Từ đây Garnier dẫn một đoàn nhỏ đi khảo sát phụ lưu Se Don chảy vào sông Mekong phía bắc Bassac. Họ cũng cố tìm mỏ bạc ở đây theo lời đồn nhưng không có. Khảo sát sinh hoạt dân cư ở Bassac, người Pháp đã ghi nhận nếp sống nhàn nhã mà họ cho là “lười biếng” của người Lào tại đây. Tưởng cũng nên ghi nhận là đoàn thám hiểm luôn luôn phải tách ra thành các toán nhỏ do nhu cầu khảo sát thực tế và vẽ bản đồ từng vùng. Lagrée phụ trách thám sát cao nguyên Bolovens ở phía đông sông Mekong, rồi Attopeu. Nay đến lượt đến lượt Lagrée bị ngã bệnh nặng. Lại vẫn bệnh sốt rừng đáng kinh sợ của xứ Lào khiến Lagrée rũ liệt cả tay chân. Sau hơn 4 tháng kể từ ngày rời Sài Gòn, ngày 25 tháng 12, đoàn rời Bassac đi Ubon thuộc vùng đông bắc Thái Lan.

Cho tới giai đoạn này, ngoài sự quyết tâm, lòng can đảm và sức chịu đựng của đoàn thám hiểm, hình như họ vẫn chưa chịu chấp nhận một sự thật rõ ràng là con sông Mekong không thể là một thủy lộ để trao đổi thương mại giữa Nam Việt Nam và Trung Hoa.

Năm 1867: ngày 10 tháng 01, Garnier tách đoàn đi Angkor, trở lại Nam Vang trong nỗ lực kiếm giấy thông hành cho đoàn để có thể vào Trung Quốc. Ngày 20 tháng 01, đoàn rời Ubon đi Uthen. Ngày 10 tháng 03, sau 2 tháng rời đoàn, Garnier đã vượt qua chặng đường hơn 1500 cây số phần lớn bằng đường bộ trong những điều kiện ngặt nghèo. Garnier trở lại nhập đoàn tại Uthen để cùng đi Vạn Tượng. Sau hơn 9 tháng Delaporte đã ghi chú được mấy trăm bức ký họa tuyệt đẹp bằng bút chì và màu nước, để sau này chuyển vào bản khắc gỗ như những trang ký sự bằng hình sống động nhất về thành quả hoạt động của Đoàn Thám Hiểm Sông Mekong vào giữa thế kỷ 19. Ngày 02 tháng 04, đoàn tới Vạn Tượng, chứng kiến dấu vêát tàn phá của người Thái trong quá khứ trên thủ đô tráng lệ này; nhưng riêng ngôi chùa Phật Wat Phakeo của hoàng gia vẫn còn đó, duy ngọc xá lợi đã bị lấy mất, có lẽ bị đưa về Thái Lan. Đoàn thám hiểm Pháp cũng đã tự ý lấy đi những bộ sách cổ quý giá trong thư viện chùa Si Sakhet với lý do biện minh “vì lợi ích khoa học.” Cuối cùng họ tới thăm That Luong, ngôi đền nổi tiếng nhất của Vạn Tượng được dựng lên từ thế kỷ 16_ là niềm hãnh diện và cũng là biểu tượng của nước Lào; (ngay cả với người cộng sản Pathet Lào sau này cũng đã in hình That Luong trên đồng bạc mới của họ bên cạnh hoạt cảnh các chiến sĩ chống máy bay Mỹ trên Cánh Đồng Chum.)

Ngày 04 tháng 04, đoàn rời Vạn Tượng trở lại với đường sông từ Pak Lay đi Luang Prabang. Nhưng hơn 150 cây số dọc theo con sông là đồi núi trắc trở không có ngả vào, con sông thu hẹp lại với những thác ghềnh chạy giữa những khe núi đá và nếu vào mùa lũ thì vô phương di chuyển. Bây giờ đang còn là tháng 4 mùa khô, di chuyển cũng đã thật là chậm chạp và khó khăn, chỉ trông vào sức người kéo. Ròng rã suốt 3 ngày họ chỉ mới nhích tới chưa được 20 cây số với giày dép thì rách bươm do bờ sông đầy sỏi đá. Tiếp đến là khúc bờ sông cỏ mọc trên bùn lầy với nhung nhúc bầy đỉa đói nhưng rồi cuối cùng đoàn cũng tới được Chiang Khan, danh giới phía nam của Luang Prabang. Đoàn thám hiểm Pháp cũng đang tiến gần tới vùng ảnh hưởng của người Anh từ phía Miến Điện, với nơm nớp nỗi lo ngại sẽ bị người Anh phỗng tay trên tất cả công lao như những người đầu tiên khảo sát vùng thượng nguồn sông Mekong và vùng ảnh hưởng chính trị của họ. Lagrée trưởng đoàn phải trấn an các bạn đồng sự là
chính họ sẽ làm hơn đối thủ người Anh bằng cách hoàn tất cuộc khảo sát con sông Mekong lên tới ngọn nguồn bên cao nguyên Tây Tạng.

Thời gian sau này đã chứng tỏ lời tuyên bố của Lagrée chỉ là lời hứa xuông. Sang đến ngày 23 tháng 04, đoàn lại phải đối đầu với một khúc ghềnh thác nữa. Một lần nữa họ lại phải rỡ đồ xuống khỏi thuyền để có thể tiếp tục cuộc hành trình cho dù vô cùng chậm chạp. Nhưng rồi cuối cùng họ cũng tới được Luang Prabang, một thị trấn đang phát triển về thương mại, được bảo hộ bởi cả Thái Lan và Việt Nam nhưng lại khá xa 2 kinh đô Bangkok và Huế. Sau 4 tuần lễ lưu lại thị trấn này mà thời gian như những ngày hội_ en fête, sinh lực của đoàn như được hồi phục nhưng đồng thời con đường trước mặt là đầy những bất trắc.

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 12:40
NGƯỢC DÒNG SÔNG MEKONG THỜI HOANG DÃ 1866 - 1873 (Sông Mekong, Châu Á)
Ngô Thế Vinh

(tiếp theo)

• CỬA VÀO TRUNG QUỐC

Từ ngày rời Sài Gòn, đoàn hầu như bị cô lập với mọi nguồn tin tức. Những hướng dẫn mà họ nhận được từ đô đốc La Grandière đã cũ từ một năm trước ngày khởi hành. Nghĩa là cũng rất mù mờ, khiến Lagrée với tư cách trưởng đoàn chọn thái độ “phản ứng theo hoàn cảnh”. Trước mặt tình cảnh hiện giờ ra sao họ không được biết. Họ chỉ nghe nói có phong trào người Hồi giáo nổi loạn dai dẳng ở tỉnh Vân Nam từ năm 1855; nay nếu đoàn tiến vào vùng tranh chấp ấy với giấy thông hành từ triều đình Bắc Kinh cấp thì quả là điều thiếu khôn ngoan. Đã thế sức khỏe của Lagrée ở cái tuổi 43, đã bị suy giảm trầm trọng qua cuộc hành trình đầy gian khổ, lại thêm bị các căn bệnh nhiệt đới hành hạ, khiến đưa tới câu hỏi là liệu Lagrée còn đủ sức lãnh đạo đoàn thám hiểm hay không, bên cạnh một Garnier đầy tham vọng và cá tính cũng rất khác. Khởi đầu Lagrée muốn chọn một lộ trình khác nhưng rồi cũng phải theo ý kiến Garnier là vẫn tiếp tục cuộc hành trình dọc theo con sông Mekong. Và đoàn đã để ra 2 tuần lễ chuẩn bị ngày lên đường với số hành trang thật tối thiểu. Các mẫu đất đá và tài liệu sưu tập bây lâu vẫn mang theo đoàn thì nay được đóng thùng gửi về trước qua ngả Bangkok. Nhìn lại chuyến đi đã kéo dài gần một năm với bước tiến triển chậm hơn xa mức dự trù và số tiền vàng dự trữ đem theo cũng sắp cạn.

Ngày 25 tháng 05, đoàn rời Luang Prabang đi Chiang Kong, Mong Lin, Mong Yawing, Keng Khang, Keng Hung. Sau hơn 5 tháng gian khổ tưởng như đến kiệt sức, ngày 18 tháng 10 đoàn thám hiểm qua được biên giới Trung Hoa vào Tư Mao_ Ssu-mao.

Sau 15 tháng rời Sài Gòn, có lẽ họ là nhóm người Âu đầu tiên thành công vào “đất hứa Trung Hoa” qua ngả biên giới này. Cả đoàn cảm thấy nhẹ nhõm cho dù tình hình tại địa phương cũng không sáng sủa gì: vụ người Hồi giáo nổi loạn vẫn còn, lại thêm bệnh dịch tả đang hoành hành khắp tỉnh Vân Nam. Từ đây, Lagrée quyết định tiếp tục đi Nguyên Giang_ Yuan-Chiang trên đường tới Côn Minh, thủ phủ củaVân Nam. Bất hòa với trưởng đoàn, Garnier thì lúc nào cũng nung nấu với ý muốn tìm cho ra cội nguồn con sông Mekong đồng thời làm sao tìm cho được một thủy lộ để tới Vân Nam. Ngày 16 tháng 11, đoàn tới Nguyên Giang, một thị trấn nằm bên bờ của một con sông khác. Sau hơn một giờ vượt lên một con dốc cao, cả đoàn bất ngờ đứng trước một khung cảnh hùng vĩ: trong khí hậu rất giống miền nhiệt đới, cả một dòng sông lấp lánh dưới nắng chảy cuộn từ tây bắc về hướng đông nam mà họ biết rằng đó là con Sông Hồng chảy vào miền Bắc Việt Nam.

Tại Nguyên Giang đoàn được tặng quà và tiếp đón nồng hậu. Sau đó là chặng đường tới Côn Minh. Ngày 26 tháng 11, đoàn xuống thuyền xuôi dòng tới Pa-Y. Từ đây đoàn phải chuyển sang đường bộ đi Kiến Thủy_ Chien-Shui. Từ Kiến Thủy còn phải mất 3 tuần lễ nữa để tới được Côn Minh. Riêng Garnier được sự đồng ý của Lagrée, thì vẫn tiếp tục suôi dòng mở cuộc thám sát Sông Hồng. Chưa bao lâu họ đã phải đi vào một vùng vách đá cao, rồi tiếp theo là những ghềnh thác mà theo Garnier thì vào mùa lũ vô phương có thể đi qua được bằng thuyền. Như vậy niềm hy vọng tràn trề ban đầu là không có cơ sở. Nhưng bây giờ không phải mùa lũ nên Garnier quyết định tiếp tục xuôi dòng Sông Hồng trong khi đám phu tháp tùng hoàn toàn không muốn. Lý do rất dễ hiểu là ngay sau đó, họ tới gần khúc sông chảy thật siết trước khi đổ vào một thác ghềnh vây quanh bởi những vách đá cao ngất. Garnier hiểu rằng bây giờ chẳng có tiền bạc hay đe dọa nào có thể bắt đám phu tùy tùng phải đi tới.

Cuộc khảo sát suôi dòng Sông Hồng tới đây kể như chấm dứt. Nhưng cũng chỉ rất sớm sau này Garnier được biết răng nếu xuống xa hơn nữa đến Lào Cay thì từ đây khúc sông Hồng sẽ là đường thủy thuận tiện để giao thông đi lại. Garnier sau đó quay trở lại Kiến Thủy và vẫn không ngừng bàn tán về tiềm năng của con Sông Hồng. Bắt nguồn từ kiêu căng và lòng yêu nước quá khích, khi đề cập tới vấn đề này, Garnier chỉ nghĩ tới quyền lợi đem về cho nước Pháp và cho rằng “đó thuần túy là vấn đề của riêng nước Pháp.” Đến lúc này thì Lagrée không thể không đồng ý với người phó trưởng đoàn nên trước khi chết, trong bản tường trình cuối cùng gửi về Sài Gòn, Lagrée lại nhắc tới Sông Hồng trong triển vọng thương mại từ Bắc Kỳ vào Trung Hoa. Có lẽ chính cả Lagrée và Garnier đều không biết rằng cùng lúc đó con buôn Jean Dupuis_ có tên Việt Nam là Đồ Phổ Nghĩa cũng đang thám sát khả năng lưu thông của Sông Hồng đi từ Bắc Việt lên Vân Nam. Vậy ai là người đầu tiên có “ý tưởng lớn” đó? Sau này thì chính Jean Dupuis lên tiếng nhận đó là phần công lao của mình.

Ngày 23 tháng 12, đoàn tới Côn Minh, đó là thị trấn lớn nhất mà họ đặt chân đến từ ngày đoàn rời Sài Gòn. Tại đây cũng là lần đầu tiên họ được gặp lại đồng hương là linh mục Potteau và phái đoàn truyền giáo Pháp. Vẫn theo Garnier thì “chinh phục thuộc địa hay truyền đạo Kitô đều chỉ là những ngả đường khác nhau dẫn tới sự vinh quang cho nước Pháp”. Năm 1868: ngày 08 tháng 01, đoàn rời Côn Minh và cũng biết rằng họ chỉ cách con sông Dương Tử vĩ đại khoảng hai tuần lễ đường bộ. Nếu xuôi theo con sông này đoàn sẽ nhanh chóng đặt chân tới Thượng Hải ở bờ biển phía đông Trung Hoa. Chọn lựa hấp dẫn đó có nghĩa là đi ngược lại mục tiêu ban đầu: thám hiểm miền viễn tây chưa biết của Châu Á. Sức khỏe của Lagrée lúc này hoàn toàn suy xụp đến mức không thể ngồi võng mà phải cáng đi theo đoàn; di chuyển chậm chạp trên khung cảnh cao nguyên trơ trọi đầy gió lạnh. Mãi tới tuần lễ thứ ba, với chặng cuối đi bằng đường sông, đoàn tới Hội Trạch_ Hui tse. Tại đây bằng những cố gắng phi thường, Lagrée vẫn gắng gượng ngồi dậy để tiếp xúc với giới chức địa phương với tư cách trưởng đoàn. Cùng một lúc bị viêm họng, sốt rét và nhất là bệnh kiết lỵ gây biến chứng ápxe gan, gần như kiệt sức, Lagrée phải làm việc với đoàn ngay tại giường bệnh. Lagrée nghe theo ý kiến Garnier để đoàn đi Đại Lý Ta-li tiếp tục cuộc khảo sát lên thượng nguồn sông Mekong. Và có lẽ đây là tài liệu cuối cùng mang chữ ký Lagreé với tư cách trưởng đoàn.

Ngày 30 tháng 01, đành lòng phải bỏ rơi Lagrée tại Hội Trạch cùng với bác sĩ Joubert; Garnier dẫn đoàn lên đường đi Đại Lý. Riêng Lagrée cho dù với một cơ thể đang chết dần ấy vẫn không nguôi khắc khoải về sự thất bại tìm một thủy lộ trên sông Mekong “không lẽ thời gian và nỗi chịu đựng của chúng tôi là hoàn toàn lãng phí chẳng đem lại lợi lộc gì cho nước Pháp.” Để bù đắp lại, Lagrée không ngừng nhắc tới con Sông Hồng như con đường dẫn vào Trung Hoa. Chứng kiến giữa cái sống và cái chết trước mắt của người trưởng đoàn, Joubert không còn chọn lựa nào khác hơn là đem Lagrée lên bàn mổ trong những điều kiện làm việc thô sơ nhất về dụng cụ và vô trùng. Vùng gan ápxe được rạch ra với nửa lít mủ và máu trộn lẫn, với kết quả tức thời Lagrée bớt hẳn các cơn đau và mấy hôm sau đã gượng dậy đi lại được. Nhưng thực ra trong lá gan Lagrée còn một ápxe thứ hai mà Joubert không biết và không đụng dao tới. Vì vậy mà sang tháng 3, bệnh tình Lagrée mau chóng suy xụp trở lại và kết thúc bằng cái chết không thể tránh. Khi giảo nghiệm tử thi, Joubert mới tìm ra ổ ápxe thứ hai bị bỏ sót. Xác Lagrée được mai táng tạm gần một ngôi chùa ngoài vòng thị trấn Hội Trạch.

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 12:42
NGƯỢC DÒNG SÔNG MEKONG THỜI HOANG DÃ 1866 - 1873 (Sông Mekong, Châu Á)
Ngô Thế Vinh

(tiếp theo và hết)

Mãi tới ngày 2 tháng 4, Garnier mới nhận được tin Lagrée chết. Khi tới Đại Lý, tuy được gặp chức sắc Hồi giáo nhưng họ không tin đoàn đích thực là người Pháp mà là người Anh. Với Garnier thì đó là một sự xúc phạm cùng cực. Tin xấu tiếp theo là đoàn bị vị sultan_ vua Hồi từ chối tiếp kiến, đồng thời buộc đoàn phải rời Đại Lý ngày hôm sau. Không còn chọn lựa nào khác hơn, Garnier ra lệnh cho đoàn rời Đại Lý từ sáng tinh sương và phải mãi 11 ngày sau họ mới thực sự thoát ra khỏi vùng kiểm soát của người Hồi giáo. Trở lại Hội Trạch, sau cái chết của Lagrée, cuộc thám hiểm sông Mekong tới đây kể như thực sự chấm dứt. Đoàn còn lại 14 người rời Hội Trạch, đem theo quan tài Lagrée; ngày 20 tháng 04, họ xuống thuyền trên một phụ lưu của sông Dương Tử. Ngày 09 tháng 05, đoàn tới Hán Khẩu, tại đây lần đầu tiên Garnier gặp Jean Dupuis, một tay thương lái Pháp ở cái tuổi 40 với 8 năm sống ở Viễn đông, mặc y phục Á đông và thong thạo tiếng Trung Hoa. Lúc đó Jean Dupuis chuẩn bị xuống Vân Nam thương lượng cuộc buôn bán lớn về vũ khí. Mãi 5 năm sau Garnier và Dupuis mới gặp lại nhau lần thứ hai ở Hà Nội.

Từ Hán Khẩu đoàn đi Thượng Hải rồi xuống tàu về tới Sài Gòn ngày 29 tháng 06 năm 1868 với chiếc quan tài của người trưởng đoàn sau cuộc hành trình đầy gian khổ kéo dài hơn 2 năm 24 ngày với kết luận rõ ràng là sông Mekong không thể nào là thủy lộ giao thương từ Nam Việt Nam tới Trung Hoa.

Năm năm sau, Garnier từ Sài Gòn ra Bắc Kỳ và đích thân chỉ huy cuộc đánh chiếm Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 1873.

• SẮP QUA ĐI THỜI HOANG DÃ

Thời gian tuy qua đi hàng trăm năm_ giữa hai chuyến đi, một của đoàn thám hiểm Pháp vào giữa thế kỷ 19, và một chuyến đi mới đây của ký giả Thomas O ùNeill cuối thế kỷ 20_ xen vào đó là ngót một nửa thế kỷ chiến tranh và bom đạn, vậy mà con sông Mekong hầu như vẫn di chuyển với nhịp độ của thủa xa xưa ấy: qua mùa khô rồi tới mùa mưa lũ, với con nước lên xuống và không ngừng đem phù sa tô bồi cho các vùng đất đai và nuôi sống những người dân sống quanh đó. Theo suốt chiều dài 4200 cây số của con sông ấy cũng chỉ mới có một thành phố lớn là thủ đô Nam Vang, cộng thêm vài con đập, một cây cầu mới Hữu Nghị Mittaphap nối thủ đô Vạn Tượng với thị trấn Nong Khai Thái Lan và bắt đầu có một khu kỹ nghệ Vân Nam sau con đập Man Wan.

Bây giờ thì các cuộc chiến tranh đã tạm qua đi và “Những Cánh Đồng Chết” vẫn chưa phôi pha trong ký ức người sống, nhưng rồi người ta cũng phải cố mà quên đi những đau thương và thù hận để nghĩ tới hợp tác và phát triển. Đó cũng là bắt đầu giai đoạn chấm dứt thời hoang dã của con sông Mekong. Con sông ấy sẽ được khai thác biến đổi song song với sự biến đổi của các chế độ chính trị và của chính đám dân cư trong vùng. Nhưng là biến đổi thế nào? Đem lại hạnh phúc điều hòa chung cho toàn vùng hay phát triển cục bộ của nước này lại là phá hoại sự cân bằng môi sinh của những nước khác. Câu trả lời đòi hỏi mối quan tâm và nhiều công sức không phải chỉ ở những thành viên của Ủy Hội Sông Mekong, các nhà lãnh đạo mà còn là của tất cả những người Việt chúng ta bên trong cũng như ngoài nước.

NGÔ THẾ VINH
(04/97)

Tham Khảo:

(1) Louis Delaporte / Francis Garnier. A Pictorial Journey On The Old Mekong: Cambodia, Laos, Yunnan. The Mekong Exploration Commission Report(1866-1868)_ Volume 3. White Lotus Press 1998, Bangkok Thailand

(2) River Road to China, The Mekong River Expedition 1866-1873, Milton Osborne, Liveright New York 1973.

( 3) The Mekong River, Thomas O’Neill, National Geographics, Feb.93.

( 4 ) The Mekong Currency, Lives and Times of a River,Liesbeth Sluiter,International Books, The Netherlands 1993.

Nguồn: http://mekongriver.org/

happypack
18-10-2010, 13:07
Góc tăm tối ở thiên đường du lịch Sa Pa (Lào Cai, Việt Nam)
Phóng sự của Đỗ Doãn Hoàng
(đăng blog ngày 13/11/2006)

Sabine, một cô gái 27 tuổi đến từ Israel xa xôi đã viết thư cho nhiều tổ chức nhân đạo từ thiện kêu gọi giúp đỡ cho những cặp vợ chồng nghiện sống “dưới mức chịu đựng của con người” trong hang núi; những đứa trẻ 6-7 tuổi đã và đang sử dụng ma túy ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Giữa thiên đường du lịch Sa Pa, xứ sở mù sương dường như được tạo hóa sinh ra chỉ để những người yêu gặp những người yêu ấy, không lẽ lại có tới hàng chục người sống trong hang núi? Không lẽ bé Dung đẹp như búp bê kia lại ở trong hang đá, nghiện ma túy khi mới tròn 7 tuổi?

Ngày 31/10/2006, tôi và Sabine trở lại Sa Pa. Tiếc thay, những thông tin rùng mình kể trên lại… cơ bản là sự thật. Trưởng công an thị trấn Sa Pa, cũng xác tín với chúng tôi nhiều câu chuyện lạ buốt lòng.

Da trắng, tóc bạch kim, mắt xanh như nước biển, tốt nghiệp ĐH chuyên ngành Quản trị kinh doanh, thay vì đi làm, Sabine tự nhủ, phải đi khắp thế giới đã. Cô đến Việt Nam, dự định thăm nốt địa đầu Sa Pa rồi sẽ sang Nhật làm việc, vì người yêu cô ở đó. Không ngờ, những cảnh đời ở hang núi cao nhìn xuống thị trấn náo nức du khách của Mường Tiên (tên gọi khác của Sa Pa) đã khiến Sabine phải khóc thật nhiều, cô quyết định xin thêm hạn cho hộ chiếu!

Khách sạn Family ở Sa Pa, Sabine qua lại thăm bọn trẻ nhiều đến mức cô đã quen thân với tất cả các lễ tân. Mỗi lần lên, cô ở đó cả chục ngày. Rất Tây, du lịch rất chuyên nghiệp, ăn với tôi một bữa cơm, khi tôi mở ví trước, Sabine cũng chém tay ra giữa không trung nói bằng tiếng Anh đòi “cưa” đôi tiền thanh toán. Song, cô đã nhiều lần bỏ nhiều tiền cưu mang bọn trẻ sống trong hang núi kia - bằng cách mua quần áo, giày ủng (khi mưa, đường leo núi lên nhà các cháu ngập ngụa bùn), khăn khố, cho ăn, cho bố mẹ chúng tiền. Cô đưa chúng về Family Hotel tắm rửa, dạy dỗ. Sabine gọi đám trẻ là con, chúng quyện cô hơn quyện cha mẹ chúng trong hang đá. Dần dà, bố mẹ đám trẻ qua khách sạn chơi, Sabine hiểu, họ đều là người nghiện thuốc phiện. Họ nói tiếng Anh bồi phe phé.

Đến một đêm, sau khi xin phép cái “gia đình sống trong hang núi” cho phép bé Dung (khoảng 7 tuổi, vì không có khai sinh) ngủ lại tại khách sạn với mình, Sabine thấy suốt đêm cô bé không ngủ. “Nó vật vã, nóng sốt, suốt đêm, nó không thể chợp mắt một giây. Lúc đầu tôi tưởng “con gái” bị ốm, đang tính đi tìm bác sĩ thì bố mẹ cháu xuống núi tìm. Họ bảo rằng, cháu lên cơn nghiện thuốc phiện”. Nhiều cảnh lạ mắt về cuộc sống tăm tối, về cảnh vướng vào ma túy của các gia đình trong hang núi, Sabine đã thận trọng chụp ảnh lại, kể chuyện với nhà báo, viết thư kêu gọi lòng hảo tâm.

Hôm 31/10, khi tôi và Sabine trở lại Phố Cầu Mây, cách trụ sở UBND huyện Sa Pa độ hơn một cây số đường nhựa, vẫn gặp lại bé Pan (7 tuổi) đi lang thang. Hai mẹ con Pan cùng kể, bạn cháu là Dung, 7 tuổi nghiện ghê lắm, răng sún, đen xì hết cả. Lúc thèm thuốc, nó chửi cả bố mẹ để đòi. Chị La và anh Ký (bố mẹ cháu Pan) cũng bảo: Dung nó nghiện lâu rồi.

Anh Ký (SN 1974) nghiện ma túy đã 13 năm, chị La cũng xấp xỉ chục năm dính phải nàng tiên nâu. Nhà cửa, ruộng nương trong xã Tả Giàng Phình bán sạch, họ kéo ra mấy cái hang núi thuộc khu vực danh thắng Hàm Rồng sống chui sống nhủi đã ngót… chục năm. Hai lần đẻ, chị La đều vượt cạn trong… hang núi. Hang núi thấp đến mức chị phải đẻ… ngồi, lom khom. Anh La cầm kéo cắt cuống rốn. Đẻ xong, 5-6 ngày lại phải xuống thị trấn bán vòng vèo, sợi thổ cẩm buộc cổ tay (đồ lưu niệm) cho du khách kiếm ăn (và kiếm thứ hút cho cả hai vợ chồng). Có lần, thiếu thuốc, anh Ký vác cả súc gỗ lớn đánh vợ. Chị La kể: “Tôi gẫy mấy cái xương sườn (chị vạch áo ra, bắt tôi phải sờ vào mấy cái xương sườn sứt sẹo). Tôi ngất đi, mấy tiếng sau tỉnh dậy, vẫn thấy con bé Pan nằm trên ngực tôi nhoay nhoay đòi bú”. Vừa kể chuyện, chị vừa tiếp tục vạch vú cho con bú, thằng cu này (tên là Cai) lại mới ra đời. Cai ở truồng, bò lóc nhóc trên nền lều ẩm sướt, nhòe nhoẹt đất.

Bệnh sản hậu làm chị La xanh xao, chân tay lúc nào cũng run lẩy bẩy. “Tôi cũng định ăn lá ngón chết cho xong. Nhưng, có hai đứa con rồi, mình chết đi, chúng nó biết làm thế nào. Vậy là phải sống”. Cái mà anh chị gọi là nhà, nó được bịt bốn bề túi nilông, đồ phế thải, dựng trên đất của người ta, người ta đuổi lúc nào phải chạy lúc ấy. Thế vẫn còn hơn là nằm trong hang đá trên đỉnh núi, công an người ta đi đẩy đuổi, các đồng chí cứ mang theo một can dầu, vận động “hạ sơn” xong là phóng hỏa đốt hang. Cách đây mấy tháng, ông anh trai cùng mẹ khác bố với Ký (năm nay 45 tuổi) cũng phải chạy dạt từ một cái hang núi trên Hàm Rồng xuống tá túc căn lều làm bằng phế liệu của vợ chồng con cái nhà Ký. Ông này nghiện thuốc phiện và ốm o còn nặng hơn cả Ký. Ký thở dài hom hem: “Mấy hôm nay hết thuốc rồi, phải chẻ ống tẩu ra, luộc lên lấy nước sái, vợ chồng chia nhau húp”. Sabine hỏi tôi, anh ta (Ký) nói gì, tôi không nỡ dịch chuyện đau lòng cho người bạn phương xa nghe; đành im lặng bảo “NO” (không), lòng đau như có ai cứa xé.

Thiếu tá Vũ Ngọc Dũng, Trưởng Công an thị trấn Sa Pa, với thâm niên gần 30 năm công tác tại địa bàn, cho biết: lúc cao điểm, ở trên núi ven thị trấn du lịch có tới vài chục đối tượng sống vật vạ trên các vách, hang đá. Thống kê sơ bộ, hiện, có ngót chục người sống chui nhủi trong các hang núi quanh khu vực thị trấn.

Nhưng, khổ đến tận cùng số phận phải kể đến gia đình anh Cu, chị Chỉnh (cách phố Cầu Mây khoảng 2 giờ đi bộ vượt núi). Không có ngôn từ nào hơn gọi là: ăn hang ở lỗ. Vợ chồng Cu nghiện oặt, mặt xanh lét, răng… vàng ruộm. Nhà của họ là một cái hang đá theo đúng nghĩa đen, trần hang cao độ 90cm, lòng hang chỗ phình nhất, tôi đo được 1,3m. Tức là, vợ chồng cu cùng hai đứa con chỉ có cách nằm bẹp trong hang, bên cạnh bếp lửa, thì mới vừa. Trong 3 năm nay (kể từ khi chuyển từ hang cũ đến “hang mới” này) họ chưa bao giờ được đứng trong nhà mình, chắc chắn thế! Kiếm được cái gì ăn cái nấy, nước thì đi bưng ở dưới suối, chứ cái can nhựa múc nước rách mất phần quai, chả xách được. Cũng may, người nghiện ở trong hang núi này, họ không có nhu cầu tắm giặt hay đánh răng rửa chân gì sất. Trong túi không có một xu. Trong bếp không có gì ngoài cái kiềng, cùng một lô xích xông những ống bơ dùng để đun thuốc phiện (xem ảnh), tất cả các ống hút đã được luộc đi luộc lại nhiều lần để “mót sái”. Ngoài cửa hang, kim dùng để tiêm chính vứt ngổn ngang. Núi đá tai mèo đen xì làm mặt họ càng xám ngoét đi, Cu bảo: “Mình hút mới có 10 năm, ở các hang trên núi này mới có… 6 năm. Vợ mình nghiện 13 năm rồi mà. Con bé Dung, sau khi uống nước sái từ hôm qua, giờ vẫn chưa được thêm tí thuốc (phiện) nào” (trích băng ghi âm).

Xin hãy thương xót bé Dung!

Bé Dung có nghiện hay không? Bằng lương tâm của mình, tôi tin, bé gái 7 tuổi đi lang thang ở Sa Pa với tôi như đứa con gái nhỏ ấy đã lỡ bị ả phù dung nhẫn tâm tóm cổ. Thiếu tá Dũng, Trưởng công an thị trấn Sa Pa tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe chúng tôi thông báo tình hình này. Bởi công tác đẩy đuổi, đem dầu đi đốt lều của người nghiện trong hang núi, cả việc báo cáo tình hình lên UBND huyện vẫn được các đồng chí công an thực hiện đều đặn. Bé Dung, khi bị hỏi cháu có nghiện không, chỉ khóc. Tài liệu của Sabine về việc cháu sử dụng ma túy khá thuyết phục, bởi cô đã chứng kiến cảnh cháu lên cơn, nghe bố mẹ cháu thú nhận rằng cháu nghiện thuốc phiện. Bố mẹ cháu cũng nói với tôi (nhà báo) rằng con họ nghiện mới chỉ… 1 năm. Rất nhiều những người biết bé Dung, kể cả nhiều nhân viên khách sạn, đều cho biết bé Dung đã mắc nghiện. Ông Chu, 49 tuổi, người hàng xóm sống ở rông núi cạnh rông núi có hang đá nhà bé Dung, kể: Dung nó nghiện lâu rồi, nó không biết ngượng đâu, có lần vật quá, nó hút thuốc tại nhà tôi! “Một ngày mà không có thuốc phiện là nó khóc ghê lắm”, vợ ông Chu bổ sung: có nhà hảo tâm muốn cho nó đi Hà Nội học nghề gì ấy, bố mẹ nó không dám cho đi vì thương con khổ quá, “về Hà Nội không có thuốc hút thì khổ quá đấy”. Anh Cu nói như thanh minh khi thấy Sabine buồn rầu ngồi trong vách đá: “Dung nó chỉ hút có 5.000 VNĐ (tiền mua thuốc phiện) một ngày thôi mà, muốn bỏ thì sẽ bỏ được”. Tôi lại không dám dịch câu thú nhận này cho Sabine nghe. Vẫn giọng Cu: “Trước, nó trèo vách đá gẫy tay. Không đi viện được, nằm trong hang nó (Dung) khóc suốt đêm, mình thương quá phải cho con nó hút thuốc phiện cho đỡ đau. Rồi nghiện”. Việc bé Dung (khoảng 7 tuổi) đã sa vào ma túy thật hay chưa, xin cơ quan chức năng trả lời bằng những “phép thử” được luật pháp công nhận. Có một điều chắc chắn, các nhân chứng đều khẳng định. Tôi đã nghe tận tai; Sabine đã nhìn tận mắt cơn vật thuốc của bé Dung.

Tôi ngắt lời Thiếu tá Vũ Ngọc Dũng:
- Theo anh, cả bố mẹ cháu, cả nhân chứng nói như thế, đủ kết luận bé Dung nghiện chưa?
Ông Dũng đồng ý, đó là những tài liệu thuyết phục, có lẽ cháu đã nghiện thật. Nếu đúng thế, ông mong muốn nhiều ngành, nhiều cấp phải sớm vào cuộc giải quyết một cách thật sự hiệu quả sự tăm tối kể trên.

Chia tay chúng tôi ở chân núi Hàm Rồng, Pan và Dung chỉ vào con gà luộc đòi ăn một bữa no. Ăn xong, chia tay, đi một đoạn chúng tôi lại thấy Dung và Pan nhò ra từ bụi rậm. Đi một đoạn, chúng lại ngoái nhìn, lại chạy theo, leo lên vai tôi như những con con khỉ nhỏ thân thương. Sabine khẽ khàng, “tôi sẽ không bao giờ quên được chúng”. Sabine về trời Tây; tôi về thủ đô; Pan, Dung về căn lều tăm tối, ám đen khói thuốc phiện. Không lẽ, lòng tốt của Sabine cũng lại như gió bay đi giữa xứ sở đã có quá nhiều mây và sương mù Sa Pa?

Đ.D

http://www.vtc.vn/phongsu/10620/index.htm

happypack
18-10-2010, 13:16
Người sơn cước (Mai Châu, Hòa bình, Việt Nam)
Ký sự của họa sĩ Phan Cẩm Thượng

LTS: Nhà nghiên cứu mỹ thuật – hoạ sĩ Phan Cẩm Thượng là tác giả chính của nhiều công trình nghiên cứu nghệ thuật tạo hình uy tín như Mỹ thuật của người Việt (viết chung với Nguyễn Quân), Điêu khắc cổ Việt Nam, Hoạ sĩ trẻ Việt Nam (viết chung với Lương Xuân Đoàn), Đồ hoạ cổ Việt Nam (viết chung với Cung Khắc Lược – Lê Quốc Việt), Chùa Bút Tháp, Chùa Dâu và nghệ thuật Tứ pháp... Đến Nghệ thuật ngày thường thì Phan Cẩm Thượng còn được biết đến như một cây bút tản văn có phong cách riêng. Là người thích làm một dòng sông vừa trôi vừa chiêm nghiệm về hai bờ của nó, văn phong của Phan Cẩm Thượng là sự phối ngẫu giữa văn nghiên cứu và tạp bút, cuốn hút còn vì ẩn sau cách diễn đạt dung dị của tác giả là sự uyên bác về văn hoá cổ.

Kỳ 1: Không gian văn hoá Mường

Người bạn vong niên của tôi, anh Vũ Hiếu đã lập bảo tàng tư nhân đầu tiên trong cả nước về văn hoá dân tộc Mường được cấp phép (hiện nay cả nước có mười bảo tàng tư nhân chủ yếu về tranh, đồ gốm, và một số đề tài khác). Gọi “bảo tàng” cho oai, chứ hiện nay cơ chế bảo tàng tư nhân vẫn chưa hoàn thiện, nên những người sưu tập tranh, cổ vật, mặc dù rất muốn, vẫn e ngại về vị thế bảo tàng tư nhân của mình. Vũ Hiếu gọi đó là không gian văn hoá Mường. Nơi này cách thành phố Hoà Bình 7km, đi về ngã ba dốc Cun, rồi rẽ vào đường Tây Tiến. Con đường cũng mới được đặt tên theo đề nghị của các lão chiến sĩ vệ quốc xưa; ngày trước khi chưa có công trình thuỷ lợi Hoà Bình, người ta có thể lên Tây Bắc bằng con đường này. Nay con đường chỉ có thể dẫn ta đến sát vùng hồ với nhiều bản làng của người Mường.

Tôi không rõ tình cảm với văn hoá và người Mường của Vũ Hiếu, mà bản thân văn hoá Mường cũng không có quá nhiều cổ vật có giá trị như những người chơi cổ vật thường quan niệm, nhưng có lẽ anh nghĩ đó là sự phong phú của cuộc sống ít vật chất, gần với tự nhiên. Công việc của một người phục dựng không gian văn hoá là đọc ra từ đó đời sống của một tộc người. Người Mường sinh hoạt trên nhà sàn, canh tác dưới ruộng, hái lượm trên rừng, với đời sống khá giản dị, không có nhiều di vật như các sắc tộc khác, ngay y phục cũng chỉ cạp váy là có hoa văn, và bây giờ thì cũng ít cô gái mặc y phục truyền thống dân tộc. Tất cả những đồ mà Vũ Hiếu sưu tập, chỉ là nhà sàn, nông cụ, đồ gia dụng mây tre đan, ít đồ gốm, vài đồ tín ngưỡng. Mỗi cái hom, cái giỏ, cái cày, cái bừa, đều có một đời sống nhất định, càng ở nơi ít hình thức vật chất chúng càng cô đọng nhiều vấn đề của con người.

Công việc này vô hình trung dẫn anh đi vào con đường đến bản Mường theo dấu chân của nhiều học giả, trong đó có bà Jeanne Cuisinier (1890 – 1964), người viết cuốn Les Mường xuất bản năm 1948, đã sống gần hết cuộc đời mình ở Đông Dương; và cô Madeleine Colani (1866 – 1943), nhà khảo cổ học, được gọi là “cô” vì không lấy chồng. Tại Thanh Hoá, tôi cũng mới gặp ông Hoàng Anh Nhân, một nhà nghiên cứu về văn hoá phi vật thể Mường, ông có hai cuốn ghi chép lại Mo Mường nổi tiếng là Đẻ đất đẻ nước và Mo lên trời, cùng hàng chục cuốn sách khác về văn hoá Mường. Đó có thể coi là những sử thi về cội nguồn của người Việt Mường. Cuốn Mo lên trời rất thú vị. Người chết trước khi vào Mường trời cần qua nhiều đợt chất vấn về công tội. Con gà kể tội anh ta cắt tiết, luộc chúng trong nước sôi, đánh chén lòng mề... Anh ta kể công làm chuồng gà, cho ăn thóc, nâng niu từng quả trứng. Con lợn kể tội anh ta giết thịt, băm hành xào xáo, mở cỗ bàn... Anh ta kể công nuôi nấng, làm chuồng, cho ăn cám, hót phân. Thế là công tội hoà nhau, và nhiều chất vấn như thế, rồi người tốt được vào Mường trời.

Khi viết những dòng cuối cùng của bản thảo cuốn Văn minh vật chất của người Việt, tôi chợt nhìn thấy gốc gác của những đồ nông cụ Việt có liên hệ sâu sắc với nông cụ Mường, nên muốn dành nhiều thời gian đi theo con đường Vũ Hiếu đang lựa chọn. Có một sự khác nhau căn bản giữa văn hoá Mường và Việt, là con thuyền không đóng vai trò gì với người Mường, nhưng lại rất quan trọng với người Việt: văn hoá Việt là văn hoá của sông nước. Người Mường không biết đóng thuyền, nếu có con thuyền đi trên sông, họ nhìn theo rồi lững thững đi, và đó có thể là con thuyền của người Thái. Còn ngoài cái đó ra, mọi cái khác như chung một gốc, tất nhiên trước tiên là ngôn ngữ và canh tác. Ông Phan Bảo, hoạ sĩ xứ Thanh, người rất quan tâm đến văn hoá dân tộc, cho người Mường và người Việt đích xác là một gốc. Ông nói người Mường có câu: mol miêêng hay mol chơ – người ta hay người chợ (tức người ở ta hay người kẻ chợ – là người Kinh). Chữ mol chỉ có nghĩa là “người”, không phải là tên riêng. Ông còn nói rằng người Mường có những đặc tính sau: không bao giờ nói tục, không chửi nhau, vợ chồng anh em lúc nào cũng hoà thuận, và không bao giờ đánh trẻ con. Người Mường và người Thái là hai sắc tộc hiền hoà, họ không có tam giáo Nho – Lão – Phật như những dân tộc khác, hay là vì họ không có những đạo ấy mà bình yên nhỉ?

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 13:19
Người sơn cước (Mai Châu, Hòa bình, Việt Nam)
Ký sự của họa sĩ Phan Cẩm Thượng

Kỳ 2: Mai Châu mùa cơm nếp

Con người là một thực thể tâm linh, khi nào cái tâm linh ấy suy đồi, con người sẽ trở nên bấn loạn. Người ta sẽ không biết mình là ai, đang làm gì. Tâm linh không thể nhờ cậy vào một thiền sư hay một thầy pháp, một đạt ma nào đó, mà hoàn toàn là việc của cá nhân, chỉ do chính cá nhân ấy thực hành. Những bậc tu hành cùng lắm chỉ là người gợi ý, họ lo tâm linh của chính họ đã khó khăn lắm rồi.

Mai Châu, bản Lác từ lâu đã thành một địa điểm du lịch. Bản người Thái này vốn được quy hoạch vuông vức như một thị trấn nhỏ, có đường ngang, ngõ tắt và kênh mương chảy qua bản. Tất cả các nhà sàn được xếp ngay ngắn về một hướng và đồng ruộng bao quanh. Vẻ đẹp của bản Lác khiến nó nhanh chóng nổi tiếng và được nhiều du khách tới thăm, hiện thì có thể nói nó đã biến thành phố Lác, nhà nào cũng làm du lịch, cho thuê chỗ ở, bán đồ lưu niệm và hàng cơm. Hôm chúng tôi đến trong tháng ba, thấy cả một đoàn thiếu niên phương Tây đến trăm trẻ chạy nhảy nhốn nháo.

Năm bản khác xung quanh vùng không được vị thế như vậy, nhưng thực ra bản nào cũng đẹp. Con người cũng thật kỳ lạ, họ thích thám hiểm tò mò, nhưng không thể xa rời tiện nghi. Họ đến một vùng núi rừng, với dân tộc ít người nhưng phải có bánh pizza và nhà vệ sinh hiện đại. Ở dưới Hoà Bình, nhiều bản làng đang học tập mô hình du lịch của bản Lác, như một bản nằm không xa khu Không gian văn hoá Mường. Ở đây có bãi đỗ xe đầu bản, có các nhà sàn được giữ lại và mọi người dân đều niềm nở đón khách vào nhà, bán thổ cẩm hoặc đồ đan. Chương trình này hiện chưa được nhân rộng, có cái hay cái dở. Nhưng trước tiên người ta không bán nhà sàn chuyển xuống nhà gạch nữa và ý thức rất rõ ràng về giữ gìn văn hoá truyền thống và môi trường rừng núi xung quanh, đó cũng là cái mà du khách cần tới. Tuy nhiên văn hoá truyền thống vẫn suy thoái từ từ trong các bản làng đó. Phần lớn người dân không sản xuất đồ thủ công nữa, mà mua từ dưới xuôi, hay hàng Trung Quốc. Và cũng có vài khung dệt vải mộc và thổ cẩm có tính chất tượng trưng. Cô Hà, một hoạ sĩ phục trang tìm mua cho đủ một bộ y phục nữ Mường, chị chủ nhà đồng ý bán, nhưng bộ của chị lại thiếu mất cái yếm. Chị cười và nói bán mất cho ông Tây rồi. Một cuộc trình diễn thời trang đơn giản, và hoạ sĩ Hà nhất định phải có cái yếm, thế là chị gái Mường phải vay một cái yếm từ cô em gái cho đủ bộ.

Trong khoảng năm 1992 – 1997, và cũng nhiều đợt khác, một vài nhà tạo mốt đã vét sạch tất cả những bộ quần áo dân tộc ở Sa Pa, khiến cho tình hình y phục truyền thống vùng này, như một người dân nói: suy thoái hoàn toàn và còn lâu mới ngóc đầu dậy được. Thời gian đó, còn nhiều đồng bào tự làm lấy áo quần, thời gian cho một bộ y phục dân tộc theo kiểu thủ công rất lâu, không thể tái sản xuất nhanh. Người Trung Quốc và những thợ may, thợ thêu dưới xuôi nhanh chóng nhảy vào thị trường này, họ cung cấp đủ loại hoa văn thêu dệt sẵn cho người Dao và người H’mông. Có những phiên chợ ở dãy Hoàng Liên Sơn, người H’mông Hoa hoàn toàn mặc thổ cẩm thêu dệt sẵn. Tôi từng thấy một chiếc ôtô chạy qua vùng Hoà Bình – Mai Châu vét sạch hoa phong lan ở các chợ bán lẻ ven đường trong một ngày. Người dân tộc tuy bán được, nhưng cũng nói rằng "bác mua kiểu này thì vài năm sau rừng mới mọc được và chúng em mới có hàng để bán". Du lịch về bản chất cũng làm tổn hại nghiêm trọng đến văn hoá, sự sưu tập theo kiểu tàn sát như trên là một đòn trời giáng vào đời sống miền ngược. Khác nào đem mìn đi đánh cá đâu.

Từ Hoà Bình đi Mai Châu, ta đi qua một chợ mía kỳ thú, đó là chợ mía Lồ, ở Mường Bi. Có lẽ nơi đây thường xuyên mua bán mía nên người ta cất những lều tạm hai bên đường bằng tre và lợp lá mía, có sạp ngồi như một hàng quán. Mái sạp rất cao và hướng mặt sạp ra lòng đường, các bó mía được xếp quanh đó. Mía tím rất giòn không thể ép kéo mật, do bị vỡ vụn nếu xay ép, nên chỉ có thể để ăn ngay. Người ta nói rằng xứ Mường này là một trung tâm của cây mía tím. Muốn đến Mai Châu phải vượt đèo Thung Khe, trên đỉnh đèo, nhiều người dân tộc và người dưới xuôi lập một dãy hàng quán cũng tạm thời, bán phong lan, cơm lam, hoa quả đặc sản. Cảnh vật núi rừng nhìn từ trên cao xuống rất ngoạn mục, dưới chân đèo là những bản làng mái nhà sàn lúp xúp quây quần vào nhau. Cảnh tượng đó đến nay vẫn như vậy, nhưng không biết còn được bao nhiêu lâu nữa. Tôi xuống những bản làng hỏi về khả năng và thời gian lưu giữ của những nhà sàn, mà phần lớn đã dựng lại bằng hệ cột vuông, tức là loại nhà sàn tiết kiệm gỗ (một cột tròn có thể xẻ thành bốn cột vuông). Người ta nói rằng chừng 20 năm nữa, vậy sau đó thế nào? Đó là câu hỏi chưa trả lời được. Và nếu người ta phải chuyển thành những nhà sàn bêtông, lợp mái tôn ximăng, thì thà xây nhà gạch còn hơn.

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 13:21
Người sơn cước (Mai Châu, Hòa bình, Việt Nam)
Ký sự của họa sĩ Phan Cẩm Thượng

Kỳ 3: Cái cọn nước

Mấy ngày sau tôi đi vào Mường trong. Mường trong tức là xứ Mường ở phía tây Thanh Hoá, còn Mường ngoài chính là Hoà Bình. Chúng tôi đi đến huyện Bá Thước, xã Ban Công, theo lời của Phan Bảo tiên sinh nơi đây trước được coi là vùng quý tộc, nên các nhà sàn rất lớn. Song cảnh tượng ngoạn mục nhất là những dãy cọn nước (guồng đưa nước lên cao) bên một dòng suối lớn đã tương đối cạn, dòng suối này đổ ra thượng nguồn sông Mã, nếu nước lớn lưu vực của nó cũng khá mênh mông.

Hiện con suối rộng chừng 10m, nước ngang đến đầu gối, nhưng dòng chảy để lại vết tích cho biết suối còn thêm ra đến 20m nữa. Tôi ra mép suối, vớt chút nước rửa mặt, nước ở đây có vẻ không sạch lắm. Ở nơi gần như đầu nguồn mà như vậy thì các dòng sông về xuôi ô nhiễm đến chừng nào. Hiện nhiều bản Mường ở vùng hồ Hoà Bình, là nông dân, sống trong núi rừng hẳn hoi nhưng nước sinh hoạt hoàn toàn nhờ vào sự cung cấp của nhà nước. Người dân cho biết tiền điện chừng 35 ngàn đồng, tiền nước chừng 15 ngàn đồng/tháng. Rõ là không phải chỉ có thành phố mới dùng nguồn nước cung cấp. Tình trạng thiếu nước sạch xảy ra ở mọi nơi.

Con suối chảy qua xã Ban Công có đập ngăn nước và hồ dự trữ, nhưng hiện giờ đập khô cạn hoàn toàn. Bảy tháng nay chưa có mưa. Từng dãy cọn nước có cái quay dẫn nước, có cái đứng im, và dòng nước cũng chảy chậm chạp. Những cái cọn này được di chuyển tuỳ theo các thửa ruộng để người dân dẫn thuỷ nhập điền. Công cụ này có lẽ phổ biến trên thế giới vào khoảng thế kỷ 10 – 11 gì đó, cũng giống như cái cối xay gió thời trung cổ phương Tây. Một vài cuốn sách thời Minh ở Trung Quốc đã vẽ những chiếc guồng nước cổ, không ai xác định rõ guồng nước ra đời chính xác khi nào, nhưng chắc chắn nó là sản phẩm của thời trung cổ phong kiến. Người Mường và người Thái từ lâu biết tận dụng sức nước vào việc giã gạo với những chiếc cối giã nước và chiếc cọn dẫn nước này. Những chiếc cọn có thể to nhỏ khác nhau. Nhỏ thì đường kính chừng 2m, lớn thì đường kính tới 4 – 5m, một giàn ống bương được cài vào guồng, khi mặt guồng chạm nước, nước sẽ chui vào ống và quay lên cao đổ vào hệ thống máng dẫn đến nơi cần thiết. Người Thái trắng ở nơi đây đã có máy xay xát gạo để trong gầm sàn, họ cũng có máy bơm, nhưng không thể dẫn điện ra tận ruộng xa mà bơm nước được. Vả lại dùng điện quá tốn kém, nên cái cọn vẫn là công cụ dẫn nước đắc lực phổ biến ở Tây Bắc, ngay ở Kim Bôi cũng có nhiều cọn nước. Hình ảnh nông nghiệp cổ xưa này có vẻ thơ mộng không thể thay thế, chính vì vậy mà các nhà nhiếp ảnh cứ trông thấy cọn nước là xúm vào chụp lấy chụp để, như sợ rằng lần sau mình lên, những cái cọn không còn nữa. Thậm chí trong vài khu trưng bày dân tộc học, cọn nước vẫn là một hình ảnh nên thơ.

Chúng tôi vào một ngôi nhà sàn đẹp mắt ven đường. Vợ chồng chủ nhà rất niềm nở, con cái họ đi học ở xa, cả hai đều là cán bộ, vợ là giáo viên, chồng là y sĩ. Họ mời chúng tôi, nếu muốn có thể nghỉ qua đêm. Buổi chiều, chị chủ nhà đi chợ chuẩn bị bữa ăn tối, còn anh chồng dẫn chúng tôi đi thăm bản. Ban Công đang làm đường xuyên sang Hoà Bình, đường sá khá bụi, nhưng cảnh vật rất đẹp. Ở xã này có nhiều thôn xóm, tổng cộng chừng 800 hộ, với khoảng 4.000 người. Số lượng nhà sàn vẫn chiếm đến 90%. Trong đó có vài ngôi nhà rất lớn, mặt bằng chừng 16,5 x 8m, như vậy đến hơn trăm thước vuông. Đó là những ngôi nhà được xây cất rất cẩn thận, các hàng cột tròn đặt trên đá tảng như đình chùa, có hai dãy hoành thông suốt bằng một cây gỗ cũng dài tới 16,5m. Đó là gỗ của thời xưa, chứ bây giờ không lấy đâu ra.

(còn tiếp)

happypack
18-10-2010, 13:24
Người sơn cước (Mai Châu, Hòa bình, Việt Nam)
Ký sự của họa sĩ Phan Cẩm Thượng

Kỳ cuối: Con người và núi rừng

Thanh Hoá có cả rừng và biển, nhưng đồng ruộng cũng thẳng cánh cò bay. Vụ lúa chiêm đang phủ lên toàn xứ Thanh một màu xanh ngắt. Ở Ban Công, ruộng không nhiều và đang chờ các cọn đưa nước vào. Tôi hỏi anh y sĩ: “Nơi này có nhiều người bệnh tật không?” Anh đáp: “Không” – “Có ai nghiện không?” – “Cũng không”.

Chúng tôi ghé vào ngôi nhà ở một xóm đang lợp lại. Các mái cọ chĩa ngược lên trời tua tủa. Đám thanh niên ngồi trên nóc nhà cất tiếng mời chào. Người Thái rất thân thiện và rượu được rót ra, giống như miếng trầu của người Kinh. Nói chuyện về văn hoá truyền thống, ông chủ nhà buồn rầu đáp: “Lúc bé tôi biết rất nhiều trò chơi. Nay chẳng còn gì nữa. Không ai biết nữa”. Con trai cụ lấy ra hai cái chiêng núm nhỏ, giới thiệu rằng xưa kia nếu ai săn được thú rừng sẽ đánh cái chiêng này báo cho cả làng biết, nhưng hiện thì không có gì để săn bắn và cũng không được phép săn bắn nữa. Trong nhà này có một khung dệt cổ, nhưng ít dùng.

Hơn 4.000 người, nhưng chỉ lác đác vài bà già mặc y phục dân tộc. Tuy nhiên hầu hết các nhà đều có tivi, đôi nhà có vi tính và máy xay xát. Tiếng Thái ở đây cũng pha trộn nhiều tiếng Kinh, một ngôn ngữ rất gần với tiếng Tày, và anh y sĩ cũng nói rằng, người Thái thực ra cũng gọi là Tày. Anh cho biết có thể dùng tiếng Thái giao tiếp với người Lào gần biên giới và người Tày trong nước, còn những vùng Lào xa hơn thì hiểu khoảng 40%, với ngôn ngữ Thái Lan cũng như vậy. Còn lại vài người biết đan mây tre, vài người dệt thủ công, sắc thái văn hoá đọng lại chủ yếu ở ngôi nhà sàn và ngôn ngữ. Hiện khó khăn nhất là bộ mái nhà sàn. Trước đây tốt nhất lợp bằng tranh, nhưng tranh tự nhiên bây giờ không có, phải thay bằng lá cọ. Còn những nhà sàn lợp tôn và fibrô ximăng rất nóng, mùa hè ban ngày cả nhà chỉ còn cách chui xuống gầm sàn. Lợp ngói thì lại phải thiết kế rui mè thật khoẻ. Nhà sàn Tây Bắc đang là cái mốt của nhiều tay chơi dưới xuôi. Dẫu vậy những ngôi nhà sàn cũng biểu hiện những vùng miền thanh bình, không có trộm cắp, vì bản thân nó không kín đáo hoàn toàn.

Ở bản Lác, Mai Châu, tình hình khả quan hơn đôi chút. Hiện có một lớp học chữ Thái cổ, giống như chữ Phạn hình giun, một số khung cửi hoạt động cầm chừng và một đội múa luyện tập hàng ngày. Trong thời đại công nghiệp, sự thay đổi sâu sắc thực chất diễn ra ở mọi dân tộc, trong đó những nét văn hoá truyền thống đang mai một không gì cưỡng nổi. Nếu văn hoá chỉ là một phái sinh của kinh tế thì đời sống con người đang xuống rất thấp.

Chiều về bên những bản Mường vùng lòng hồ rất đìu hiu. Phần lớn những người già rời bỏ ngôi nhà sàn lớn, vào rẫy ở những ngôi nhà nhỏ như túp lều. Lý do rất đơn giản: chủ nhân của ngôi nhà sàn lớn phải chịu những khoản cho vay, mướn đối với xóm làng, nghĩa vụ giỗ chạp với gia đình, và các đóng góp xã hội. Hầu hết người già không có khả năng như vậy và tốt nhất là nhường nhà lại cho ai đó trong con cái, bản thân con cái cũng đùn nhau cái trách nhiệm này. Không ai muốn ở ngôi nhà sàn lớn là một thực trạng đáng buồn đang diễn ra ở các bản Mường. Ghé chơi một gia đình, chỉ còn lại mấy chị em và đàn trẻ con, chập tối tất cả đã tề tựu bên bếp nhà sàn và luộc sắn mời chúng tôi. Họ nói hàng tháng chỉ đóng có 50 ngàn đồng tiền điện nước mà còn khó khăn, nếu lập gia đình thì phải có tối thiểu 20 triệu đồng cho một đám cưới.

Người Mường không phải là những người năng động làm kinh tế. Bản thân họ thích làm ăn vừa phải, sống thanh nhàn với thiên nhiên. Ông Phan Bảo nhận xét trong lịch sử, người Mường chưa bao giờ vượt quá bắc sông Hồng và nam sông Lam, cũng không ra phía đông, mãi mãi nằm giữa người Việt và người Thái một cách hoà thuận.

Chúng tôi nói với Vũ Hiếu rằng bảo tàng không chỉ nắm những hiện vật chết, mà cần phải biết tất cả những nghệ nhân đang sống, ai dệt được thổ cẩm, ai chế tạo được nông cụ, ai đan khéo léo và luôn mời người ta về thao tác và trả lương, hay bán chính sản phẩm của họ. Vũ Hiếu cho biết người thì có và cũng biết, nhưng đa phần họ sống theo lối cũ, không quá trọng công việc. Dệt thì cả tháng vài thước cũng được, đan vài hom giỏ rồi lại đi uống rượu, về thăm nhà! Bản thân những sản phẩm đó không đủ trang trải lại thù lao nếu có, nhưng không làm thì những con người nắm giữ công nghệ của một dân tộc cũng mất đi, đem theo cả những bí quyết truyền đời.

Người Choang ở Quảng Tây – Trung Quốc, người Tày Nùng ở Đông Bắc và người Thái ở Tây Bắc nước ta, người Lào và người Thái bên hai quốc gia trong vùng và vài sắc tộc khác đều có chung gốc gác ngôn ngữ. Họ đã dịch chuyển như thế nào ở châu Á trong lịch sử là một câu chuyện rất đáng tìm hiểu. Người Mường nằm giữa hai khối Thái và Việt, nhưng chưa bao giờ bị hoà tan, vẫn giữ được bản sắc văn hoá cho đến tận bây giờ, lại là một câu chuyện thú vị khác.

Thoạt tiên những người phụ nữ vùng cao này quấn ba miếng vải lớn, một cái trên đầu, một cái quanh ngực, và một tấm lớn che thân dưới. Tấm vải che ngực và khăn thắt lưng kết hợp với nhau trở thành giang trên, giang dưới có hoa văn trong cái váy cao của người Mường. Chúng tôi đã thấy vài bức ảnh cổ do người phương Tây chụp lại có những nơi còn quấn nguyên ba tấm như vậy trong các sắc tộc Nam Á. Khi trở thành cái váy cao Mường Thái, nó thể hiện một phong độ sống thong thả lành mạnh, vì với tấm váy đó người phụ nữ không thể mang vác nặng hay đi nhanh và luôn uyển chuyển trong dáng thẳng đứng. Điều ấy chỉ có thể thực hiện trong một cuộc sống biết thế nào là đủ và không quá lam lũ. Và sự lam lũ cũng là lý do khiến người ta thay đổi những trang phục có tính văn minh này.

hết

happypack
18-10-2010, 13:27
@ everybody: mời mọi người chia sẻ những bài ký hay cho topic thêm xôm tụ nhé :-) vì sức đọc của một người chắc chắn không bằng nhiều người gộp lại rồi!
có ai biết cách tạo mục lục cho từng bài giống anh cvn đã làm ở trang đầu vui lòng hướng dẫn mình với! xin cảm ơn!

happypack
01-11-2010, 17:37
Khúc hát lên đường

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Có lần, giữa lưng đèo ở núi rừng Tây Bắc, xe bị mắc lầy, kẹt giữa con dốc dài, trong đống bùn nhão, bụng thì đói khủng khiếp, bên đường chỉ vài căn nhà lúp xúp của đồng bào, mà họ cũng đóng cửa đi nương. Đoàn người ngồi lê ngồi lếch, vạ vật dưới chân núi, chờ xe chuyên dụng đến gạt bùn giải cứu.

Em kéo tôi đi dạo, em nói ở đó nhăn nhó cũng vô ích. Chúng tôi rẽ vào con đường nhỏ xuống thung lũng, bên những cái rào hờ hững là vạt cải đang lên, mầm xanh nhuốt dưới mưa sương. Có một chòm nắng quét qua thung lũng, làm những rặng cây dưới kia cũng đổi màu. Em chắc lưỡi, hít hà, đẹp quá chừng ta ơi. Tôi gật đầu, và trong cái khoảnh khắc đó, tôi quên mình đang đói và chiếc xe đang nằm ì trên đống bùn. Tôi chỉ biết mình đang đứng trước vẻ đẹp chưa từng có trong đời. Một cậu bé từ trong con đường mòn trơn ướt từ dưới thung nhấp nhô hiện ra trong mưa lay phay, mắt cậu đen sâu hút, cây rựa cong cong vung vẩy trong tay, và trên vai là con gà trống ung dung đậu. Cậu đi qua, mắt hơi cười, và khi người khuất sau rặng cây rồi, tiếng gáy của con gà vẫn còn đọng từng giọt trên những dấu chân nhỏ. Em ngó tôi, hỏi, “cứ ngồi than thở trên kia thì làm sao thấy được những cái đẹp tình cờ này, hả chị?”

Tôi không trả lời, ngượng nghịu vì mình đã mất nửa giờ gắt gỏng, lo âu. Tôi tự hỏi, trong ba mươi phút đó, mình đã mất bao nhiêu cơ hội để khám phá vùng đất này. Tôi day qua định cảm ơn em, nhưng em đã phăm phăm đi đằng trước, cái ống quần kaki rất ngầu quệt vào cỏ, bê bết nước và bùn.

Chính em rủ tôi đi chuyến này. Lúc em gọi điện, tôi đã hỏi, sao đi được hả nhỏ ? Em nổi quạu, dễ lắm, chỉ cần xếp vài bộ đồ, nhịn nhậu nhẹt vài cữ, với chút tiền dành ra ấy, quảy ba lô lên vai, là tụi mình có thể tới bất cứ đâu bất cứ lúc nào. Không biết đường đi, thì hỏi. Sợ gì.

Lâu lắm tôi đã không đi, mất cảm giác. Bởi đi không phải là nhu cầu tối thiểu, như ăn, ngủ. Hôm nay đi không được, thì mai, thì mốt. Mà, lần khân tới khi già khú đế, không đi được cũng chết vì bệnh tật chứ không phải chết vì không đi. Vậy nên, tôi luôn bỏ lỡ những chuyến đi của cuộc đời mình. Đôi lúc, đã lên kế hoạch đi đâu đó, ừ, ngày mai đi. Quãng thời gian chờ sáng, tôi ôm cái gối ôm của mình, nghĩ, trời ơi, mai đi rồi, mình sẽ xa cái chỗ nằm quen, quán cafê quen, những bạn bè quen. Xuất hiện cái rào đầu tiên, sự quen thuộc bị xáo trộn. Rào thứ hai: đường xa, sông sâu cách trở. Rào thứ ba: nhớ nhà. Rào thứ tư: không ai đưa rước con đi học (hay lý do tương tự, không ai cho đàn gà ăn). Rào thứ năm: tiếc tiền. Và rào thứ sáu, thứ bảy thứ n quây kín tôi lại. Chuyến đi vào lúc sớm mai trở nên tuyệt vọng, mù mịt xa.

Và sự khao khát khám phá thế giới chung quanh đã không đủ mạnh để thôi thúc tôi lên đường. Nhưng nếu tôi vượt qua tất cả những cái rào đó, lúc bước chân lên xe, trong tôi sẽ xuất hiện một cái rào khác, khiến tôi trùng trình, nơi mình đến, có cái gì hay không ta? Mình đi xa vậy, mắc công vậy, tốn tiền vậy mà không có thu hoạch gì thì tiếc. Tiếc lắm.

Tôi cũng hỏi câu đó khi em sắp gác máy, em cười “có ai mà gặt được trước khi gieo hôn, hở chị?”. Tôi cũng cười. Em chuyên viết ký du khảo cho báo địa phương, đi nhiều, căn phòng em trong cơ quan ít khi mở cửa. Nghe nói có hồi em định lấy chồng, má em khóc quá chừng, “tội nghiệp con nhỏ, rồi phải chôn chân ở nhà”. Trong ý nghĩ của người mẹ, nếu con gái mình không đi lang thang điều đó đau khổ ngang bằng… chết. Nhưng có một vài trục trặc khiến đám cưới không diễn ra. Em đi rong để quên buồn, rồi sau này đi rong vì nghiện, không đi bứt rứt không yên. Những lần em chuẩn bị lên đường, tôi hay dặn, đi về nhớ kể cho nghe. Em cười, coi đó như một lời hẹn hò, khi về, sẽ có bữa ăn nhậu gì đó nho nhỏ, gọi là tiệc đón.

Không hiểu tại sao em chẳng nghĩ câu nói đó theo đúng nghĩa của nó. Việc đi để kể lại là không thể sao? Tôi tự hỏi khi xốc hành trang lên vai, đi cùng em.

Dẫn đoàn, đóng vai trò “cục đường” kéo mấy con kiến đằng sau là một anh nghệ sỹ nhiếp ảnh. “Cục đường” thường ngồi ở một ngọn đồi nào đó tiễn mặt trời chìm xuống dòng sông và sáng sau luôn dậy sớm chờ mặt trời lên. Tôi hay bước lên xe với cái mặt ngái ngủ. Một người viết văn thì cần những khoảnh khắc đó làm gì, tôi nghĩ. Em thì khác, xăng xái, nôn nao, em nói, “ba trăm sáu mươi lăm ngày mặt trời mọc ba trăm sáu mươi lăm kiểu khác nhau, thì như hôm qua em bị nhức đầu, nên mặt trời lên thấy khác, bữa nay đúng lúc mặt trời lên, biết đâu sẽ có đàn chim bay qua...”. Có lần, chúng tôi đi đón bình minh. Tôi ngủ gà gật, lâu lâu mở mắt nhìn thấy đang đi trên con đường nhỏ, lướt qua những ngôi nhà nhỏ, cái miếu thờ cũng nhỏ. Mở mắt ra lần nữa thấy mình đứng trước một cây cầu ọp ẹp bằng tre bắc qua kinh trên con đường dẫn ra một vùng đầm phá. Mùi rêu tanh nồng. Một cái chợ nhỏ họp bên bờ đầm. Mấy bà cụ bán khoai, bán xôi cười khoe hàm răng đen bóng, giọng Huế trên môi có vần có điệu, có ngằn có ngữ, nói như hát. Ngồi cạnh là mấy chị phụ nữ với những cái rổ con con cùm nụm cùm nịu ít cá tôm. Vài tia nắng lên xiên qua làn sương mỏng. Trẻ con xoắn quần đi lại dưới đầm, chân chìm vào mặt nước dày đặc rong tảo, thong dong như đi trên bộ. Đứa bé gái bồng em nhỏ đã ngủ say trên tay, như mèo con ì ạch tha chuột, đi về phía xóm.

Tôi đứng đó, ngây dại trước một bình minh trong vắt. Nhìn người dân thong dong lội lỏm bỏm dưới đầm, tôi hỏi, “ủa, đất ở đây không lún sao ta?”. Em cười, xoắn quần, tháo giày lội xuống. Một cách trả lời. Tôi làm theo, dầm chân vào buốt lạnh của nước và cát, thảng thốt nghĩ mình từ nay không còn thản nhiên, hài lòng với những bộ phim quảng bá du lịch chiếu trên ti vi.

Bởi cái vị nồng của biển, cái rộn rã ban mai, cái không khí trong lẻo này, hay sự buốt lạnh truyền lên từ gan bàn chân không ai kể cho ai được. Những năm dài quẩn quanh nhàm chán từ nhà tới cơ quan, từ cơ quan tới quán café, lười nhác đến nỗi chỉ ngồi ở một góc quen, với cái bàn quen, tôi khoe khoang là mình đã biết Huế với những bộ phim, những cuốn sách, với lăng tẩm cung điện, và vào một buổi sáng không hẹn, tôi đứng nhìn sự biết của mình tan đi trước cái đẹp của một miền quê.

Em thì đang hăm hở lội tuốt đằng kia, chào hỏi một chị mua nước ngọt chở ra căn chòi nhỏ giữa đầm khơi. Đó những người dịu dàng, em kể khi quay lại, vì họ ít khi nào để nước sánh ra khỏi những cái thùng.

Tinh tế đến từng chi tiết. Bỗng dưng tôi nhớ những lần dặn “về nhớ kể nghe chơi”, bản thân việc đó gây buồn, cho em và cho tôi. Sẽ không khó khăn gì, nếu em thuật lại, ngày thứ nhất đến đâu, nơi ấy có những cảnh đẹp nào, món ăn gì, cùng vài chuyện đáng nhớ nho nhỏ. Tiếp theo là hành trình của ngày thứ hai, thứ ba… Dĩ nhiên, những bức hình chụp bằng cái máy ảnh cà tàng của em cũng là một cách kể. Thác nước, khúc sông trôi, hoa phượng tím, bên bờ rào thưa có đứa trẻ chăn bò… Tôi gật gù gật gù, ừ đẹp quá, mắc cười quá, dễ thương quá.

Nhưng em đã mang về một dòng suối, cánh rừng, dòng sông… câm lặng. Em không thể xê dịch không gian và thời gian để đưa tôi tới cảm giác tan đi dưới dàn đồng ca rền rĩ, buốt nhức của những con ve mùa hạ, lẫn trong nó là cái âm thanh trong lẻo thanh thoát của dòng nước chảy lỏn lẻn qua khe đá. Và gió và nắng, chúng lung linh, sống động đến nỗi, ở trong nó người ta không bắt kịp bằng tất cả các giác quan của mình.

Sau vài chuyến đi rong, tôi nói tôi phải bắt đền em, vì mỗi sáng ra đường đúng lúc máy bay cũng ngang qua, tôi chênh chao quá. Bởi với tôi, nó là biểu tượng xê dịch, là bài hát lên đường. Em cười, lại rủ rê, “vài bữa xuống Rạch Gốc nè, xách ba lô đi cho vui”. Cái xã ven biển tôi đi công tác cả chục lần, nhưng đi với em mới thấy nó… đẹp đến giật mình. Em khiến tôi từ bỏ thói mặc cả, kiểu như nếu tôi đi thì tôi sẽ được gì, tôi “hy sinh” nhiều vậy thì tôi “có” gì? Đông Bắc hứa có núi và rừng. Dãi đất miền Trung hứa hẹn cát trắng và biển cả. Tây Nam Bộ hứa bằng những con người tử tế, dễ thương. Nhưng em chứng minh được một điều, nếu không nhận được lời hứa nào, tôi cũng thấy mình có nhiều. Đi là tới, là được, là có. Chẳng thể hứa một buổi trưa nóng rẫy, chúng tôi nhìn thấy bụi cỏ bên đường nở hoa trắng muốt, dù lá cỏ bị giẫm nát bởi những dấu chân trâu. Chẳng ai hứa, những gì chúng tôi sẽ nhìn thấy, cảm nhận suốt cuộc hành trình, tổ chim sẻ chon von trên vai pho tượng Phật, bài hát của những người yêu nhau trên những ngọn núi cao, những cụ già mót khoai bên rẫy, nụ cười của em bé Simacai khi một tay cầm chim đứng đái, tay kia vẫy khách không ngừng. Ai mà hứa được những cái đẹp, cái chua xót, xốn xang không ngừng tuôn chảy trên mỗi bước đường?

Và cứ mỗi lúc tôi đứng ngây ra trước vẻ đẹp bình dị của vùng đất nào đó, em kín đáo ngó tôi cười tinh quái, “mê rồi hả chị?”. Trong ba lô em có cái bản đồ xếp làm tám, mỗi khi em chỉ vào một chấm nhỏ nào trên đó, “chiều mai mình sẽ tới đây nè”, bỗng dưng tôi cảm giác có sương rơi.

Nhưng không phải lúc nào cũng có sương, có hoa, có nắng, có những cái đẹp rạng ngời. Luôn xảy ra những trục trặc không lường trước. Chẳng nhằm nhò gì, em biết thiền theo kiểu của mình. Không thèm nôn nóng hay cáu giận bởi những bất trắc, chiếc xe chết máy, bể bánh, hay khi lỡ chuyến tàu, hoặc thời gian chờ đò quá lâu… em sẽ rảo quanh, trò chuyện với người dân ở đó, tìm hiểu tên gọi của một loại hoa cỏ lạ. Có lần xe dừng trước đèn đỏ, em chỉ vào những người nhăn nhó sốt ruột đi xe máy đứng quanh, khều tôi “mắc gì phải vậy. Để dành ba mươi giây chờ đèn đỏ để nhớ tới một đứa bạn đã xa, hỏng phải tốt hơn sao?”.

Có cảm giác em không để trống bất cứ giây phút nào. Em luôn trong trạng-thái-sống. Em nói, còn sức thì đi rong ruổi xa xôi, đến khi ngồi xe hết nổi, em lội bộ lòng vòng ngắm tất cả những hẻm hóc, ngóc ngách trong thành phố. Và khi chân quá mỏi, em cũng bắc cái ghế ngồi trước cổng để nhìn mấy bà bán phở, bán tàu hủ, bán trái cây… mưu sinh trên đường.

Cả những vẻ đẹp bình thường quen thuộc đó, cũng phải biết khao khát, tìm kiếm và trải nghiệm mới có. Em nói vậy mặc dù không nói vậy.

happypack
16-11-2010, 18:36
“Sỏi đá buồn tênh” (đảo Jeju, Hàn Quốc)

Nguyễn Ngọc Tư

Những ngày đi dưới mưa thu ở Jeju, tôi thường nhớ người bạn vong niên ở Cần Thơ. Tôi với ông đều đam mê đá. Lý do có lẽ khác nhau. Tôi mê đá bởi nhìn thấy một chút mình trong đá, tồn tại tự nhiên, cứng cỏi, thô mộc phơi mình trước nắng mưa miên viễn, nhưng người yêu đá sẽ nhìn thấy ở nó sự dịu dàng. Và đó là tri âm. Ý nghĩ này đeo đẳng khi tôi nhìn thấy núi lần đầu. Giờ thì yêu đá hơn hoa. Mà, Jeju thì toàn đá và đá, muôn trùng đá. Ở giữa bữa tiệc đá, trong cơn say ngây ngất, tôi ước gì bạn cũng ở đây.

Hình thành sau đợt núi lửa phun trào hàng triệu năm trước, nên Jeju được cấu tạo từ dung nham và tro bụi, đá trên đảo thẳm một màu đen. Màu đá gợi lên sự huyền bí, dịu dàng, và một chút gì đó buồn bã, hắt hiu. Ngồi trong quán ăn bên đường, ngó mưa miên man nhỏ xuống một bờ rào đá, tôi có cảm giác, chỉ chút nữa thôi đá sẽ mềm nhão ra như đất ở quê mình.

Nhưng mưa đã triệu năm rồi, đá vẫn vĩnh cửu trên hòn đảo xinh đẹp này. Đâu cũng đá, mở mắt ra chưa thấy người đã thấy đá. Đá xếp làm rào quanh những vườn quýt trĩu quả, đá hờ hững gá lên nhau ngăn những thửa đất cây cỏ xanh mầm, đá quây lấy những đồng cỏ chăn thả ngựa. Đá xếp làm tường nhà, làm biển hiệu quán ăn, làm cọc tiêu những con đường dọc bờ biển và cả một công viên đá rộng hơn 2 hecta… Jeju “đãi” người yêu đá đến no căng, ngây ngất. Trong những khu phố sầm uất vẫn thấy đá nằm ở chân tường và những bức tượng Hareubang, mà anh bạn Ha Jae Hong chuyển qua Việt ngữ rất nôm na là “ông bác đá” làm cả đoàn cười nôn ruột. Ở đâu cũng thấy “ông bác đá” này, ven đường, bãi biển, trong những cửa hàng bán đồ lưu niệm… miệng cười bí hiểm, mắt to, mũi to, hai tay đặt trước bụng, an nhiên.

Trông bức tượng vị thần đá rất hiền hậu. Sự hiền hậu toát ra từ đường nét đục đẽo giản dị, từ cái màu trầm mặc của đá. Góp phần cho một Jeju yên ả, thơ mộng và sâu lắng, đá làm dịu lại sắc vàng quýt chín, sắc đỏ rực của rừng cây đang trút lá, sắc xanh rờn của những thảm cỏ mùa thu…

Màu đá, trong một liên tưởng bất chợt, tôi nghĩ tới màu máu đã khô rồi. Hòn đảo này sinh ra từ tro than, bắt đầu sự sống từ hủy diệt nên suốt chiều dài lịch sử của mình, đôi lúc lại từ hủy diệt, Jeju hồi sinh. Ngày 3 tháng 4 năm 1948, chính quyền Nam Triều Tiên đã đưa quân đội đến Jeju tiến hành cuộc thảm sát được coi là một trong bốn cuộc thảm sát lớn nhất thế giới. 130 làng bị đốt cháy, 12.000 người được chính thức ghi tên trong nhà tưởng niệm. Nhưng người Jeju nói con số thường dân thiệt mạng lên đến 30.000, nghĩa là sự thật chỉ là một phần ba sự thật. chỉ vài phút đứng trước phần bia của một ngôi làng, tôi đếm được 109 người họ Lee. Trong những tác phẩm của giới họa sỹ đảo Jeju về cuộc thảm sát, họ vẽ những gương mặt vùi trong đá, những hình người vắt chông chênh trên đá.
Và trên nấm mộ của những em bé vô tội, đá vẫn một gam màu xám đen u uất, như những giọt nước mắt của trời đã đông đặc lại, khóc cho sự nhẫn tâm không hiểu nổi của con người. Nhưng niềm hy vọng nơi con người lại lấp lánh ngay trong nỗi thất vọng. Tôi nghĩ tới người bạn vong niên không vì đá gợi nhớ, mà vì lời ông nói trong một bữa trà nào, người viết luôn nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh sự thật. Bài học về sự thật tôi được nghe lại ở đây, khi thông tin cuộc thảm sát đảo Jeju bị bưng bít, những nhà văn, nhà thơ của đảo đã viết, tranh đấu cho đến khi bi kịch được phơi bày. Vài người đã qua đời sau những tháng ngày bị tù đày, bạc đãi. Người kể lại câu chuyện này, tiếp tục cuộc đấu tranh này cũng là một nhà văn kiêm huấn luyện viên bóng đá. Khoát cánh tay ngắn và chắc nụi về phía biển, anh gửi lời xin lỗi về miền Trung, nơi mà người lính Nam Hàn đã gây nên những cuộc thảm sát. Anh nói về cuộc hàn gắn bằng văn học nghệ thuật, và cả bóng đá nữa, nếu có thể, giữa hai vùng đất mang nhiều nỗi đau này.

Người vẫn còn mang vết thương đã toan đi chữa vết thương cho người khác. Tôi nghĩ nghề viết và người viết cũng đơn giản vậy, chữ lành, an ủi những vết thương của người đời để làm dịu vết thương của chính mình.

Tôi rời Jeju trong cảm giác yêu lần nữa cái công việc chữ nghĩa mà tôi đang theo đuổi. Tôi mang theo một Hareubang nhỏ. Mỗi khi nhìn bức tượng, tôi lại nhớ “bữa tiệc đá” Jeju, nhớ vẻ đẹp mạnh mẽ của sự phục sinh, vẻ đẹp mãnh liệt của sự sống, và vẻ đẹp tinh tế của nỗi buồn…

Chitto
19-11-2010, 09:39
Về loạt bài của ông Trần Đại Sĩ ở trên, tôi có ý kiến thế này

1. Các quan điểm của ông bác sĩ Trần Đại Sĩ - từ khi xuất hiện - chỉ được coi là một ý kiến riêng, và chưa có bất kỳ nhà sử học nào chính thức công nhận. Thảo luận về quan điểm này đã sôi nổi khá lâu và rồi chìm đi, mà cuối cùng cũng không có công trình khoa học chính thức nào công nhận. Những chuyện kiểu này trước kia trên box Lịch sử văn hóa của TTVN (tôi đã từng làm Mod bên đó) đã nói nhiều lắm rồi, và người phản bác ông Sĩ cũng nhiều lắm.

2. Loạt bài trên chủ yếu là minh họa cái quan điểm của riêng ông ấy, không thuộc phần Du ký, mà cũng chẳng phải Lịch sử chính thống. Việc truyền bá tư tưởng của riêng ông Trần Đại Sĩ ở Du lịch thiết nghĩ là không phù hợp. Những cái này nằm ở diễn đàn Lịch sử thì hơn (nhưng nhiều diễn đàn lịch sử nhìn thấy bài của ông Sĩ là tẩy chay rồi).

3. Vì vậy, đề nghị bạn cho biết rõ mục đích của bạn khi đưa loạt bài này vào topic "du ký tuyển tập". Nếu không có lý do thuyết phục, tôi sẽ xóa loạt bài này.

happypack
19-11-2010, 13:51
Chào anh Chitto,

1. Vấn đề bên box Lịch sử của TTVN thì em chưa từng được biết vì em không có tham gia trong box Lịch sử.

2. Đây là bài phát biểu của ông Trần Đại Sỹ nên dĩ nhiên là thể hiện quan điểm của ông ấy. Em chưa hề có ý định truyền bá tư tưởng của ông Trần Đại Sỹ vì em chỉ mới đọc bài này và cũng không có nhiều thông tin về ông ta.

3. Lý do em đưa bài này vào đây vì thấy trong ấy cũng kể đến quá trình đi tìm kiếm sử liệu (các địa danh, di tích) để chứng minh cho luận điểm mà ông ấy đưa ra, chứ không chỉ đưa ra lý thuyết suông. Đi đến nhiều nơi để nghiên cứu quan điểm lịch sử rồi viết bài sau chuyến đi, cũng có thể xem là du ký phải không ạ! Mục đích duy nhất của em chỉ đơn giản là chia sẻ thông tin.

"Các quan điểm của ông bác sĩ Trần Đại Sỹ - từ khi xuất hiện - chỉ được coi là một ý kiến riêng, và chưa có bất kỳ nhà sử học nào chính thức công nhận. Thảo luận về quan điểm này đã sôi nổi khá lâu và rồi chìm đi, mà cuối cùng cũng không có công trình khoa học chính thức nào công nhận."
Theo em thấy, quan điểm của ông ta ngay từ đầu đã không được xem là chính thống nên hẳn là không có nhà sử học nào bận tâm nghiên cứu và chứng minh là đúng hay sai???

Vài dòng trao đổi, chờ ý kiến của anh!

happypack
19-11-2010, 14:06
Ba ngày đi săn “báu vật” sông xanh ở Cao Bằng (Cao Bằng, Việt Nam)
Ký sự của Đỗ Doãn Hoàng

...Rêu xanh rì, tràn ngập trong bụng nước, rêu bám theo đá và các hang hốc núi. Vì sông xanh toàn rêu tảo như thế, nên cá ăn rêu nó mới sống được, cá chỉ ăn có nhõn một thứ rêu đá, ấy là cá anh vũ, cá tiến vua. Vì hang hốc thế, nên sông mới cho đời được những con cá chiên bốn năm chục ký lô, trôi từ hang núi thăm thẳm bí ẩn trôi ra; bác cá chiên già nua, lừ đừ, đen trũi, như một quả bom tấn...
Con sông ấy bé nhỏ, xanh biếc cái màu xanh kỳ lạ lắm. Sông như được trời đất nghiền tỉ tỉ chiếc lá xanh ra, phết cái màu diệp lục vào trong nước, xanh như nước rau ngót tươi người ta hay vò cho sản phụ uống. Nhà văn Nguyễn Tuân gọi “chết danh” sông Gâm này, với cái màu xanh như “màu nước hến”.

Điều này chỉ đúng với một khúc vùng hạ du của Gâm giang thôi. Sông Gâm thượng nguồn vùng Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng, cách Hà Nội 550km), trước khi nó nhập với sông Nho Quế ở Lý Bôn, sông xanh như lá núi. Đá chồm hổm dọc sông trắng toát tinh khôi. Sông có một tẹo nước, sông miệt mài húc vào đá mà tung bọt trắng xoá. Chỗ đá mà sông không chồm lên, sông xanh như hương rừng sắc núi vậy.
Mấy gã “lục lâm thảo khấu” sống bằng nghề đánh cá dọc ghềnh thác sông Gâm thì cứ phân chất cái màu xanh nước hến mơ mộng của sông Gâm một cách... rất khoa học: sông xanh vì nó có nhiều rêu. Rêu xanh rì, tràn ngập trong bụng nước, rêu bám theo đá và các hang hốc núi. Chứ múc ca nước sông lên uống, đếch thấy sông xanh nữa đâu mà. Vì sông xanh toàn rêu tảo như thế, nên cá ăn rêu nó mới sống được, cá chỉ ăn có nhõn một thứ rêu đá, ấy là cá anh vũ, cá tiến vua. Vì hang hốc thế, nên sông mới cho đời được những con cá chiên bốn năm chục ký lô, trôi từ hang núi thăm thẳm bí ẩn trôi ra; bác cá chiên già nua, lừ đừ, đen trũi, như một quả bom tấn.Thế là tôi đang nhập hội săn cá quý, những báu vật dòng sông xanh của nước Việt.

Bài 1: Thưởng thức cá tiến vua và chúa tể lòng sông!

Các cụ có câu: nói sai thì nó phải tội cái miệng. Vu cho miệng mình cái “tội” được ẩm tửu với các sơn hào hải vị, tôi nghĩ còn phải tội cái mồm hơn nữa. Nên tôi không bao giờ dám viết sai về cái việc đã diễn ra ở bờ sông Gâm hôm nọ: tôi đã ăn thịt cá anh vũ, cá mõm lợn kỳ lạ; rồi ăn thứ cá chiên nặng gần hai chục ký lô, thịt vàng rượi như nghệ tươi, riêng bộ lòng của nó, tôi mua lại của dân chài vừa móc từ bụng cá khổng lồ ra đãi bạn bè, đã được 2 đĩa tây!

Sở dĩ tôi phải khoe một chút, ý là để cho nó thuyết phục. Chứ đọc nhiều người viết về cá anh vũ, cá chiên khổng lồ, tôi thấy bảy thực ba hư quá. Hình như họ chỉ nghe “giang hồ đồn thổi” rồi viết. Không một tấm ảnh đính kèm, không ai được nhìn thấy cái mõm lợn của con cá mõm lợn (“tên tục” của cá anh vũ). Thứ cá được vua chúa ra chỉ dụ cấp quốc gia, bắt phu phen các vùng phải đổ mồ hôi, đổ máu, xương trắng dưới đáy sông sâu hòng đi tìm về cho vua đánh chén rồi lấy sức hầu hạ phi tần. Cá anh vũ được Việt Nam và thế giới ghi trong sách đỏ cần bảo tồn bởi quý giá vô biên ấy – bà con vùng Bảo Lâm mà tôi đang có mặt cứ đơn giản gọi là con cá mõm lợn. Đơn giản có cái mõm trù trụ, sậm sựt thịt da và sù sù các vết sần trai bám đá như mõm lợn ỉ. Cái mõm ấy là thứ thời trân quý giá nhất của con cá. Cá chỉ sống ở những dòng sông nước xiết như sông Gâm, sông Lô, sông Thao khúc ngã ba Hạc; giờ các địa chỉ đỏ kia đã thất lạc mất cá tiến vua, duy có sông Gâm vẫn kiêu hùng ôm trong bụng mình loài cá quý. Chả trách, giờ đây, ngày lại ngày, vượt vài trăm cây số, cánh lái cá quý vẫn lượn lờ ven sông Gâm khúc Bảo Lâm, Bảo Lạc. Hễ ai bán cá mõm lợn là chúng a-lê-hấp, đắt bằng nào cũng mua, hỉ hả đem cá tiến vua thả vào thùng nước, cắm thêm cái sục điện sủi tăm ùng ục độn ôxy vào nữa, thế là xe máy “tay lái lụa”, bọn chúng bon thẳng về Hà Giang, Hà Nội, Việt Trì bán cho thực khách muốn “nhất dạ (hoặc nhất nhật) đế vương” nhờ ăn... cá. Giá cá anh vũ ở bờ sông Gâm đã lên tới 800.000 VNĐ/kg là vì thế.

Theo như nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết: cá anh vũ (cá mõm lợn, cá tiến vua) nhờ thụ hưởng tinh hoa của đất trời, nhờ ăn rễ của cây chiên đàn nghìn tuổi trên đó có đàn chim hạc đậu để ngắm kỳ sơn thuỷ tú tại ở vùng ngã ba Bạch Hạc huyền sử (đất tổ vua Hùng) mà nên thiêng nên quý. Cá anh vũ chỉ ăn rêu suối, nên thanh sạch vô cùng, chỉ sống ở nước xiết, nên thịt săn chắc vô cùng. Nhờ nữa: vì sống ở nước xiết, nên cá phải có cái miệng cực khoẻ để há ra, bám vào vách đá cho khỏi bị trôi đi, để cái miệng ấy hằng ngày hằng giờ cạo vào rêu đá, bóc rêu ra ăn. Cái “mồm” quá vất vả, nên cái mồm phát triển, bành ra như mõm lợn. Nói theo lối của dân thuyền chài, thì cái mõm lợn của con cá, thật ra là cái chục sần chai u mấu lên, dày bì lên vì cái miệng phải làm việc quá vất vả. Nó như bàn tay vâm váp của người lao động, như bàn tay chân có cục thịt đệm để nhảy nhót leo trèo của con mèo con gấu. Cục mõm lợn ấy là chỗ tinh tuý nhất mà vua chúa phong kiến thèm ăn nhất, thèm đến nỗi họ phải có chỉ dụ cho quốc dân đồng bào đi kiếm cá anh vũ.

Giờ đây, người ta thi nhau ăn cá anh vũ. Thứ cá này đắt tới mức hơn 1 triệu đồng/kg. Cá anh vũ đã làm thời thế ăn nhậu thay đổi nhiều, bởi nơi tiêu tốn nhiều tiền chùa nhất hiện nay, nghe nói là các quán cá. Câu được một con cá, số tiền ngư phủ thu lại nhiều hơn bán một con trâu mộng. Và một số “hàn nho” ưu thời ở Phú Thọ đã từng mách nước cho cánh nhà báo muốn điều tra về tệ ăn nhậu phung phí quá thể của “quan tham” rằng: muốn biết người ta ký kết, xin - cho trên bàn tiệc thế nào, cứ đến các quán cá có bán anh vũ ở Việt Trì. Một nón mê, một cây gậy ăn mày ngồi cửa quán, bạn sẽ thấy rõ người ta xả tiền ra cho cái thú ăn thứ mà nghe đồn vua chúa từng ăn dữ dằn tới mức nào. Tuy nhiên, đám ngưu ẩm và tục tằn đòi ăn hết cả của ngon vật lạ của thiên hạ kia rất hay bị lừa. Lý do: cá anh vũ có hình dáng và màu sắc hơn giống cá dầm xanh. Phe cá toàn cho khách ăn dầm xanh rồi nói là anh vũ, thì phàm phu tục tử, ăn gì chả giống nhau. Giữa lúc ấy, cánh “thảo khấu” săn cá sông Gâm đưa ra cao kiến: đừng gọi anh vũ là cá tiến vua, cứ gọi nó là cá mõm lợn. “Mày đi ăn cá, gọi con cá nào có mõm giống lợn ra mổ, gắp cái mõm lợn ăn luôn, thì có trời mà đánh lừa được”. Hoá ra, những kẻ thích màu mè bao giờ cũng là những nạn nhân của thói “treo đầu dê bán thịt chó” nhất.

Bỏ tiền, bỏ công thuyết phục, cuối cùng thì Hoàng Văn Khoa, một “rái cá” lão luyện của sông Gâm đã cho phép chúng tôi đi theo đánh cá quý. Chiếc mảng bé tẹo, nó gồm 8 cây nứa khô ghép lại, hai thằng nặng ngót tạ rưỡi, chưa kể mấy chục triệu tiền dụng cụ máy móc của tôi – gã nhà báo, và ba chục ký lô chì sắt của chài lưới mà Khoa mang theo. Con mảng run rẩy ngược ghềnh thác sông Gâm trong chiều chạng vạng.

Vách núi đá Pác Miều, cũng là bờ hữu sông Lô nó cao tới mức, tôi, Khoa và chiếc mảng chỉ bé như con kiến bò quanh chiếc bánh ga tô khổng lồ. Không tìm thấy đường chân trời, mảng hút vào một vách nước sâu. Sương phủ trên dòng sông xanh tịch mịch. Xung quanh là những cuộc giao hoan kỳ lạ, đầy nhục cảm và thần bí. Bởi bây giờ đang là mùa mà trời ấm dần lên, mưa lây rây, cá chép nín chờ suốt mấy đợt rét đậm rét hại, giờ túa lên cùng “vật đẻ”. Rất là xuân tình. Con cá chép nặng tới 6 ký lô, vàng ruộm như con cá trong ông lão đánh cá và con cá vàng. Chép ta vật đẻ. Nước đục ngầu. Tiếng hò hét của chúng tôi, bóng đèn pin soi thẳng vào mặt cá, mặc! Cá vẫn vật đẻ ào ào. Bọn cá cái đi đến đâu là nước sông đục ngầu tới đó, như có muôn loài thuỷ tộc đang tấn công vò nát các bãi cỏ, mép rừng ven sông vậy.

Văng vẳng, cuồng liệt, đục ngầu, hoang dại. Mấy tay phàm ăn ở Bảo Lâm chỉ quăng chài một cái, vồ được 70kg cá chép vật đẻ với hàng triệu triệu quả trứng bé xíu trong bụng cá. Cơn say nhục dục và thiên chức làm mẹ thật hãi hùng. Có cái gì đó hùng thiêng nữa. 70kg cá nằm trong chài, gã kia không dám nhấc chài lên, cứ nằm ườn ra mặt nước sâu chỉ hai gang tay mà giữ cá. Bắt dần. Mặc, các con cá đực cá cái khác vẫn xông vào bãi cỏ ven bờ để “vật đẻ” như thiêu thân. Khi cá dầm xanh vật đẻ, người Bảo Lâm chỉ việc đem cái màn tuyn ra, trải trước màn xuống vũng nước mà năm nào cá cũng vào đẻ. Cá đi như một đàn ong bay là là mặt nước, lưng cá xanh rì, đen thẳm lúc nhúc. Bà con người Tày gọi theo tiếng bản địa, ấy là hiện tượng “khỉn coong”, nghĩa là đàn cá bay lên hình chum vại tròn, tức là cá cứ cuốn nhau bay lập lờ trong nước, thành những cuộn cá đục ngàu, tròn như cái chum. Cái chum ấy lăn vào bờ, bà con chỉ việc nhấc cái màn tuyn lên, bắt toàn bộ những con cá béo mẫm. Họ ăn thịt hàng triệu trứng cá, những con cá con chưa kịp ra đời.

Bạn Khoa, gã Tuấn (vợ là Tuỳ), vợ chồng nhà Yên Nông xông vào bắt cá vật đẻ, Khoa cười khẩy đi tít hút lên đầu thác thượng nguồn. Hắn bắt đầu giăng lưới săn cá anh vũ. Một con anh vũ tiền triệu, tội gì. Hôm qua, tôi với thằng Phe đi bắt ở khúc sông trên, được con cá chiên 18kg, trị giá bán gần 4 triệu đồng, tội gì mà đi săn cá vật đẻ cho phải tội đàn cá con. Khoa rất đắc chí với “sự tử tế” này, lưới buông rồi, hai con át bích đen trũi xăm trên hai bắp tay hắn sun lại một chút. Mặt hắt sứt sẹo, mụn nhọt đến nỗi tôi và hắn ngủ chung một khoang thuyền rồi, tôi vẫn không thể xoá bỏ ý nghĩ về sự bệnh tật và cướp bóc đã và đang tại trong hắn. Khoa bảo: bắt cá dầm xanh, cá chép vật đẻ như thế là ác với dòng sông. Chẳng thà cứ để hàng triệu con cá nhỏ ra đời rồi bắt dần có phải tốt không.

Riêng cái khúc chảy qua thị trấn Bảo Lâm, mỗi năm sông Gâm nuốt mất dăm ba mạng người, có khi cũng xuất phát từ cái sự xử ác của người ta với dòng sông xanh bí ẩn?

Cuộc đi săn vẫn đang hứa hẹn nhiều kỳ thú...

(còn tiếp)

happypack
19-11-2010, 14:10
Ba ngày đi săn “báu vật” sông xanh ở Cao Bằng (Cao Bằng, Việt Nam)

Ký sự của Đỗ Doãn Hoàng

Bài 2: Cuộc trò chuyện hiu buồn trên sông Gâm

Cá Trầm hương ăn rễ cây trầm hương nên thịt có mùi trầm hương kỳ lạ lắm. Hiếm lắm mới có thể bắt được một con. Còn những loài cá khác thì nhiều hơn... Khi đám cá chép vật đẻ cuồn cuộn lăn như những cục bùn tròn rọc rạch ra giữa sông, lũ người tàn nhẫn quăng chài giết các sản phụ cá cũng bỏ về sạch bách. Chỉ còn tôi và Khoa trên sông Gâm trong chiều nhọ tối ấy. Tôi đã xót xa khi thấy người ta trải tải xác rắn bẩn thỉu ven tỉnh lộ, bán những con chép “vật đẻ” to như cái quạt nan, bụng căng tròn, óng vàng, mỡ màng, toàn trứng. Có khi họ vứt được cả tảng trứng to bằng hai bàn tay người lớn đem bán ụ xoẹ, hí hớn đến tàn nhẫn.

Nghe đồn, kỳ vật đẻ là khi mà thịt của con cá ăn ngon nhất. Nửa tiếng quăng chài, thanh niên thị trấn Pác Miều khênh về cả tạ cá chép chửa kềnh, có con nặng 6kg về nấu lẩu. Con cá đựng trong cái khay lớn, gã trai tráng bê đi đã phải khệ nệ. Khoa bảo tôi: bọn cá chép si tình, nó dại lắm.

Cá anh vũ và cá chiên chỉ sống ở nước xiết và chỉ sống trong các hốc đá. Nên khi các hồ thuỷ điện lớn ra đời, cũng là ngày đám cá quý bắt đầu tuyệt chủng dần dà. Nhưng, trên dòng sông xanh, vì đặc trưng sống trong hốc đá, trong các dòng sông ngầm sâu hút bí ẩn, nên cá quý mới tồn tại được đến bây giờ. Dẫu số lượng chả còn là bao.

Khoa tiếc nuối:
“Cách đây độ bảy tám năm, bọn thợ dùng giã nhủi, xiết điện với những bình ắc quy lớn đi giết cá sông Gâm ghê lắm. Họ ném mìn ùm ùm, mìn đánh bật cả những tảng đá lớn ra khỏi vỉa núi. Đá ở đáy sông dường như cũng rung lên từng chặp. Rất nhiều loài cá, cả ba ba, rắn nước, cả những con dải lớn như cái mâm cùng chết, nổi trắng mặt sông. Nhưng cá anh vũ không chết, cá chiên không chết. Lũ cá chui cả vào các hang đá sâu”.

Dòng sông ngầm có khi xuyên qua thị trấn, xuyên qua vách đá cổng trời. Ở đó là vương quốc mà con người có thể không bao giờ đụng đến được. Dòng sông ngầm lấy nước từ cửa nhận phía tỉnh Hà Giang, đi miên man trong núi, có khi hứng chí lên, nó phun ra ào ạt ở phía tỉnh Cao Bằng, hoặc ngược lại. Loài người có thể chinh phục mặt trăng, nhưng chửa biết đến bao giờ bí ẩn về những hang núi hàng chục cây số nước chảy ào ạt giữa âm ti địa ngục kia được giải mã. Nghe đồn, ở đó cũng có đủ các loài “thuỷ tộc” như ở sông Gâm, sông Đà, sông Hồng - chỉ có điều khác lạ là: con vật nào cũng trắng bợt, trắng tinh, trắng toát và lành như cục bột. Bởi nó sống trong đá, trong nước, trong hang tối vĩnh cửu. Không bao giờ trông thấy ánh mặt trời.

-Thế đánh cá anh vũ bằng quăng chài có được không? Tôi hỏi.
- Ít được lắm – Khoa nói – Vì cá anh vũ khôn ranh, ít ra khỏi hang khi có những xung động lạ, như tiếng chân người lội nước, tiếng chiếc bè mảng rẽ nước. Chỉ có thể dùng lưới nhỏ. Cá anh vũ, cá tiến vua, ít khi có con nào nặng hơn 2kg. Giống cá này thon người, mảnh khảnh, ăn uống thanh bạch với rêu suối và chút bùn sạch sẽ do rêu suối cào đọng lại trên đá phiến. Cá há miệng cạo rêu, cặm miệng vào vách đá mà níu giữ thân mình trong dòng chảy xiết. Hãn hữu lắm nó mới bơi lượn kiếm ăn nhẹ nhàng. Đó là cơ hội để lưới nhỏ có thể “vướng” phải cá tiến vua. Phải biết chọn những hang nước sâu, hoang vắng. Rêu phủ trên bờ và dưới các gầm đá thật nhiều, nước trong vắt mà bủa lưới, thì mới mong đánh được cá mõm lợn. Trước, bọn em phải uống nước mắm, rồi cầm ống thở lặn xuống, dò tìm bắt cá anh vũ trong cách hang đá đáy sông. Nhiều thằng chết không kịp ngáp vì dính ngạt, vì bị các xoáy nước ngầm cuốn đi. Lặn như thế, có khi em dùng xiên đâm chết những con cá chiên to bằng con lợn tạ. Nó bơi như cái tàu ngầm, râu dài thượt, vắt vẻo, trông hãi lắm.

Là con thứ 5 trong gia đình nghèo gồm 7 anh chị em ở xã Lý Bôn (huyện Bảo Lâm, Cao Bằng). Quê Khoa là nơi ngã ba sông Gâm gặp sông Nho Quế. Hai con sông biên thùy xa ngái, chảy giữa điệp điệp đá núi hoang vu ấy đã dạy cho Khoa biết cách chiến thắng các loài cá tinh ranh nhất. Học xong Trung cấp nông lâm nghiệp dưới Quảng Ninh, về địa phương hỏi đâu người ta cũng đòi “lót tay” thì mới xin được việc. Nhà Khoa nghèo, thành thử ai cũng quầy quầy xua tay khi thấy mặt Khoa, rằng chỗ chúng tôi “chưa có chỉ tiêu”. Chán nản, Khoa xăm trổ thêm vài vệt xanh như rắn lục nữa ở bắp tay, hắn vận quần cộc xuống sông sinh sống.

Cá gì Khoa cũng bắt, từ đòng đong cân cấn cho đến những con cá chiên nặng ngót 50kg. Bán tất. Cánh lái cá khắp Bắc Mê (Hà Giang), khắp Cao Bằng, Việt Trì, Hà Nội đều tìm đến Khoa. Hắn giờ coi khinh các loài cá rẻ tiền khác, chỉ chăm chắm đòi làm giàu nhờ tài sát cá anh vũ và cá chiên. Khoa bảo, một con cá to, có thể mua được một cái xe máy Tàu. Một con anh vũ, bán cái mõm lợn của nó, có thể mua được cả con bò mộng, tội gì. Hắn coi cá anh vũ và cá chiên như cái lộc lá của trời. Hãy trân trọng và lành lẽ sống với sông, giăng câu bình tĩnh và sáng suốt là bắt được cá tiến vua.

Chợt một con anh vũ mắc lưới. Tôi và Khoa cũng rú lên sung sướng. Tôi rú lên vì tò mò là chủ yếu. Mắt Khoa sáng rực, vì cả triệu đồng, chống đói được trong cả tháng đã lọt vào tay hắn. Khuôn mặt sần sùi mụn nhọt và xanh lục những xăm trổ của Khoa khó nhọc nở một nụ cười: “Em chưa vợ, thành thử lang bạt tứ chiếng, đời lắm lúc cũng thấy nhàn”.

(còn tiếp)

happypack
19-11-2010, 14:12
Ba ngày đi săn “báu vật” sông xanh ở Cao Bằng (Cao Bằng, Việt Nam)

Ký sự của Đỗ Doãn Hoàng

(tiếp theo và hết)

Hắn nằm trên bè mảng như lão thi nhân đang du sơn du thuỷ:
“Cách đây mấy năm, em từng đi khắp các con sông vùng núi phía Bắc nước mình đánh cá. Quần đùi. Xe máy Tàu, khênh chài lưới đi. Nhớ mãi, năm ngoái lên đỉnh Lũng Pù, theo sông Nho Quế vượt sang vùng Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Vứt xe ở nhà người Mông, đi bộ nửa ngày mới tới con sông mà đứng trên bờ mình vẫn trông thấy nó xanh biếc trong mây. Bọn em phải dùng dao, đẽo cái thang gỗ dài, phải 19 lần bắc thang thì mới vượt qua được những vách đá ấy để xuống sông. Quăng chài chỗ nào cũng có cá. Đánh một buổi mà thu được gần 3 tạ toàn cá chiên to, phải thuê người trong bản xuống khênh cá lên đường nhựa, dùng xe máy chở về. Đi đến kiệt sức, nhưng cái giống tham lam của sông nước nó vậy, về đến nhà, cá chết sạch, ươn thiu, bán tống bán tháo hết”.

“Bấy giờ ở vùng này ít người mua cá lắm. Mãi gần đây mới có đường vào, cá mới được giá nhờ lái buôn nó lùng sục. Chứ, độ em đi đánh cá bên Hà Giang, cá chiên to như thây người nằm sấp. Cá để trên yên xe, đi trên đường, cá quẫy mạnh một cái là tay mình lái không vững nữa. Ngã bổ nhào vì một con cá quẫy. Cá đem về, ăn không hết, ngâm nước muối, nước gừng, treo cả lên gác bếp. Con cá chiên to như khúc gỗ, da đen bóng, cứ treo ở đó. Thỉnh thoảng nó mục dây lạt, con cá lớn rơi xuống như quả mít đại tụt nõ. Con nào không khô thơm, bố mẹ em toàn cắt dây lạt đem xuống nấu lẫn rau chuối làm chất tanh cho lợn ăn!”.

Tôi hỏi:
“Cá chiên giờ thành đặc sản, cá anh vũ thành đặc sản từ thượng cổ. Mỗi con giờ tiền trăm tiền triệu cả, nhưng các cậu đã ăn no những loài cá quý này từ ngày còn bé, đúng không?”.

Khoa văng tục, rồi thật thà:
“Em ăn mãi cũng chán. Nhưng phải nói con cá anh vũ vô cùng ngon nghẻ. Cái bộ lòng cá chiên, thì đúng là tuyệt hảo. Cả con cá, không bỏ bất cứ cái gì. Con cá chiên bốn năm chục cân, đầu nó cứng như hòn đá tảng. Nó ở lâu trong hang, đá đóng cả vào đầu nó. Bố em thịt cá xong, toàn giữ lại cái đầu cá bóng như đồng, đen đặc như đá tai mèo ấy để làm đá mài dao! Nhưng bây giờ, bắt được cá anh vũ với cá chiên, chả tội đếch gì mà em phải... ăn. Em bán nó đi, số tiền ấy đủ mua vài con chó tơ về thịt, cả xóm cùng ăn, rõ ngon. Con cá mõm lợn bé tẹo, bõ bèn gì!”.

“Cá vùng này còn nhiều lắm. Cấm nổ mìn là cá sẽ ra. Cá ở trong hang của cái ngọn núi cao nghìn mét kia kìa. Nước ấm, trời hửng là cá lại kéo nhau ra. Nó là vô tận. Như 3 cái mó (mỏ) tôm nổi tiếng ở khu vực Bảo Lâm này này. Đây là mỏ tôm nhà Tâm Phượng, ông này nổi tiếng toàn huyện, gia đình ông bao “ăn lộc” ở cái mó tôm này. Sáng mở mắt ra là ông có rổ tôm đem đi bán. Nước ấm trong núi đá vôi điệp trùng hang hốc tuôn ra, kèm theo đó là tôm. Thứ tôm thịt thơm mà bùi kỳ lạ. Tôm sống trong đó cả núi, mỗi ngày nó ra một ít. Ông Phượng có 3 người con trai, ông chia gia tài cho các con ra ở giêng bằng cách chia 1 tháng ra làm 3 lần 10 ngày, mỗi thằng con “canh giữ và thu hoạch” mó tôm trong 10 ngày/tháng. Trước, cãi cọ nhau, thù hằn nhau, ai đó đã bỏ lá độc vào mó tôm nhà ông Phượng Tâm, nhưng, tôm bỏ đi ít ngày rồi tôm lại về, lại tràn ra cửa nước sông Gâm như cũ. Cá chiên, cá anh vũ cũng như tôm, nó ở trong hang, tốt với nó thì nó ra vài con. Chứ như người ta làm hệ thống kè đá quanh thị trấn này là giết chết các loài cá quý. Hết hang hốc, hết thức ăn, xả rác xuống sông, cá anh vũ, cá chiên bỏ đi sạch bách! Cá anh vũ, đánh mìn không giết được nó, nhưng nước lặng, nước bẩn và hết hang hố, là nó tự chết đi hết”.

Câu chuyện thời sự nhất trên thuyền của gã ngư phủ được học trung cấp nông lâm giờ chuyển sang... đầu gấu này là sự tuyệt diệt của các loài cá quý. “Em đọc trong sách, người ta bảo cá anh vũ đi vào sách đỏ. Rất quý, nhưng, điều đáng nói hơn, vào sách đỏ tức là sắp... tuyệt chủng!”. Giờ, công phu lắm mới bắt được một con anh vũ. Mà lái buôn đến ngay, họ chở đi Việt Trì, Hà Nội ngay. Cá chiên thì vẫn bắt được, nhưng cả năm mới được một con cá to. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Cá anh vũ có tên là Giả Ngư. Hằng năm, cứ đến mùa rét mới có. Vị cá rất ngon mà âm bổ”. Còn trong “Dư địa chí” của cụ Nguyễn Trãi, cá anh vũ được tôn xưng rất đáng mặt anh hào: “Cá anh vũ được dùng làm vật để cúng tế thần linh”, “để tiến vua”.

Có lẽ vì cái sự quý thật sự và quý trong sử sách ngàn năm này, mà anh vũ bị săn lùng ráo riết. Ai cũng muốn được ăn theo cái lối mà vua chúa từng ăn, bất biết mình đang bị đánh lừa ăn cá trôi, cá trắm hay cá dầm xanh gì đó. Họ ăn sạch bách sông ngòi. Đến mức, vừa qua, Bộ Thuỷ sản đã chính thức có lời kêu gọi người dần cần có ý thức bảo tồn, vì 4 loài cá quý của hệ thống sông Hồng đang bị tuyệt diệt, trong đó S.O.S đầu bảng là cá anh vũ. Thông tấn xã Việt Nam mới phát lên bản tin đáng sợ: 15 quán cá ở Việt Trì khá nổi tiếng, trung bình mỗi ngày có 500kg cá quý bị làm thịt ở đây. Sông ngòi phía Bắc bị lái cá săn lùng ráo riết. Cá anh vũ, cá lăng, cá chiên bị diệt từ khi còn... chưa nứt mắt.

Rồi, chúng ta sẽ vĩnh viễn không được nhìn thấy các cái của thời trân của sông ngòi đất Việt nữa, buồn thay. “Ngũ quý hà thuỷ”, là 5 loài cá quý, ngon, thiêng của sông hồ phía Bắc, trong đó đầu bảng là cá anh vũ, giờ đang trốn chạy khỏi sông ngòi, trốn chạy khỏi sự săn lùng tàn độc của những cái miệng phàm phu.

Khoa và Phe, hai thợ săn cá nổi tiếng của hơn 200km sông Gâm chảy trên địa phận Việt Nam cùng rượu với tôi trong gió lạnh bờ sông Gâm. Chúng tôi đều so ro. Rúc chân tay vào món lưới và những quả chì lạnh ngắt của bó chài tìm hơi ấm, Phe bất bình: “Bọn người ở đâu nó toàn đến khúc sông này bắt cá con, cá anh vũ con, cá dầm xanh con đi bán. Họ bắt đầu nuôi cá anh vũ trong ao. Mùa cá đẻ, người ta bắt cá mẹ, giết từng cục trứng cá tròn kỳ lạ (chứ trứng cá chiên không giống hình hạt vừng như cá chép). Sông này rồi sẽ hết cá”.

Tôi kể, tôi từng viết, từng sống nhà Giàng A Sềnh, người chuyên nuôi cá anh vũ ở xã Thuý Loa, Nà Hang, Tuyên Quang ở khúc sông Gâm cách chỗ tôi và Khoa, Phe ngồi cả trăm cây số “thuỷ lộ xanh rì”. Thứ cá anh vũ nuôi trong ao, cũng cần nước chảy xiết, cần có rêu và có cám cò để cho ăn thì nó mới sống được; nhưng ăn như cá... trắm cỏ. Viện Thuỷ sản cũng mua cá anh vũ nhầng nhầng về nuôi, nuôi vài tháng cá chết không còn con nào. Cá nhà A Sềnh ăn cả cám cò thay vì ăn độc một thứ rêu suối thanh tao trên sông Gâm như con cá mà tôi và Khoa đã bắt được, cá của Sềnh, nếu tiến vua thì có khi người “tiến” sẽ bị tru di cửu tộc.

Khoa, Phe sung sướng, đắc ý và kiêu hãnh nhảy chồm ra mặt nước. “Đúng! So với con anh vũ của em, thì có khác gì so thịt con gà công nghiệp với thịt gà rừng. So gà trống với con chim công!”. Cá anh vũ, cá chiên nó khoảnh tính thế, nuôi không được, đánh mìn không chết. Nhưng sự tàn độc của con người làm thay đổi dòng chảy của sông, làm nước dâng lên, sông không còn xiết nữa, làm môi trường ô nhiễm, cá quý sẽ tự “cắn lưỡi” tuẫn tiết mà thôi. Có thể, cũng vì cái sự mong manh đó, cá mới trở nên thiêng, nên quý? – tôi chua chát tự hỏi.

Chúng tôi khao nhau bằng cách làm thịt một cá anh vũ mõm lợn. Bộ lòng khổng lồ của con cá chiên, là giấc mơ của vua chúa phong kiến, rồi cũng nằm trên cái bàn gồ xù xì mốc thếch mà chúng tôi đang cụng chén “ngưu ẩm”. Mừng một “phường săn” ghềnh thác đã cập bến an toàn. Nhưng, các “báu vật lòng sông xanh” đang không được an toàn. Việc chúng bị huỷ diệt là nhãn tiền, nếu chúng ta không có phương kế gì hữu hiệu hòng bảo vệ. Ai đó vẫn hằng bảo “bóng chim tăm cá”, “cứt cá lá rau” – chim cá là những vưu vật của Trời, biết thế nào mà chiếm hết được, biết nó ở đâu để mà bảo vệ. Nhưng, với cá anh vũ và cá chiên, hình như câu nói này chưa hẳn đúng.

Cao Bằng – Hà Nội, xuân 2008.

bluesky85
19-11-2010, 15:14
Tôi cũng có cái thú sưu tập ảnh đẹp thể loại du lịch và các bài bút ký du hành, xin góp vui cùng bác happypack...

---

Nền văn minh Inca, đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ thế kỷ 15-16, với lãnh thổ trải dài 4.000km từ bắc xuống nam bao gồm các quốc gia hiện nay là Peru, Ecuador, một phần các nước Colombia, Bolivia, Argentina và Chile.

Peru ngày nay mang trong mình những kỳ quan huyền bí có sức hút mạnh mẽ với du khách: thành phố đá Machu Picchu, cung đường Inca, những hình thù bí ẩn rộng 500km2 trên sa mạc…
Mời bạn đọc cùng phóng viên Tuổi Trẻ du hành đến các di sản huyền bí này.

Peru - Những kỳ quan huyền bí

Kỳ 1: “Con cháu thần Mặt trời”

Hơn mười giờ bay từ Mỹ, tôi đặt chân đến Peru đã gần 1 giờ sáng. Để tiết kiệm 30 USD thuê khách sạn, tôi tìm một góc nào đó tại sân bay rồi ngả lưng chờ trời sáng. Sáu giờ sáng, tôi đón taxi vào trung tâm, tìm đường lên Puno - điểm khởi đầu của cung đường lang thang - cách thủ đô Lima hơn 1.000km.

“Bãi rác của xe hơi”

Người ta nói Peru là bãi rác của xe hơi quả thật chính xác. Peru rất hiếm xe máy, chỉ toàn xe hơi nhưng hầu hết là xe đời cũ từ thế kỷ trước. Chiếc taxi chở tôi móp méo và đầy “sẹo”, cửa kính quay bằng tay nhưng quay mãi không chịu lên. Qua ổ gà, cả xe và người cứ rung lên bần bật. Gần tay lái có treo lủng lẳng một chiếc giày trẻ em bé xíu, cũ kỹ. Người tài xế giải thích bằng thứ tiếng Anh bồi pha Tây Ban Nha: “Bùa đấy! Nếu trên đường bắt được một chiếc (không phải đôi) giày của trẻ con mới biết đi, đó là điều cực kỳ may mắn. Người Peru tin rằng những bước đi của trẻ con sẽ dẫn họ những bước đi đúng đắn, tránh những tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra” (trong suốt gần hai tháng lang thang, thỉnh thoảng tôi vẫn thường thấy điều này trên các chuyến xe khắp Peru).

Những tưởng chiếc taxi này chiếm ngôi vô địch xe “cùi” ở Peru rồi nhưng chạy ra đường mới thấy nó vẫn còn tốt chán so với các xe khác. Đường nhỏ, có dải phân cách nhưng xe cứ chạy tán loạn, vượt cả đèn đỏ. Kinh khủng nhất là tình yêu âm nhạc của ông tài xế. Trên xe mở nhạc ầm ĩ, vừa lái ông vừa lắc lư, hát theo một cách hào hứng. Đến đoạn cao trào, ông bỏ cả tay lái, vỗ tay, vỗ đùi, lắc hông nhún nhảy theo bài hát… Cũng may là đoạn đường từ sân bay đến trung tâm không xa.

Những gương mặt khắc khổ

Vị thần tối cao của đế chế Inca chính là thần mặt trời Inti. Vì thế, người Peru vẫn tự xem mình là con cháu thần mặt trời. Thế nhưng con cháu thần mặt trời, hậu duệ của đế chế Inca hùng mạnh ngày nào, bây giờ cũng phải mưu sinh gian khó. Tại quảng trường trước phủ tổng thống ở thủ đô Lima, nhan nhản em bé, thanh niên, bà già cầm những bịch kẹo rẻ tiền, những cuộn giấy vệ sinh tính luôn vốn giá chỉ khoảng nửa sol (đơn vị tiền tệ Peru, 1 sol = 6.000 đồng Việt Nam). Trong khi đó, một bữa ăn trung bình tại Lima giá 4-5 soles. Họ rao, mời mọc nhưng không chèo kéo, toàn những gương mặt khắc khổ.

Peru có rất ít trạm điện thoại công cộng, thay vào đó ngay mỗi góc đường đều có những cô gái, thanh niên cầm sẵn vài cái điện thoại di động để khách qua đường thuê gọi năm hào/phút (3.000 đồng VN). Vanessa, cô điện thoại viên 15 tuổi, cho biết: “Tôi bắt đầu làm từ 7g sáng và kết thúc vào 20g30, một tuần bảy ngày được trả lương 300 soles (khoảng 100 USD/tháng)”. Đó là may mắn, có người phải đạt chỉ tiêu có khách gọi đủ 400 soles/ngày mới được tiền lương là 8-10 soles/ngày (khoảng 60.000 đồng VN). Không đủ chỉ tiêu thì chỉ được bao cơm, không có lương. Nhẩm một phép tính đơn giản, nếu trung bình mỗi người gọi một cuộc hai phút (tương đương 1 sol) thì một ngày họ phải mời được 400 khách gọi. Những điện thoại viên di động như vậy nhiều vô kể ở mỗi góc đường.

Cuộc bạo động lúc nửa đêm

Đoàn chúng tôi có bảy người: tôi và ba đôi tình nhân từ Anh, Bỉ và Canada. Theo lịch, sáng 8-7 chúng tôi sẽ lên xe buýt đến điểm xuất phát đầu tiên từ km82 ở độ cao 2.600m để bắt đầu con đường Inca huyền thoại. Tuy nhiên, 19g30 tối trước ngày xuất phát, tôi bỗng nhận cú điện thoại triệu tập bất ngờ: “Ngày mai cả nước biểu tình, mọi ngả đường đều bị chặn. Cả đoàn phải xuất phát ngay trong đêm nay, lúc 23g đêm”. Tức tốc lên mạng, hàng loạt đại sứ quán các nước đều thông báo khẩn: “Bạo động có thể xảy ra, mọi người không nên ra đường vào hai ngày 8 và 9-7”. Không phải chỉ riêng đoàn tôi, những nhóm ở đoàn khác cũng lên xe buýt đến điểm tập kết trong đêm.

Hướng dẫn viên đã nói sai. Mọi ngả đường không phải bị chặn vào ngày mai, mà ngay trong đêm chúng tôi khởi hành. Vừa ra khỏi trung tâm thành phố Cuzco không xa đã thấy những đống đá to trên đường. Xe chạy thỉnh thoảng phải dừng lại, mọi người xuống xe, dẹp đá vào vệ đường rồi tiếp tục.
Tuy nhiên, mọi việc trở nên căng thẳng khi gần đến điểm xuất phát. Đường mỗi lúc một nhỏ, đất đá đổ ra đường ngày càng nhiều. Đang cặm cụi dẹp đá thì một nhóm người với gậy gộc trên tay, mặt mũi đằng đằng sát khí bước đến: “Ai cho tụi mày dẹp?”. Hướng dẫn viên người Quechua chạy đến giải thích. Hồi lâu, chúng tôi - những khách du lịch nước ngoài - được đi tiếp nhưng phải đi bộ. Xe buýt, hướng dẫn viên cùng những người khuân vác phải ở lại vì “tụi mày là người của chính quyền”.

Một số người quá khích nhảy lên xe la hét um sùm, họ lôi cái bánh xe dự phòng trong xe đem ra đốt. Hướng dẫn viên nói nhỏ: “Xin các anh im lặng mà đi. Bất cứ kháng cự nào sẽ dễ xảy ra chuyện lớn”. Cũng may điểm tập kết chỉ cách gần 1 giờ đi bộ. Chúng tôi đi mà lòng cứ lo ngay ngáy, vừa lo cho những người khuân vác ở lại, vừa lo không biết sẽ ngủ ở đâu vì những người khuân vác giữ hết lều, túi ngủ. Hơn 3g sáng, những người khuân vác đến. Họ phải đi ngược lại, kiếm đường vòng băng qua suối để đến nơi tập kết.

Giấc ngủ muộn, chập chờn chuẩn bị cho con đường Inca sắp đến.

(Nguyễn Tập - Nguồn: Tuổi Trẻ Online)


http://farm5.static.flickr.com/4018/4249189276_83b4719c48_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/8230500@N04/4249189276/)
Lima (Perú). Palacio de la Unión. (http://www.flickr.com/photos/8230500@N04/4249189276/) by josemazcona (http://www.flickr.com/people/8230500@N04/), on Flickr

http://farm3.static.flickr.com/2212/2496007821_99bb314e89_z.jpg?zz=1 (http://www.flickr.com/photos/ljubs/2496007821/)
Lima antigua. Peru. Jiron Ancash que lleva a la Iglesia San Francisco. (http://www.flickr.com/photos/ljubs/2496007821/) by Bracani....Antonio (http://www.flickr.com/people/ljubs/), on Flickr

--- còn tiếp...

bluesky85
19-11-2010, 15:24
Peru - những kỳ quan huyền bí

Kỳ 2: Cung đường Inca huyền thoại

Chưa đến 100 năm, với bàn tay và công cụ thô sơ, người Inca đã làm nên một kỳ tích: xây dựng một hệ thống đường với tổng chiều dài gần 23.000 km (hơn một nửa chiều dài đường xích đạo).

Trong hàng ngàn con đường được xây dựng thời kỳ tiền Columbo tại châu Mỹ, cung đường Inca đáng được chú ý nhất. Tuy nhiên, nổi tiếng và được giới balô chuyên nghiệp ao ước có cơ hội được đi nhất là đoạn đường từ Ollantaytambo (ở km 82) đến Machu Picchu - một trong bảy kỳ quan thế giới mới. Tuy chỉ dài 45 km nhưng đoạn đường này đi qua rất nhiều công trình kiến trúc có một không hai còn sót lại của nền văn minh Inca.

Kho lương thực trên đường

Đoàn chúng tôi xuất phát từ km 82 ở độ cao 2.600m, ngày đầu tiên chỉ như bước khởi động nhẹ nhàng: 12km đường núi để tập kết ở độ cao 3.000m, gấp đôi Đà Lạt. Chúng tôi vượt qua sông Urubamba bằng chiếc cầu treo để chính thức bước vào con đường Inca. Chỉ vào hai trụ bêtông to đùng và mấy sợi dây thép to bằng ngón chân cái của chiếc cầu treo, Henry - người dẫn đường người Quechua - giải thích: “Chiếc cầu treo này đã được phục chế để đảm bảo an toàn cho 500 lượt người mỗi ngày. Cầu treo nguyên bản của người Inca được làm từ các sợi dây thừng (bện từ cuống hoa khô của loại cỏ q’oya) đường kính đến 20cm, rồi căng ra các trụ đá hai bên sông. Ở phía tây Cuzco, kinh đô cũ của người Inca, có chiếc cầu treo bắc qua sông Apurimac dài đến 60m. Tiếc là đến nay không còn nữa”.

Con đường Inca như con rắn khổng lồ len lỏi qua những khe núi bên cạnh dòng sông Urubamba đang cuồn cuộn chảy xiết qua các ghềnh đá, để trườn lên những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng trước mặt. Đi chừng vài giờ, từ xa đã thấy hiện ra sừng sững những ruộng bậc thang với hàng chục bậc, những khu nhà lớn “cắn” thẳng vào một góc núi (tất cả được xây bằng đá): Llactapata. Đây chính là một trong 2.000 kho lương thực, trạm nghỉ do nhà nước Inca tổ chức dọc hệ thống đường Inca 23.000km. Nhìn vào sự đồ sộ của Llactapata, tôi mới thật sự tin những gì đã đọc trong sách: “Dọc tuyến đường Inca có những kho lương thực có thể đáp ứng cho 25.000 người cùng một lúc. Vì thế, quân của đế chế Inca có thể tiến lên, xâm chiếm các bộ tộc khác mọi lúc, mọi nơi”.

Leo đỉnh “Người đàn bà chết”

4g30 sáng, chúng tôi được đánh thức bằng một ly trà coca nóng (nấu từ lá coca, loại dùng để sản xuất cocain). Henry cười động viên: “Uống đi! Nước tăng lực của người Inca đấy! Uống để có sức vượt đèo”. Đúng như lời Henry cảnh báo, đây chính là ngày kinh khủng của hành trình: vượt qua đèo “Người đàn bà chết” cao 4.215m so với mực nước biển (do hình dáng ngọn núi bên cạnh đèo nhìn xa giống như một người đàn bà xõa tóc nằm chắp tay trước ngực nên người ta gọi như vậy). Hàng ngàn bậc thang bằng đá cứ thế nối tiếp nhau lẫn vào mây lên cao, lên cao mãi…

Henry dừng lại giữa đèo, đưa cho những người thồ hàng trong đoàn một vốc lá coca. Họ vui ra mặt. Người thồ hàng trịnh trọng mặt ngửa lên trời, thổi nhẹ vào mấy chiếc lá coca cầm trong tay để thể hiện sự kính trọng, cảm ơn đối với núi, trời rồi bỏ vào miệng nhai. “Nhai lá coca sẽ giúp họ không cảm thấy đói khát, mệt mỏi”, Henry giải thích rồi đưa tôi thử. Chẳng có mùi vị gì đặc biệt, nhưng tôi cảm thấy phấn chấn hơn, leo dốc đỡ mệt hơn (sau này tôi mới biết lá coca giúp tạo sự thăng bằng cho cơ thể khi thiếu ôxy ở độ cao hơn 4.000m).

Cách nay hơn 500 năm, người Inca không biết đến ngựa, họ cũng chẳng biết đến bánh xe, vì thế mọi phương tiện giao thông, liên lạc đều bằng đôi chân. Họ truyền tin bằng cách chạy tiếp sức. Khi nhận được thông tin, người truyền tin sẽ chạy hết tốc lực đến trạm kế tiếp cách đó khoảng 1-2 km. Tại đây một người khác sẽ nhận thông tin và tiếp tục chạy đến trạm tiếp theo. Bằng cách này, mọi thông tin được truyền đi đến mọi miền đất nước với tốc độ đáng kinh ngạc: 400 km/ngày. Ngày nay, trên con đường này, chúng tôi cũng “lết” lên được đến đỉnh “Người đàn bà chết” cao 4.215m lúc gần 1g trưa. Sáu giờ đồng hồ cho 9km!

Trước khi rời khỏi đèo, Henry và những người thồ hàng yêu cầu chúng tôi nắm tay nhau, kết lại thành vòng tròn: “Đây là vòng tròn tình thương. Chúng ta hãy cùng gửi sự tôn kính đến thần núi Veronica, ngọn núi cao 5.800m phủ tuyết trắng xóa trước mặt. Chính ngài sẽ tiếp thêm sức mạnh, phù hộ cho chuyến đi chúng ta được bình an”. Rồi không ai bảo ai, Henry và những người thồ hàng cùng cất lên những lời cầu nguyện bằng tiếng Quechua với vẻ rất thành kính. Chính trong khoảnh khắc này, tôi mới chợt nhận ra Tây Ban Nha đã thất bại trong nỗ lực đồng hóa Peru, thuộc địa của mình. Sau hơn 500 năm, dù tiếng Tây Ban Nha đã trở thành quốc ngữ tại Peru, dù những công trình kiến trúc ở Peru đều ít nhiều mang phong cách Tây Ban Nha nhưng bản sắc văn hóa, những lễ nghi, niềm tin vào thần linh trong thiên nhiên của người xưa vẫn luôn trường tồn. Peru mãi là Peru!

Những người hùng thầm lặng

Chẳng có điều gì nghi ngờ, người hùng trên con đường Inca chính là những người thồ hàng cho các đoàn du khách. Chính họ phải cõng trên vai lều, bạt, thức ăn cho cả đoàn. Cùng đi, nhưng họ phải đến trước để nấu ăn, căng lều cho khách. Khi khách đi ngủ, chính họ phải lụi cụi xuống suối rửa chén bát, sửa soạn đồ ăn cho bữa tiếp theo…

Leo dốc đã khó, xuống dốc còn khó hơn. Đường đèo hẹp tí, dốc dựng đứng. Vừa qua cơn mưa, hàng ngàn bậc đá phủ rêu trơn như bôi mỡ, sơ hở một tí là có thể trượt chân lăn xuống vực bên cạnh. Vậy mà những người thồ hàng với túi đồ khổng lồ nặng vài chục ký trên lưng chạy xuống dốc như đang làm xiếc với tốc độ kinh hồn. Henry cho biết: “Trong một cuộc thi chạy gần đây từ km 82 đến Machu Picchu do chính quyền Peru tổ chức, một người thồ hàng người Quechua chỉ mất 5 giờ 45 phút để hoàn thành con đường mà chúng ta mất gần 4 ngày!”.

Peru đang vào đông, trời lạnh ngắt, mấy người trong đoàn ai nấy đều đứng run lập cập, miệng xuýt xoa dù áo ấm sù sụ, giày đến 3-4 lớp vớ. Trong khi đó, những người thồ hàng chỉ mặc hai chiếc áo thun cũ mèm, đôi chân trần nứt nẻ, đen đúa, móng chân hãy còn vết phèn, chỉ mang độc một chiếc dép lốp. Trong nắng chiều, tôi thấy có người thồ hàng già khuân trên lưng đống đồ to đùng, cặm cụi bò lên dốc. Ông nói không nhớ hết bao nhiêu lần đã đi trên con đường này...

(Nguyễn Tập - Tuổi Trẻ Online)


http://farm5.static.flickr.com/4145/5177782956_47ffac39aa_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/55909406@N07/5177782956/)
Llactapata (http://www.flickr.com/photos/55909406@N07/5177782956/) by SA Luxury Expeditions (http://www.flickr.com/people/55909406@N07/), on Flickr

http://farm3.static.flickr.com/2151/2052632192_07655396eb_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/philliecasablanca/2052632192/)
Llactapata (http://www.flickr.com/photos/philliecasablanca/2052632192/) by Phillie Casablanca (http://www.flickr.com/people/philliecasablanca/), on Flickr


--- còn tiếp...

bluesky85
19-11-2010, 15:35
Peru - những kỳ quan huyền bí

Kỳ 3: Thành phố đá Machu Picchu

Ngày thứ tư của hành trình, khi trời hãy còn tối mịt, tiếng của người thồ hàng đã ồm ồm ngoài cửa lều: “Xin chào, trà coca đây!”. Chúng tôi rời điểm cắm trại từ 4g45 sáng, đi thật sớm để đón bình minh tại cổng Mặt trời Intipunku - cửa ngõ bước vào kỳ quan thế giới Machu Picchu.

Chúng tôi đến cổng Mặt trời Intipunku khi sương mù còn dày đặc. Té ra chúng tôi chẳng phải là người đầu tiên, cả trăm khách bộ hành trên đường Inca đủ mọi màu da gần như tề tựu đông đủ tại đây để ngắm Mặt trời mọc. Khi ánh bình minh đầu tiên vừa ló dạng, mọi người bỗng im bặt, nín thở dõi theo từng bước đi của ánh mặt trời. Kỳ quan thế giới Machu Picchu dưới thung lũng từ từ hiện ra giữa lớp mây mù, như đang vươn vai bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài.

Khi ánh mặt trời thật sự chan hòa xuống thành phố đá Machu Picchu, mọi người chẳng ai bảo ai cùng vỗ tay, nhún nhảy la hét như trẻ con được quà, rồi bất kể quen lạ, họ lao vào ôm hôn nhau... Henry - người dẫn đường - chỉ vào hai tảng đá khổng lồ ở cổng Mặt trời Intipunku: “Vào ngày đông chí và hạ chí, Intipunku được Mặt trời chiếu sáng bởi những chùm sáng như tia laser nhìn cực kỳ hấp dẫn”. Chúng tôi đến đây vào đầu tháng bảy, đã qua hạ chí (21-6) nên chẳng thấy được “chùm sáng mặt trời như tia laser” hấp dẫn thế nào, nhưng đón ánh bình minh đầu tiên tại kỳ quan thế giới cũng đủ là một kỷ niệm khó quên.

Thánh địa Machu Picchu

Không vĩ đại như Vạn lý trường thành của Trung Quốc, cũng chẳng có tuổi thọ hơn 4.000 năm như công trình đá Stonehenge (Anh), nhưng Machu Picchu - thành phố nhỏ nằm lẩn khuất trong rừng già trên dãy núi Andes - đã lần lượt vượt qua những “đối thủ sừng sỏ” như quần thể Angkor (Campuchia), Stonehenge (Anh), những pho tượng trên đảo Phục Sinh (Chile)… để trở thành một trong bảy kỳ quan thế giới mới.

Không phải ngẫu nhiên mà hơn 100 triệu lượt bầu chọn của mọi người trên toàn thế giới cùng hội đồng tuyển chọn là những kiến trúc sư hàng đầu của năm châu lục lại chọn Machu Picchu là một trong những di tích khảo cổ đẹp và bí ẩn nhất trên thế giới. 140 công trình tại Machu Picchu gồm nhà ở, đền đài, công viên, nơi thờ cúng trên diện tích 5km2 này đều được xây dựng bằng đá. Tương tự kim tự tháp Cheops (Ai Cập), Machu Picchu được dựng lên từ những tảng đá nặng hàng tấn (có khối nặng đến 50 tấn). Những tảng đá này xếp lên nhau mà không dùng bất cứ loại hồ vữa kết dính nào.

Đặc biệt hơn, các tảng đá này đều có hình dạng và khối lượng khác nhau hoàn toàn, có tảng có đến 30 góc. Dù vậy, tất cả được mài nhẵn đến độ không thể nào lách nổi lưỡi dao vào giữa các mối nối! Và một điều bí ẩn đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng là người Inca không sử dụng bánh xe, làm sao họ có thể đặt những phiến đá lớn lên nhau một cách chính xác đến thế? Người Inca không có chữ viết để lưu trữ, truyền đạt thông tin, họ có hệ thống các nút thắt Quipu. Đáng tiếc các nút thắt Quipu cũng chính là một trong những bí mật làm đau đầu các nhà khoa học trên thế giới.

Henry nháy mắt chỉ vào đỉnh núi cùng tên Machu Picchu trước mặt: “Trên đó thiêng lắm, dám leo thử không?”. Bốn ngày bộ hành trên con đường Inca đèo núi đã vắt kiệt sức của chúng tôi. Cả đoàn chẳng ai lên tiếng. Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi lẫn trong mây, không cưỡng được sự tò mò, tôi đồng ý. Hai giờ rưỡi trôi qua, khi đầu gối muốn long ra cũng là lúc tôi bò đến đỉnh núi. Lên mới thấy ngợp, gió thổi ào ào như muốn bạt cả người xuống vực. Có quá nhiều giả thuyết cho rằng Machu Picchu là nơi phòng thủ cuối cùng của người Inca, là cung điện của vị vua vĩ đại Pachacuti (người được sánh với Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ khi thống lĩnh một đế chế hùng mạnh nhất Nam Mỹ thế kỷ 15)…

Tuy nhiên, tôi nghiêng về giả thuyết Machu Picchu là thánh địa, nơi thực hiện các nghi lễ cúng, tế thần của người Inca hơn. Từ đỉnh núi nhìn xuống, cả thành phố đá nằm lẫn trong mây, lọt thỏm giữa núi rừng, vách đá dốc đứng hàng trăm mét như tấm áo giáp che chở. Hai ngọn núi Machu Picchu (cao 3.140m) và Huayama Picchu (2.743m) và hai khe núi bao quanh thành phố chỉ chính xác bốn hướng đông, tây, nam, bắc không sai một tí. Và đặc biệt, dãy núi phía sau lưng Machu Picchu có hình dạng y đúc gương mặt của người đàn ông ngửa lên trời.

Henry đưa tôi cầm ba chiếc lá coca và yêu cầu tiến gần đến mấy đống đá nhỏ được xếp vun lên cao ngay trên đỉnh núi. “Làm gì thế?”, tôi thắc mắc. Henry ra hiệu im lặng, rồi yêu cầu tôi tự ước ba điều ước và bắt chước theo hành động của anh ta. Henry đứng thẳng, vẻ mặt trang nghiêm khác thường, rồi ngửa mặt lên trời thổi nhẹ vào ba chiếc lá cầm trên tay, miệng lầm rầm bằng tiếng Quechua. Xong, anh đặt ba chiếc lá coca lên đống đá và chèn một viên đá khác lên trên.

Đợi mọi người xong, anh mới chậm rãi giải thích: “Người Inca quan niệm có ba “thế giới”: đại bàng biểu tượng cho thế giới trên trời; báo biểu tượng cho thế giới trần gian và rắn biểu tượng cho thế giới dưới lòng đất. Mỗi chiếc lá coca tượng trưng một lời ước nguyện cho mỗi thế giới. Họ tin rằng ước nguyện trên đỉnh núi cao sẽ dễ thành hiện thực vì gần với trời nên trời dễ nghe hơn”.

Khai thác tối đa kỳ quan

Nói đến Peru là nói đến Machu Picchu. Vì biết thế, chính quyền Peru ra sức khai thác tối đa kỳ quan thế giới này. Ngoài bộ hành trên đường mòn Inca, muốn đến Machu Picchu chỉ có duy nhất đường xe lửa nên nhà ga tha hồ hét giá. Nếu như người dân Cuzco mua vé tàu khứ hồi đến Machu Picchu chỉ khoảng 5 USD thì khách nước ngoài phải trả đến 96 USD/người, chưa kể phải trả thêm tiền xe buýt 14 USD từ ga đến Machu Picchu. Du khách muốn tham quan Machu Picchu phải tốn ít nhất 170 USD/người.

Làm một phép tính đơn giản, chỉ riêng Machu Picchu chính quyền đã thu được gần nửa triệu USD/ngày. Lợi nhuận khổng lồ! Đó là chưa kể một bữa ăn trưa buffet có giá hơn 30 USD, một chai nước suối nhỏ giá gần 4 USD (trong khi mua tại Cuzco giá chưa đến 0,5 USD), cái hamburger đáng giá chừng 2 USD, Machu Picchu bán 11 USD… Du khách bị “chém” bằng lưỡi dao bén ngót, có bực cũng ngậm bồ hòn làm ngọt vì không có sự lựa chọn nào hơn.


http://farm3.static.flickr.com/2409/2115782565_44842e6f30_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/pedrosz/2115782565/)
Machu Picchu, Peru (http://www.flickr.com/photos/pedrosz/2115782565/) by szeke (http://www.flickr.com/people/pedrosz/), on Flickr

http://farm4.static.flickr.com/3176/2420961152_00872c2e3a_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/grabbywalls/2420961152/)
Machu Picchu (http://www.flickr.com/photos/grabbywalls/2420961152/) by Grabby Walls (http://www.flickr.com/people/grabbywalls/), on Flickr


--- còn tiếp...

bluesky85
19-11-2010, 15:48
Peru - những kỳ quan huyền bí

Kỳ 4: Quần đảo nổi Uros

“Đảo chúng tôi ở phải buộc vào một tảng đá thật lớn để neo lại. Bữa nọ gió to quá bứt dây neo, nguyên cái đảo trôi qua tận Bolivia”, với vẻ mặt nghiêm trang, Javier - hướng dẫn viên trẻ người Peru - kể về nơi anh ta ở một cách say sưa. Không chỉ riêng tôi, những người bạn nước ngoài cũng háo hức và sốt ruột chờ xem “đảo biết trôi” của Javier.

Thì ra nó nằm ngay trên hồ Titicaca - nơi phát nguồn của đế chế Inca hùng mạnh, một trong những cái nôi của nền văn minh Nam Mỹ nổi tiếng.

Những hòn đảo trôi

Giữa mặt hồ xanh thẳm, rộng ngút tầm mắt, hòn đảo Javier nằm lẫn giữa đám lau sậy um tùm, cao quá đầu người. Vừa đặt bước chân đầu tiên từ thuyền xuống đảo, bàn chân tôi bỗng bị lún xuống. Quá bất ngờ, tôi loạng choạng muốn té. Đoán trước, Javier nhanh nhẹn đưa tay đỡ lấy: “Đừng sợ, sẽ còn nhiều điều bất ngờ chờ đợi anh tại quần đảo Uros này”.

Quần đảo Uros (khoảng 43 đảo) có một không hai trên thế giới này được hình thành từ những lớp lau sậy chết đóng thành từng mảng dày. Sau đó, người dân phủ xen kẽ những lớp lau sậy mới lên cho đến khi bề dày đạt 1-2m rồi dựng nhà sinh sống trên đó. Vì thế, cả hòn đảo như một cái bè nổi khổng lồ bằng lau sậy, bước chân đi cứ xốp xốp, nhún nhún như đi trên nệm bông. Ông trưởng đảo Marcos kể: “Những ngày gió mạnh thổi bứt dây chằng, sáng sớm mở mắt tỉnh dậy thấy mình ở Bolivia. Vì thế, người Uro chúng tôi phải cột đảo thật chắc vào một tảng đá lớn để cố định vị trí”.

Ông Marcos dẫn tôi vòng quanh giang sơn của ông. Nói là đảo song thật ra nó nhỏ như cù lao, bề dài mỗi chiều không quá 300m. Mỗi đảo khoảng trên dưới 10 hộ sinh sống chủ yếu nhờ vào việc đánh cá trên hồ. Với tay bẻ một cây sậy non mọc sát mép nước, ông Marcos bỏ vào miệng ăn ngon lành rồi đưa tôi thử: “Ăn thử món ăn truyền thống của người Uro xem nào”. Món lõi sậy non của người Uro giòn giòn, nhạt nhạt, chẳng ngon tí nào nhưng công dụng của nó làm tôi ngạc nhiên: lều ở, thuyền đánh cá trên hồ đều làm bằng cây sậy; sậy khô làm chất đốt; rễ sậy còn là vị thuốc khá hữu hiệu chữa đau bụng, đau răng...

Vẫn còn giữ những nét văn hóa đặc trưng, nhưng người dân đảo nổi Uros cũng khá văn minh. Lênh đênh trên mặt hồ nhưng dân Uros cũng có trường học, nhà thờ (dĩ nhiên đều được dựng bằng cây sậy), có điện sử dụng từ pin năng lượng mặt trời. Chưa kể họ làm du lịch cũng khá bài bản: bán những món đồ lưu niệm làm từ cây sậy, làm hẳn mô hình thu nhỏ của đảo để giải thích cặn kẽ cho du khách. Chỉ cần bỏ khoảng 10 đôla, khách sẽ được sống cùng dân bản xứ một ngày, cùng ăn, ở, tối khuya cùng đi câu cá…

Kiếp nghèo trên đảo Amataní

Thời hoàng kim của đế chế Inca chấm dứt khi người Tây Ban Nha xâm lược Peru vào giữa thế kỷ 16. Một số người Inca lui về nơi họ sinh ra là hồ Titicaca, ẩn tích trên hai hòn đảo Amataní và Taquilé, gần như đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài. Vì thế, dù chỉ cách thị trấn hiện đại Puno hơn hai giờ đi tàu thủy, nhưng cuộc sống trên đảo Amataní bây giờ vẫn như 100 năm trước. Mặc dù tiếng Tây Ban Nha đã trở thành quốc ngữ tại Peru, nhưng người dân ở đây vẫn sử dụng tiếng Quechua - ngôn ngữ cổ thời Inca. Đàn ông vẫn còng lưng trên những mẫu ruộng bậc thang trồng khoai tây, lúa mì để có miếng ăn. Phụ nữ vẫn cặm cụi xe sợi, đan len để có cái mặc. Họ vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp như cha ông mình cách nay hàng trăm năm (có chăng là thêm chút tiền từ khách du lịch đến đảo ngủ lại).

Không gian ở đây yên tĩnh lạ lùng. Không xe hơi, không nước nóng, không điện thoại, chỉ có những đàn cừu thong thả gặm cỏ. Những ồn ào, tiện nghi hiện đại của cuộc sống hối hả bên ngoài dường như bị nước hồ Titicaca làm đóng băng lại cả. Amataní không có khách sạn, du khách ở chung với gia đình dân địa phương.

Tôi và anh hướng dẫn viên ở chung nhà với Vanessa (19 tuổi) cùng mẹ cô. Khi tôi đến, Vanessa và mẹ hãy còn trên rẫy, hàng xóm phải chạy đi gọi về. Phòng tôi ở có nệm ba lớp (cũng làm từ cây sậy như quần đảo nổi Uros), có điện (dù chỉ là một bóng tù mù chạy bằng máy phát điện cổ lỗ sĩ). Phòng của Vanessa và mẹ chỉ có một cây đèn cầy lờ mờ. Nhà vệ sinh cũng có hai cái riêng biệt: cái cho dân làng chỉ là một cái hố, cái cho khách du lịch có hẳn bồn cầu.

Một ngày chúng tôi đi bộ rã cả người nên lu nước lớn để sẵn trong phòng tắm chỉ một loáng là cạn. Vanessa và mẹ lẳng lặng xuống núi, một hồi lâu thấy khệ nệ khiêng thùng nước lên. Nước ngọt ở đảo phải hứng từng thùng dưới chân núi mang lên. Mẹ Vanessa cho biết: “Muốn khách du lịch đến ở, mỗi gia đình chúng tôi phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định về vệ sinh, điều kiện sinh hoạt. Điều đó quá xa vời với điều kiện hiện tại của chúng tôi. Vì thế, chúng tôi phải vay mượn rồi trả từ từ”.

Buổi tối làng tổ chức văn nghệ, nhảy múa giúp vui cho khách, chủ nhà cũng phải mặc đồ đẹp để cùng vui. Ban nhạc là những bạn trẻ, ban ngày làm nương, đi học (ngay tại đảo), ban đêm trông chờ vào những đồng tiền tip từ khách du lịch. Cesar, nhạc công 14 tuổi, khoe: “Mùa này là mùa du lịch nên khách đến nhiều. Tuần trước chơi nhạc bốn lần, tiền tip mỗi đứa được 20 sol (khoảng 7 đôla)”. Khách nhảy nhót vui vẻ, mua bia uống, mời cả dân làng. Họ uống hết nhanh chóng vì như thế có nghĩa là họ lại bán thêm được một chai nước. Thấy tôi ngồi một mình, Vanessa đến bên mời nhảy. Tôi lắc đầu, mặt cô buồn hẳn: “Chúng tôi phải làm tất cả để khách vui, vì đó là nguồn thu nhập lớn của gia đình”. Vanessa cho biết mẹ cô cũng mặc đồ đẹp mời mọi người nhảy múa. Chân vẫn nhảy, miệng vẫn cười nhưng sao họ vẫn không giấu được nỗi buồn trong khóe mắt. Vanessa thổ lộ: “Ba tôi mới mất cách đây mấy ngày”.

Đảo Amataní còn sót lại những di tích đổ nát từ thời Inca trên hai đỉnh núi Mặt Trăng và Mặt Trời, nơi mà du khách nào đến cũng cố trèo lên để cầu xin sự sung túc cho bản thân và gia đình. Vanessa nói hai đỉnh núi đó thiêng lắm nhưng tôi không tin. Vì nếu thiêng thì mỗi khi khách du lịch đến, bà mẹ già của cô đâu phải cặm cụi leo lên theo chỉ với hi vọng bán được chút đồ thổ cẩm tự dệt của mình.

(Nguyễn Tập - Tuổi Trẻ Online)


http://farm3.static.flickr.com/2176/2379353853_b4330e7f46_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/grabbywalls/2379353853/)
Le Isole Uros (http://www.flickr.com/photos/grabbywalls/2379353853/) by Grabby Walls (http://www.flickr.com/people/grabbywalls/), on Flickr

http://farm2.static.flickr.com/1043/1314479801_0aeebf78a0_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/54945394@N00/1314479801/)
Titicaca boat (http://www.flickr.com/photos/54945394@N00/1314479801/) by dachalan (http://www.flickr.com/people/54945394@N00/), on Flickr

http://farm4.static.flickr.com/3615/3408063204_341fe1c80c_o.jpg (http://www.flickr.com/photos/swatimage/3408063204/)
Floating Islands (http://www.flickr.com/photos/swatimage/3408063204/) by RositaSo Image (http://www.flickr.com/people/swatimage/), on Flickr

http://farm5.static.flickr.com/4034/4530692164_373ef42348_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/remi-tinel/4530692164/)
Little Girl at Uros Is. (http://www.flickr.com/photos/remi-tinel/4530692164/) by Ray maï (http://www.flickr.com/people/remi-tinel/), on Flickr


--- còn tiếp...

bluesky85
19-11-2010, 15:57
Peru - Những kỳ quan huyền bí

Kỳ 5: Bí mật ở sa mạc

Chỉ là một sa mạc nhỏ bé, khô cằn nằm ven biển Peru, Nazca có lẽ sẽ chẳng mấy ai biết đến nếu không có một ngày vào năm 1920, những hành khách trên máy bay phát hiện hàng trăm hình vẽ khổng lồ trên sa mạc Nazca trải rộng 500km2.

Các nhà khoa học đổ về, họ không chỉ bất ngờ khi những hình vẽ khổng lồ đã có hơn 2.000 năm tuổi mà còn sửng sốt với những phát hiện mới từ những xác ướp của người Peru cổ được khai quật tại đây. Dưới lớp cát sa mạc Nazca, từng bí mật từ từ được hé mở.

Lịch thiên văn hay sân bay của người ngoài hành tinh?

Đi trong mùa du lịch cao điểm, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Giá vé máy bay đi xem những đường vẽ kỳ lạ tại sa mạc Nazca tăng từng phút. Trước đó tại Cuzco, Lima giá vé đặt trước được báo 60 USD, tôi còn đang chần chừ vì giá cao quá (giá bình thường chỉ khoảng 40 USD), ngày hôm sau giá đã là 80 USD. Buổi chiều cùng ngày, quay về khách sạn lấy tiền chạy ra giá đã lên 95 usd. Ghét mấy đại lý “làm giá”, tôi quyết định mua vé trực tiếp tại Nazca.

Chuyến xe buýt 14 giờ chạy thâu đêm từ Cuzco đến Nazca lúc 6g30 sáng. Vội vã đón taxi chạy đến phi trường đã thấy xếp hàng đông nghẹt. “Mấy ngày nay sương mù nhiều quá, không cất cánh được, có người chờ 3-4 ngày vẫn chưa bay được. Vé 110 USD. Nếu đồng ý, tôi sẽ để anh vào danh sách chờ”, cô tiếp viên lạnh lùng trả lời. Vừa may, một khách du lịch Pháp nhường vé nên tôi được leo lên chuyến bay cuối cùng trong ngày. Cầm chiếc vé với giá 120 USD trong tay (mắc gần ba lần giá bình thường), tôi thở phào tự an ủi dù sao mình cũng còn may mắn hơn nhiều người chờ đợi đến 3-4 ngày vẫn chưa bay được.

Chiếc máy bay nhỏ chở năm người khục khặc khục khặc cuối cùng rồi cũng cất cánh. Gió giật ầm ầm, tiếng động cơ muốn điếc lỗ tai, chợt nhớ đến lý do nhường vé của người bạn Pháp: “Tháng mười hai năm ngoái, hai chiếc máy bay đã phải hạ cánh khẩn cấp vì trục trặc động cơ. Tháng tư năm nay, một chiếc máy bay mang năm khách người Pháp cùng phi công đã tử nạn”.

Ngồi trên chiếc máy bay nhỏ xíu lắc đùng đùng này, bất giác tôi rùng mình. Nhưng nỗi sợ chợt qua mau khi thấp thoáng giữa sa mạc mênh mông, những đường vẽ hình con khỉ có đuôi xoắn ốc, người ngoài hành tinh, nhện, cá voi... hiện ra sống động lạ thường. Sa mạc bây giờ như một bức tranh khổng lồ (Nazca là một trong những sa mạc khô nhất thế giới, cộng với bề mặt đầy đá sỏi đã làm giảm thiểu ảnh hưởng của gió nên những hình vẽ có từ hơn 2.000 năm trước tồn tại được đến ngày nay).

Thật ra, những hình vẽ khồng lồ như thế không phải chỉ có ở Peru, mà còn có ở Hi Lạp, Mỹ… Nhưng đặc điểm, số lượng và kích thước của những hình vẽ tại sa mạc Nazca gây ấn tượng mạnh nhất. Nhà nữ toán học người Đức Maria-Reiche - người dành trọn cả đời nghiên cứu những hình vẽ kỳ lạ trên sa mạc Nazca - cho rằng đó chính là lịch thiên văn của người xưa.

Dựa vào sự dịch chuyển của các chòm sao, thổ dân lúc bấy giờ sẽ dự đoán thời tiết, phục vụ việc trồng trọt của họ (hình con nhện khổng lồ chính là sự liên tưởng đến tinh vân của chòm sao Orion). Tuy nhiên, theo truyền thuyết, sa mạc Nazca là sân bay của người ngoài hành tinh, khi rất nhiều phi thuyền vũ trụ đã cất - hạ cánh tại đây. Và chính những người thổ dân địa phương (từ năm 200 trước Công nguyên đến năm 600) đã vẽ lại những hình ảnh họ chứng kiến. Trên sườn núi gần đó có hình vẽ một người khổng lồ có cái đầu kỳ lạ đang giơ tay chào càng làm truyền thuyết này đáng tin cậy hơn.

Tạp chí National Geographic đã giải thích: “Lớp sỏi, đá trên bề mặt của sa mạc Nazca có chứa Fe0, qua hàng thế kỷ nó trở nên đen bóng. Khi lớp sỏi được quét đi, nó tương phản với màu bên dưới. Bằng cách này, những đường vẽ khổng lồ được hình thành bởi những đường rãnh rộng khoảng 20cm, đào sâu khoảng 35cm trên sa mạc”. Cách tạo ra những đường vẽ này quá đơn giản, ai cũng có thể làm được, nhưng làm sao để tạo được những đường thẳng gần như tuyệt đối, làm sao để phóng to những hình vẽ (vốn chỉ có thể quan sát được hoàn chỉnh từ trên không) theo đúng tỉ lệ một cách chính xác? Ai đã tạo ra và có ý nghĩa gì thì đến nay vẫn là một trong những bí mật lớn nhất của loài người.

Xác ướp lên tiếng

Cũng trên sa mạc Nazca, cách thị trấn khoảng 30km, Chauchila - nghĩa trang của người tiền Inca - với những xác ướp, xương sọ, đồ gốm hơn 1.500 tuổi phát hiện tại đây đã làm các nhà khoa học ngỡ ngàng và kinh ngạc về nền văn minh của người Inca và tiền Inca.

Thật bất ngờ, Chauchila lại được phát hiện bởi… những kẻ cướp mộ, đến khi nhà nước có biện pháp ngăn chặn thì một số lượng khổng lồ những hiện vật quý giá đã bị đem bán. Tuy vậy, Chauchila hãy còn khá ấn tượng với hơn 10 hầm mộ mở cho khách tham quan, có nhiều xác ướp còn lọn tóc dài quấn quanh, có cả xác ướp của trẻ em được dùng để tế thần… Ông Juan Tohalino Vera - một trong những hướng dẫn viên kỳ cựu nhất Nazca, người nói thông thạo 4-5 thứ tiếng - cúi xuống dùng tay khỏa lớp cát ngay dưới chân rồi nhặt lên một mảnh xương nhỏ: “Cũng may những kẻ cướp mộ chỉ quan tâm đến vàng nên xác ướp, xương sọ chúng không thèm mang đi, vứt vương vãi khắp nơi”. Tôi không tin nên bắt chước làm theo và cũng nhặt được một mẩu xương như thế.

Ngày nay, khi y học đã tiến bộ vượt bậc, phẫu thuật não hãy còn được liệt vào những ca khó. Vậy mà cách nay hơn 500 năm, từ những xác ướp, xương sọ này, người ta phát hiện người Inca có hiểu biết khá chi tiết về giải phẫu học và đã biết phẫu thuật não! Theo nghiên cứu mới nhất đăng trên tạp chí National Geographic, chỉ với lá coca và một số loại dược thảo tự nhiên làm thuốc tê, người Inca đã đục hộp sọ của những chiến binh bị thương ở đầu để chữa và tỉ lệ sống sót sau những ca phẫu thuật ghê rợn này có lúc lên đến 90%.

Ra về, ngay trước nghĩa địa Chauchila, tôi giật thót mình khi thấy người ta bày bán nhiều cây sáo được làm từ những khúc xương chạm khắc khá công phu. “Xương người?”, tôi rụt rè hỏi. Juan cười lớn: “Vua Inca ngày xưa dùng đầu lâu của thủ lĩnh đối phương làm chén đựng rượu, lấy xương chạm khắc, đục thành những ống sáo để dằn mặt kẻ thù. Nhưng cậu đừng sợ, những cây sáo này chỉ làm từ xương con llama và alpaca (một loài lạc đà không bướu) thôi mà”. Hết hồn!



http://farm4.static.flickr.com/3124/2417048460_c03524a7b5_z.jpg?zz=1 (http://www.flickr.com/photos/bjurman/2417048460/)
Nazca lines (http://www.flickr.com/photos/bjurman/2417048460/) by Kaj Bjurman (http://www.flickr.com/people/bjurman/), on Flickr

http://farm3.static.flickr.com/2564/3853808328_8c8ea4441c_z.jpg?zz=1 (http://www.flickr.com/photos/davidfarrant/3853808328/)
el colibrí: a hummingbird in the desert (http://www.flickr.com/photos/davidfarrant/3853808328/) by Now & Here (http://www.flickr.com/people/davidfarrant/), on Flickr

http://farm3.static.flickr.com/2483/3758138110_772c88141c_z.jpg?zz=1 (http://www.flickr.com/photos/danwoodphotography/3758138110/)
Open tomb,Nazca,Peru (http://www.flickr.com/photos/danwoodphotography/3758138110/) by Dan_wood (http://www.flickr.com/people/danwoodphotography/), on Flickr

http://farm4.static.flickr.com/3351/3474936636_9d2d5677ae_z.jpg (http://www.flickr.com/photos/ambrispuri/3474936636/)
59-Chauchilla. (http://www.flickr.com/photos/ambrispuri/3474936636/) by Ambrispuri (http://www.flickr.com/people/ambrispuri/), on Flickr




--- còn tiếp...

bluesky85
19-11-2010, 16:05
Peru - những kỳ quan huyền bí

Kỳ 6 (cuối): Bùa chú và những tập tục

Tôi ghé thăm chị Dao, du học sinh tại Nga, theo chồng định cư hẳn tại Juliaca (một tỉnh miền núi cách thủ đô Lima hơn 1.000km, nằm ở độ cao 3.825m so với mực nước biển) đã mười năm. Tôi đến cũng vừa thấy trước cửa tiệm ăn của chị Dao đầy muối trắng. Chị cuống quýt quét dọn sạch đống muối với vẻ mặt lo lắng, sau đó vào nhà lấy lọ đường lớn ra rắc trước cửa.

Bùa chú

Thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi, chị Dao giải thích: “Chị bị đối thủ cạnh tranh ếm bùa. Họ đổ muối trước tiệm ăn để trù đồ ăn mình nấu luôn bị mặn, thực khách sẽ không muốn vào ăn nữa. Chị phải rắc đường để khử bùa muối đấy”.

Trong khi tôi ngồi đợi chị Dao lau nhà thì có một bà khách bước vào, do trơn nên trượt chân té. Thế là bà ta nằng nặc yêu cầu chị Dao phải hốt đất ngay tại chỗ bị té để bà mang về nhà nhờ thầy cúng niệm chú và chôn đi. Làm như vậy sau này bà mới không bị bệnh tật. Khổ nỗi, sàn nhà chị Dao là gạch bông, lại mới lau, đất làm gì có, vậy mà bà ta cứ quét đi quét lại, cố gắng để lượm được chút xíu bụi đất gói trong miếng giấy rồi mang về.

Người Peru, đặc biệt là các tỉnh miền núi, rất tin vào tâm linh nên họ cũng sử dụng rất nhiều loại bùa. Trước cửa tiệm ăn, buôn bán, nếu để ý sẽ có thể thấy ngay hai móng sắt của hai con ngựa: một đực, một cái. Một cái hướng ra, một cái hướng vào. Họ hi vọng sẽ có nhiều khách vào cửa hàng mình nhiều hơn (cửa hàng chị Dao cũng có hai móng ngựa sắt này). Có bùa “ếm” cũng có bùa “khử”, vì thế trước cửa nhà họ thường treo tỏi đực để khử bùa ếm của người xấu.

Ông Hugo Apaza Quispe, giáo sư sử học ở thành phố Puno, cho biết: “Để tự bảo vệ bản thân, dân Peru miền núi thường có bùa đựng trong một lọ nhỏ, luôn mang theo bên mình. Lọ bùa đó gồm hạt Cuti màu đỏ có chấm đen để tránh những ghen tị, hiềm khích; cây Murachi được khắc thành hình một đôi vợ chồng có tác dụng bảo vệ hạnh phúc gia đình; một miếng nam châm để hút những kim loại như tiền, đồng, vàng, bạc vào gia đình. Cạnh đó, còn có bảy loại gỗ khác nhau để tránh bảy loại điềm gở như bệnh tật, sa sút trong làm ăn...”.

“Bác sĩ” cuy và cánh tay trẻ sơ sinh

Khi mệt mỏi mà không biết nguyên nhân, đi bác sĩ cũng tìm không ra, nhiều người thường tìm con “cuy” (một loài họ chuột) màu đen tuyền để chữa bệnh. Vào thứ ba và thứ sáu hằng tuần (đối với người Peru đó là những ngày “phù thủy”, mọi chuyện liên quan đến tâm linh phải thực hiện vào ngày này mới linh nghiệm), họ cầm con chuột sống xoa khắp người bệnh nhân để nó “hút” hết những bệnh tật của họ ra. Sau đó, họ chặt phăng đầu, thấy máu đen sì tức là độc đã ra khỏi bệnh nhân và vào máu con cuy.

Điều này chính bà Karin Muller - người đi dọc dãy núi Andes qua các nước Chile, Ecuador, Brazil, Peru - cũng mô tả cách chữa bệnh bằng con cuy trong quyển sách nổi tiếng Along the Inca road: “Ông thầy lang cầm con cuy đập vào lưng và đầu của bà ấy, rồi sau đó chẩn bệnh dựa trên chất lượng bộ ruột của nó”.

Rùng mình hơn, người Peru miền núi tin rằng cánh tay của trẻ sơ sinh có tác dụng mời gọi khách hàng. Vì thế, tại rất nhiều cửa hàng ăn họ luôn bí mật buộc cánh tay của trẻ sơ sinh vào bó hoa Ruda (một họ hoa cải). Vừa mở cửa hàng, bao giờ họ cũng quét dọn sạch sẽ và vảy nước hoa Ruda trước cửa, trong nhà bếp, khắp nơi trong nhà ăn… để hi vọng một ngày đắt khách.

Những cánh tay trẻ sơ sinh thường được mua chui từ bác sĩ hoặc các phòng nạo thai với giá khoảng 100 USD/cái. Dù điều này họ luôn giữ bí mật nhưng dân buôn bán không ai không bết. Tôi hỏi nhỏ chị Dao: “Hỏi thật, chị có cánh tay trẻ sơ sinh nào không?”. Chị nhăn mặt: “Mình thấy dã man quá nên không sử dụng”. Cách nay không lâu báo chí Peru đăng tin rầm rầm về vụ có một chiếc xích lô tông vào một xe bán nước Chicha (một loại nước giải khát lên men từ ngô hoặc từ hạt Kinoa). Thùng nước vỡ toang, lòi ra một bàn tay trẻ sơ sinh.

Trả nợ đất mẹ

Tiệm ăn của chị Dao khá đông khách nên tôi ngồi luôn ở quán nói chuyện với chị cho tiện. Sàn nhà mới lau sạch bóng hồi nãy chỉ vài giờ đã vương đầy thức ăn, nước. Thoạt đầu tôi cứ nghĩ có lẽ tiệm ăn gần chợ, khách chủ yếu là người lao động chân tay nên hơi dơ. Tuy nhiên, có điều lạ là từ bà già bím tóc bận bộ đồ truyền thống cho đến ông khách vận complet, xách cặp samsonite trước khi ăn uống đều rải xuống đất một ít thức ăn.

Tôi thắc mắc với chị Dao: “Sao chị không để dưới bàn cái thau để họ đổ thức ăn vào đấy?”. Chị Dao cười lớn: “Bậy! Tập quán của người Peru đấy. Họ quan niệm sinh ra, lớn lên, rồi chết cũng từ đất mẹ. Vì thế, rải thức ăn xuống đất trước bữa ăn là để cảm ơn đất mẹ”.

Người Peru có lễ trả nợ đất mẹ (Paga Santa tiera pachamama) vào tháng tám hằng năm, vì người ta cho rằng thời gian này đất mẹ “đói”, luôn muốn “ăn” lễ vật nhất. Ngày xưa, người Peru thường trả nợ đất bằng các loại gia súc thân thiết trong cuộc sống hằng ngày như alpaca, llama (một loài thuộc họ lạc đà)… Ngày nay, điều đó được “giản tiện” hơn là chỉ cần cúng trả nợ đất bằng bào thai của chúng (bán nhan nhản ngoài chợ).

Đất mẹ đối với người Peru cực kỳ thiêng liêng nên lễ trả nợ đất luôn là những phẩm vật, món ăn ngon nhất. Và một số người Peru (nhất là đối với dân đào vàng) tin rằng bào thai trẻ sơ sinh chính là món ăn ngon nhất. Vì thế, họ trả nợ đất cũng bằng bào thai trẻ sơ sinh hoặc thậm chí cả trẻ con, nhất là con trai. Trẻ con ở đây quá đông, đẻ ra rất nhiều nhưng không có khả năng nuôi nên chuyện xin trẻ con hoặc bỏ số tiền nhỏ là có thể mua được.

Dĩ nhiên, những điều này là phạm pháp, nhưng tại những vùng núi hẻo lánh, xa xôi chính quyền ít kiểm soát được. José, một người dân vùng Saman (huyện lỵ của Puno), cho biết làng anh ta có tục lệ trả nợ đất bằng người sống. Một lần, chính José đã chứng kiến người dân trong làng trả nợ đất bằng cách đẩy một người vào một cái hố lớn đầy củi, than để thiêu sống!

Những tập tục từ ngàn xưa của người Peru vẫn còn giữ cho đến ngày nay.

NGUYỄN TẬP - TUỔI TRẺ


https://phienbancu.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=295447
Bào thai con alpaca, llama dùng để cúng trả nợ đất bán nhan nhản tại các chợ ở Peru - Ảnh: N.TẬP

https://phienbancu.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=295446
Có thể mua những lọ bùa chú mọi nơi ở Peru - Ảnh: N.TẬP


HẾT

happypack
19-11-2010, 16:32
chào anh Chitto,

Vâng, sau khi xem ý kiến của anh về vấn đề "chính thống hay không chính thống" và xem thêm một số thông tin khác, em thấy rằng những vấn đề còn đang gây nhiều tranh cãi như trong loạt bài "Hành trình tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam" đúng là không phù hợp với topic.

Vậy em xin nhận khuyết điểm và rút kinh nghiệm!

Cảm ơn anh đã góp ý.

happypack
19-11-2010, 16:57
[I]Tôi cũng có cái thú sưu tập ảnh đẹp thể loại du lịch và các bài bút ký du hành, xin góp vui cùng bác happypack...[I]

Cảm ơn bạn bluesky đã góp bài, chờ mãi mới thấy một người tham gia :-) góp bài tiếp nhé bạn!

bluesky85
19-11-2010, 17:22
Chạm vào da thịt Mường Lò


Chiều Tây Bắc nắng nghiêng nghiêng, chếnh choáng như say, như mơ. Tôi đã vốc đầy tay ngụm nước ngọt suối Thia và chạm chân vào đất của xứ Mường Lò. Chợt nhớ câu hát xa xưa: "Muốn ăn gạo trắng nước trong/Vượt qua đèo Ách vào trong Mường Lò".

Mây mù và sương trắng lãng đãng rong chơi khắp cánh đồng Mường Lò, bồng bềnh nổi trôi. Cảm giác se lạnh len lỏi, mơn trớn trên từng milimet thịt da rất tuyệt vời, mơ hồ như "với tay bắt mây, xòe tay hứng sương" ở vựa lúa lớn thứ hai của Tây Bắc huyền thoại vào tiết đầu Đông.

Bác sĩ Hoàng Đức Quế (Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Yên Bái) nắm chặt tay, nói trong hơi khói sương: "Vào đến Nghĩa Lộ phải "nhập Mường" bằng rượu táo mèo. Lên độ cao 1.400 m của suối Giàng ngắm những gốc chè Shan Tuyết cổ thụ hàng trăm tuổi, tối vào Thanh Lương xòe cùng các cô gái Thái… như thế mới gọi là đến Yên Bái".

Chẳng biết có phải vì những lời mời gọi hấp dẫn như thế này, mà cả cung đường Tây Bắc, xứ Mường Lò - Nghĩa Lộ luôn có sức hấp dẫn, say đắm mọi người đến chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn dù chỉ một lần trong đời.

Thị xã Nghĩa Lộ nhỏ bé miền tây Yên Bái, nằm lọt thỏm giữa lòng chảo cánh đồng Mường Lò bao la, bao bọc bởi dãy Hoàng Liên ngàn năm mây trắng. Mảnh đất rộng chưa đầy 3.000 ha này là nơi sinh sống của 17 dân tộc anh em với dân số trên 27 nghìn người, trong đó dân tộc Thái chiếm tới 44% với bao bí ẩn, hấp dẫn về văn hóa khiến người đời mê mẩn khám phá.

Anh có vào Nghĩa Lộ với em không?

Phía Bắc của lòng chảo Mường Lò thơ mộng, có một dòng suối lớn tên gọi suối Thia. Tiếng Thái, Thia có nghĩa là nước mắt. Truyền thuyết kể rằng, từ ngày xưa, có một cô gái Thái yêu một chàng trai miền xuôi, khi chàng trai về xuôi không trở lại. Cô gái ngồi khóc một mình, khóc mãi, nước mắt chảy thành dòng suối.

Có thể chưa cần múa xòe, chưa cần nhấp chén rượu táo mèo ấm lòng xua tan đi cơn lạnh se buốt của miền Tây Bắc, cũng không cần làm người đồng hương Văn Chấn - Nghĩa Lộ, chỉ cần nghe bài hát Anh có vào Nghĩa Lộ với em không? (nhạc Trọng Loan, phổ thơ Hoàng Thị Hạnh) đã thấy đây cũng là quê hương mình vậy:

Chiều mùa thu, nắng vàng như mật
Khi đã nghe đèo Ách, cửa Nhì
Khi đã nghe tiếng rừng gió hút
Anh có vào Nghĩa Lộ với em không?

Nghe câu hát da diết, thổn thức mà lòng người đã tan đi mọi ngại ngần. Quyết phải vào Nghĩa Lộ cho dù không có em. Bài thơ hay còn một lẽ khác, tác giả từng là trưởng ban dân vận tỉnh ủy, lại hát rất hay. Chỉ riêng việc ấy thôi cũng đã vô cùng thú vị.

Mường Lò còn nổi tiếng với đội xòe ở bản Thanh Lương. Đêm hội xòe, dưới ánh trăng rực rỡ, các cô gái Thái trong trang phục áo chẽn trắng, hàng khuy bạc trên thắt lưng thổ cẩm xanh lục, váy dài thướt tha, vừa cầm tay các chàng trai và du khách nhảy quanh đống lửa vừa hát mời:

Đêm Mường Lò, trăng lên dần, chiêng trống bập bùng,
Vào đây anh, cầm tay em, múa xòe cùng em, xòe cùng em...
Đừng để em cô đơn một mình...

Xòe Thái nhịp nhàng uyển chuyển, dễ hòa nhập, làm cho người lạ phút chốc hóa quen, ngồi trên nhà sàn, vừa uống rượu vừa ngắm các thiếu nữ Thái nõn nà như tiên, trắng hồng như hoa ban, múa say sưa, xòe say sưa cảm giác đó không gì sánh được.

Theo sách Quám tố mướng - tức Chuyện bản Mường của người Thái đen Tây Bắc: Ngày xưa, hai anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa người Thái từ "xíp xoong pắn ná" (vùng đất có mười hai nghìn ruộng) từ phương Bắc xuôi theo sông Hồng xuống phía Nam tìm vùng đất mới. Khi tới Mường Lò dừng chân, khai khẩn đất hoang.

Khi đã ổn định cuộc sống, Tạo Ngần chia tay anh trở về quê cũ, tiếp tục đưa một nhóm người Thái theo đường khác vào Việt Nam. Tạo Xuông cùng con trai là Tạo Lò lãnh đạo người Thái khai phá nên đất Mường Lò.

Do vậy, trên đầu hồi nhà người Thái luôn mang biểu tượng "khau cút", là hai thanh gỗ bắt chéo nhau có trạm trổ hình hoa sen và hai vầng trăng khuyết hướng vào nhau, ngụ ý người Thái đen hay Thái trắng dù ở đâu cũng là con cháu hai anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần luôn vọng tưởng đến nhau.

Sóng sánh ly chè Shan Tuyết

Đến suối Giàng (Văn Chấn) trên độ cao hơn 1.400 m, mọi người như lạc vào một thế giới thần tiên: sừng sững bạt ngàn những gốc chè cổ thụ trên các sườn đồi. Có những gốc chè cổ thụ hai, ba người ôm không xuể. Theo Chủ tịch xã Suối Giàng Giàng A Đẳng: Suối Giàng có trên 84.000 gốc chè Shan Tuyết cổ thụ hàng trăm tuổi. Những rừng chè cổ thụ có tuổi dưới 100 rất nhiều, đếm không hết.

Người dân ở đây không thể biết cây thần tồn tại ở đây từ bao giờ mà được gọi là cây chè tổ của Suối Giàng. Theo truyền thuyết, một nàng tiên tên là Gâux Njuôz (tiếng H'Mông nghĩa là "nàng tiên xanh"), bay khắp trời đất để gieo hạt sự sống, khi bay đến vùng núi cao này thì hạt giống đã hết, chỉ còn vài hạt thuốc quý, nàng tiên bèn rắc mấy hạt giống thuốc lên vùng núi này, mọc lên cây chè Shan Tuyết.

Vào những năm 1960, Viện sĩ K.M Djemmukhatze (Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô cũ) khi đến Suối Giàng nghiên cứu đã phải thốt lên kinh ngạc: "Tôi đã đi qua 120 nước có chè trên thế giới, nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là cội nguồn của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè trên thế giới". Hương chè rất thơm, thơm đến sực nức, quyện trong từng hơi thở, truyền đi cảm giác lâng lâng bay bổng.

Là khách phương Nam, bấy lâu chỉ thưởng thức mấy hương vị trà Ô Long, Tâm Châu, Tiến Đạt (Lâm Đồng), khi nhấp chút vị chè Shan Tuyết Suối Giàng từ tay cô gái H'Mông mời, mới tận cùng cảm nhận dư vị trà ngon trên đất Việt. Có người bảo, chè Shan Tuyết Suối Giàng ngon vì được nấu nước suối và chỉ hái một búp mỗi đọt từ khi sương trắng còn phủ quanh trên tán lá, ngọn cây.

Có quá nhiều cảnh đẹp, quá nhiều điều thú vị để khám phá về văn hóa, con người, thiên nhiên Tây Bắc.
Mọi thứ được thiên nhiên hào phóng ban tặng, nhưng rất tiếc ngành du lịch tỉnh Yên Bái vẫn chưa đầu tư, qui hoạch và phát huy những giá trị văn hóa, xã hội, du lịch, dịch vụ để biến nơi đây thành một nam châm mạnh, hút du khách trong và ngoài nước về với vùng đất tuyệt vời này.

Say sưa với xòe Thái cho đến khi nghe câu hát: Mai xa rồi, trăng Mường Lò, anh mang về theo... Thì không ai muốn về, không ai muốn xa Mường Lò.

Anh bạn đồng nghiệp Thành Tân - Báo Yên Bái còn úp mở thêm: Lên Mù Căng Chải, qua đèo Khâu Vai còn bao điều thú vị khác nữa…

Quả nhiên câu nói người xưa muôn đời vẫn đúng: nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc. (Mường Thanh, Mường Lò, Mường Than, Mường Tấc) là bốn xứ Mường nổi tiếng vùng Tây Bắc với giai nhân diễm lệ, sản vật thơm ngon.

Tây Bắc đầu Đông 2010
Ghi chép của Trân Châu


https://www.saigonphoto.net/sg/modules/coppermine/albums/userpics/10020/tule9s1.jpeg
photo by dongsinh - saigonphoto.net

https://www.xomnhiepanh.com/uploads/gallery/2010/10/47567_1286816036.jpg
Đôi mắt vùng cao... (photo by mrjuly - xomnhiepanh.com)

happypack
27-12-2010, 17:31
Một chiều quan tái (Hà Giang, Việt Nam)

TTO - Có những buổi chiều ngang qua cuộc đời khiến tôi nhớ mãi, nó như những ngăn ký ức đầy ám ảnh mà mỗi khi có dịp lại nhói lên, đau đáu trong lòng. Nhưng có lẽ sẽ không nỗi nhớ nào dằng dặc và miên man đến thế như những chiều nơi miền quan ải ấy...

Buổi chiều bắt đầu từ phiên chợ đã tan. Bóng những người dân tộc cắt ngang đường leo qua những mỏm núi đá trở về nhà. Hối hả. Đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ, kẻ váy áo rạng rỡ bồng bềnh, người ô xòe rực lên trong nắng...

Giữa cao nguyên đá tai mèo Đồng Văn mùa đông lạnh lẽo và u ám ấy, giữa những chập chùng hoang vu và vắng lặng đến rùng mình, tôi nhỏ bé, bạn đồng hành tôi nhỏ bé, những người con của rẻo cao nhỏ bé…

Chúng tôi cùng lặng lẽ đi, cắt ngang con đường Hạnh Phúc, thả bước theo Mã Pí Lèng danh trấn giang hồ, có thể nào nghe được tiếng dòng Nho Quế đang chảy dưới thung sâu?

Buổi chiều nghiêng nắng qua những mỏm núi đá xếp lớp lớp lên nhau xô về tận cuối trời, chỗ này mới vừa ấm áp bởi nắng soi, vừa bước qua chỗ kia đã thấy lạnh tê tái người vì hơi núi.

Dăm gốc cây cộc mọc chơ vơ trên lưng núi, dăm mái nhà đơn sơ nằm nép sau bờ rào… Đâu đó thoáng ấm mắt nhìn bằng những dải khăn màu phơi phất phơ trên triền đá, xa lắm, phía bên kia bờ vực, dường như không ai có thể chạm vào…

Buổi chiều cứ đi và dừng lại khi bất chợt gặp một guồng sợi cô độc quay trong nắng nhạt, những đứa trẻ co ro vì áo mỏng ngơ ngác đứng ven bờ taluy âm dương nhìn đám khách lạ đường xa, những gùi cỏ trĩu trên vai nhọc nhằn vất vả, một con dốc dài mà chiếc xe đạp nào qua cũng luôn phải còng lưng theo từng nhịp bước chân.

Buổi chiều luôn dừng lại ở cuối chân dốc ngã ba có đường đi Mèo Vạc, một lối rẽ dắt vào Săm Pun vời vợi mây trời. Người Mông mang bàn gỗ, ghế gỗ và bát rượu ngô ra mở quán cho những người đi chơi chợ cuối tuần về tìm chỗ nghỉ chân.

Quán rượu chỉ có khèn Mông, điếu cày, can rượu đầy sóng sánh, có cái chai chắt rượu màu thủy tinh xanh. Bát sành sứt miệng, bát nhựa cáu cạnh, chỉ có rượu là trong, nhìn rõ những hạt bụi đen nằm yên nơi đáy bát.

Rượu đắng, cay cay và sẵn sàng làm kẻ lữ hành chung chiêng, chuếnh choáng. Thứ rượu mà khi rót ra người đàn bà chủ quán nâng bát lên chỉ nhìn chăm chăm vào mắt khách đường xa và lẩm bẩm một câu “Cạn nào”.

Người Mông đi chợ về ngang dừng cả lại đây. Người chưa say thì uống cho say. Người đã say lại uống nữa cho câu chuyện quanh bàn nước thêm phần rôm rả. Uống ít cũng như uống nhiều, trả 2.000 đồng cũng như trả 10.000 đồng, không ai mặc cả.

Ai thấy vui, thấy buồn đều có thể mượn cây khèn thả khúc tơ lòng qua tiếng nhạc trầm buồn và cô quạnh, có gì như tan loãng, hụt hẫng ở cái ngã ba mà nhìn bốn phía xung quanh đâu cũng là núi cao ngất đỉnh trời.

Có bao buổi chiều như thế đã ngang qua cuộc đời?

Bao bước chân người Mông đã bước qua ngã ba này trong chiều quan ải… Bao nhiêu người đàn bà đã ngồi đợi chồng tan cuộc rượu với bạn bè trong hư vô và ma mị… Bao người đàn ông đã nhớ mang xe đạp đi đón vợ dọn hàng chiều… Bao đứa bé đã líu ríu bước chân theo bố mẹ trên con đường hun hút gió?… Tôi không biết.

Tôi không phải đỉnh núi trên kia, không phải con đường như dải lụa mắc quanh lưng núi, không phải cánh đồng đỗ tương vàng lá, không phải cây ngô đang trổ bắp giữa nhọc nhằn những hốc đá tai mèo.

Tôi là vị khách miền xuôi lên miền ngược. Và tôi hạnh phúc khi được hít căng lồng ngực hơi thở bình yên và chậm rãi của chiều trên núi.

Một chiều quan tái... Ấm lòng khi những ngón tay đan vội giấu sau vạt áo, một vòng tay ôm dịu dàng và giọt nước mắt hạnh phúc của bạn đồng hành đã rơi…

THỦY TRẦN

happypack
03-05-2011, 13:32
Chinh phục Hang Vô Đáy (Quảng Bình, Việt Nam)

“Có cả một khu rừng trong hang động khổng lồ của Việt Nam. Ngay cả một tòa cao ốc cũng đặt vừa trong lòng nó. Không thể nhìn thấy đầu ra.”

By Mark Jenkins (National Geographic)

“Đi qua khỏi bàn chân chó, coi chừng khủng long,” giọng nói cất lên trong bóng tối.

Tôi nhận ra âm sắc nhanh gọn đầy chất lính Hoàng gia của Jonathan Sims nhưng không đoán nổi anh đang muốn nói gì. Cuối cùng ngọn đèn pha (headlamp) của tôi cũng tìm thấy anh, với mớ tóc mai xám tro loăn xoăn dưới vành nón bảo hộ, đang ngồi trơ trọi trong bóng tối bên vách hang.

“Tiếp đi bạn,” Sims làu bàu. “Mình cho cái mắt cá nghỉ chút thôi.”

Hai người chúng tôi đã căng dây vượt qua con sông ngầm Rao Thuong đang gào thét, trèo xuyên qua những lưỡi đá vôi cao 20-phút (6 mét – ND) để đến được bờ cát này. Tôi đi tiếp một mình, tia sáng từ chiếc đèn trên trán lần theo những vết chân năm ngoái.

Hồi mùa xuân năm 2009, Sims là một thành viên của đoàn thám hiểm đầu tiên tiến vào Hang Son Doong, hay còn gọi là “hang động sông núi”, nằm tại một vùng hẻo lánh của miền trung Việt Nam. Giấu mình trong vẻ gồ ghề của Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng gần biên giới với Lào, hang động này là một phần của mạng lưới gồm khoảng 150 hang, mà trong đó nhiều hang còn chưa được khảo sát, của Rặng Anamite. Trong chuyến thám hiểm đầu tiên, đoàn đã thăm dò chiều dài hai dặm rưỡi của hang (tầm 4 cây số - ND) cho đến khi bị chặn ngang bởi một bức tường calcite (CaCO3) cao 200-phút (60 mét – ND). Họ đặt tên cho nó là bức Trường Thành của Việt Nam. Người ta có thể nhận thấy khoảng không mở bên trên Trường Thành với một chút ánh sáng le lói, nhưng không thể biết được phía bên kia là gì. Rồi, họ quay lại một năm sau đó. Lần này cùng với 7 nhà thám hiểm hang động chuyên nghiệp người Anh, còn có vài nhà khoa học và một đội porter, với mục tiêu vượt qua bức tường và nếu có thể, đo đạc lòng hang, và thậm chí là đi hết chiều dài hang cho đến điểm mút cuối cùng của nó.

Vết mòn đột nhiên biến mất, trước mắt tôi là một khối đá vụn cao như tòa nhà, kết quả của một vụ đá rụng từ trần hang. Tôi quay đầu lại, ánh sáng từ ngọn đèn pha của tôi chỉ như một ngọn đóm nhỏ bị dụi vào vũng tối mênh mông, như thể tôi đang nhìn vào một bầu trời đêm đen đặc. Người ta kể với tôi rằng tôi đang ở trong một nơi đủ lớn để chứa một chiếc 747, nhưng làm sao tôi biết được, vì đầu tôi lúc này đã bị một cái túi ngủ trùm kín – chính là bóng tối.

Tôi tắt đèn pha, chỉ để cảm nhận chiều sâu của bóng tối. Thoạt đầu không có gì cả. Nhưng rồi, khi mắt đã tự điều chỉnh, tôi vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện một tia sáng yếu ớt đầy vẻ ma quái phía trước. Gần như chạy vì phấn khích, tôi tìm đường vượt qua đống đá vụn, dăm đá lạo xạo dưới chân, vọng vào những cái hốc vô hình. Băng qua một cái dốc đứng, tôi đi quanh một dải đất hẹp như thể đang ở trên một sườn núi, và bất giác khựng lại.

Một luồng sáng khổng lồ đang đổ vào hang như thác. Lỗ hổng trên trần hang lớn đến mức khó tin với đường kính ít nhất là 300-phút (90 mét – ND). Ánh sáng xuyên sâu vào trong hang đã, lần đầu tiên, để lộ ra kích thước đáng kinh ngạc của Hang Son Doong. Lòng hang có lẽ rộng 300-phút (90 mét), trần cao gần 800-phút (243 mét): đủ chứa toàn bộ một tòa nhà 40 tầng của New York. Thậm chí gần trần hang còn phảng phất những đám mây mỏng.

Ánh sáng rọi xuống một tháp đá vôi trên nền hang cao hơn 200-phút (60 mét), phủ đầy dương xỉ, cọ và những loại cây rừng khác. Thạch nhũ treo quanh rìa hang như những cột băng hóa thạch. Dây leo vươn lên hàng chục mét từ mặt đất; chim én chao liệng dọc ngang luồng sáng rực rỡ. Khung cảnh này có lẽ được tạo tác bởi một người nghệ sĩ đang hình dung dáng vẻ của thế giới nhiều triệu năm về trước.

Jonathan Sims đã bắt kịp tôi. Giữa chúng tôi và lòng hang ngập nắng là một măng đá nhìn ngang giống như một bàn chân của con chó.

“Gọi là Bàn tay của Chúa có khi hơi sến,”, anh nói, chỉ vào hình thù đó. “Nhưng mà Bàn chân của Chó nghe giống hơn, phải không?”

Anh tắt đèn pha và nới bớt cái mắt cá chân đang quấn chặt.

“Lần đầu tiên khi chúng tôi đến tới cái vòm trên đó, tôi và một dân “đi hang” (caver – ND) khác đều có một thằng con trai bốn tuổi, nên chúng tôi rất rành về khủng long, và toàn bộ cảnh tượng này làm chúng tôi nhớ đến một cái gì đó y chang như trong cuốn tiểu thuyết The Lost World của Sir Arthur Conan Doyle,” anh nói. “Khi bạn đồng hành của tôi đi thăm dò tiếp trong khu vực đó, tôi bảo với anh ấy ‘coi chừng khủng long’, vậy là chết tên luôn.”


https://i1185.photobucket.com/albums/z351/happypackvn/01-vietnam-cave-615.jpg

Hai mươi năm trước, những người dẫn đầu của đoàn thám hiểm này, Howard Limbert cùng vợ là Deb, đã trở thành những “hang thủ” (caver – ND) đầu tiên đến Việt Nam từ những năm 1970. Lúc đó, những hang động đầy huyền thoại của đất nước vẫn chưa được khám phá. Vào năm 1941, Hồ Chí Minh đã vạch kế hoạch cách mạng chống Nhật và Pháp tại hang Pac Bo ở phía Bắc của Hà Nội, và trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, hàng ngàn người dân đã trú ẩn trong các hang động để tránh bom rải thảm của quân đội Mỹ. Gia đình nhà Limberts, những “hang thủ” đầy kinh nghiệm đến từ thung lũng Yorkshire miền bắc nước Anh, đã liên hệ với Đại học Khoa học Tự nhiên ở Hà Nội và mở cuộc thám hiểm vào năm 1990, sau khi được cấp một lô giấy phép. Kể từ đó họ đã thực hiện 13 chuyến đi, không chỉ phát hiện một trong những hang ngầm dài nhất thế giới – Hang Khe Ry dài 12 dặm (12.828 mét – ND), không xa Son Doong lắm – mà còn giúp người Việt Nam thành lập Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng rộng 330 dặm vuông (352.770 mét vuông – ND). Đây là điểm thu hút 250.000 khách du lịch mỗi năm, đóng góp đáng kể vào việc gia tăng thu nhập của người dân bản xứ. Du khách đến đây để xem hang động mẫu trùng tên với khu Vườn Quốc gia, Hang Phong Nha, được thắp sáng như một màn trình diễn đầy ảo giác của đá.

Vì những khu rừng dày đặc, nhà Limberts có lẽ sẽ không thể tìm ra những hang động mà không có sự giúp đỡ của người địa phương. “Ông Khanh đã đi cùng chúng tôi từ những ngày đầu,” Howard nói, gật đầu về phía một người đàn ông gầy gò đang ngồi hút thuốc bên đống lửa. Chúng tôi đang ngồi chồm hổm quanh đống lửa ngay phía trong miệng Hang En, lối vào dài một dặm xuyên qua dãy núi để đến với thế giới bị thất lạc.

“Phải đi ba chuyến mới tìm thấy Hang Son Doong,” Howards nói. “Khanh có tìm thấy lối vào từ hồi còn bé nhưng quên mất. Mãi đến năm ngoái ông ấy mới tìm thấy lại.”

(còn tiếp)

happypack
03-05-2011, 13:41
Chinh phục Hang Vô Đáy (Quảng Bình, Việt Nam)

By Mark Jenkins (National Geographic)

(tiếp theo)

Gốc tre và những loại cây khác phủ đầy các ụ đá vôi ở đây, khiến cho người ta không thể đi xuyên qua được. Bên dưới bề mặt, khu vực này của Việt Nam là một khối đá vôi rất rộng lớn, Darryl Granger, nhà địa mạo học của Đại học Purdue, nói. “Cả một vùng bị nén bật lên khi tiểu lục địa Ấn Độ va vào lục địa Á Âu vào khoảng 40 – 50 triệu năm trước,”. Hang Son Doong hình thành khoảng 2 -5 triệu năm trước, khi nước sông chảy xuyên qua dãy đá vôi theo những khúc đứt gãy và tạo thành một đường hầm khổng lồ bên dưới dãy núi. Ở những nơi đá vôi yếu, trần hầm sập xuống những hố sụt tạo nên những vòm hang khổng lồ.

Anette Becher, một “hang thủ” và nhà sinh vật học người Đức, đã phát hiện rằng rệp cây, cá và những sinh vật nhiều chân trong hang đều có màu trắng, một đặc điểm rất phổ biến đối với những loài sống trong bóng tối. còn Dai Inh Vu, nhà thực vật học đến từ Học viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã xác định các loại cây sống bên dưới vòm hang về cơ bản giống với hỗn hợp rừng phía bên trên. Thế nhưng những nghiên cứu khoa học đang tiến hành đó không phải là tiêu điểm của chuyến thám hiểm lần này. Đối với những “hang thủ” như gia đình Limberts, phát hiện một hang động lớn như Hang Son Doong giống như tìm thấy một Đỉnh Everest trong lòng đất chưa từng được biết đến trước đó. “Chúng ta chỉ mới phủi bụi trên bề mặt,” Howard nói về khu Vườn Quốc gia, vừa được công nhận là Di sản Thế giới dành cho hệ thống rừng và hang động năm 2003. “Còn rất nhiều thứ để làm ở đây.”

Lần đầu tiên chứng kiến những không gian khổng lồ ở đây, Howard và Deb đã ngờ rằng họ vừa phát hiện ra hang động lớn nhất thế giới – và rất có thể rằng họ đã đúng. Có những hang động dài hơn Hang Son Doong – như hệ thống Hang Mammoth ở Kentucky với chiều dài tổng cộng 367 miles (392.323 mét – ND) đang giữ kỷ lục đó. Cũng có những hang động sâu hơn – như Krubera-Voronja, còn gọi là “hang quạ”, đâm xuống độ sâu 7.188-phút (2.190 mét – ND) ở miền tây Rặng Caucasus của Georgia. Nhưng về lòng hang khổng lồ, chỉ có một vài hang có thể so sánh. Vào thời điểm nhà Limberts phát hiện Hang Son Doong, lòng hang lớn nhất được cho là của Hang Deer ở Vườn Quốc gia Gunung Mulu ở Borneo thuộc Malaysia, với kết quả vừa thăm dò là 1,2 dặm chiều dài (1.282 mét – ND), 500-phút bề rộng (152,4 mét) và 400-phút chiều cao (121,92 mét). Nhưng khi các nhà thám hiểm tiến hành đo đạc, sử dụng các thiết bị laser chính xác, Hang Son Doong dài hơn 2,5 dặm với lòng hang nối liền rộng 300-phút (91.44 mét) nhưng bù lại, cao hơn 600-phút (182.88 mét).

“Thực sự chúng tôi không tìm kiếm hang động lớn nhất thế giới,” Deb nói. Nhưng bà thật sự phấn khởi rằng tên tuổi của hang động vừa tìm thấy có thể giúp cải thiện cuộc sống của dân làng địa phương.

Sau 5 ngày đi bộ, lôi kéo, bò trườn, chuyến thám hiểm chỉ mới đi được nửa đường trong hang. Tổng cộng các “hang thủ”, nhà khoa học, đội quay phim chụp ảnh và porter, đội hình hơn hai tá người dường như làm chúng tôi chậm đi. Bên cạnh đó, chuyến đi trở nên nguy hiểm khi chúng tôi trèo qua đống đổ vụn ở khu Coi Chừng Khủng Long (chính là tháp đá vôi đã đề cập bên trên, tạo thành do trần hang bị sụp ở những đoạn đá vôi có kết cấu yếu – ND): một bước chệch trên tảng đá trơn có thể đồng nghĩa với một cú rơi từ độ cao hàng chục mét.

Khi chúng tôi đến được vòm hang kế tiếp, Khu Vườn của Edam (lại một trò chơi chữ khác), nó thậm chí còn lớn hơn cái đầu tiên, gần như rộng bằng mái của khu Superdome ở New Orleans. Bên dưới vòm trời là một núi vụn khác với một rừng những cây cao hàng chục mét, dây leo và tầm ma. Do thời gian và nguồn tiếp tế đang cạn dần, Howard quyết định đã đến lúc gửi một đội tiên phong tiến về phía Trường Thành Việt Nam, xem thử cuộc đột kích liệu có thật sự khả thi.

Bức tường nằm cách hơn một dặm (1.069 mét), ở phía cuối hành lang có hình chữ V với rãnh nước bên dưới. Những bức tường bùn, dính như bơ đậu phộng, mỗi bên cao 40-phút (12 mét). Bước vào rãnh nước chỉ có trượt ngã. Lúc đến được bức tường thì người ngợm đã đầy bùn như vừa bơi trong một cái bánh pút-đinh sôcôla vậy. Các “hang thủ” gọi đó là Passchendaele, theo tên của trận đánh giành con hào hồi Đệ nhất Chiến tranh Thế giới, mà quân Đồng minh mất 310.000 quân chỉ để chiếm được 5 dặm gần ngôi làng Ypres của nước Bỉ.

Leo lên bức tường bùn cao 200-phút là một công việc nguy hiểm và đòi hỏi kỹ năng cao, vì vậy cần có đúng người với “máu điên”. May mắn là Howard đã tự tay tuyển Gareth “Sweeny” Sewell và Howard Clarke cho đội tiên phong. Cả hai đã cùng nhau “đi hang” (caving – ND) 20 năm qua, chui xuống những hốc kinh khủng nhất ở Anh. Clarky là lái buôn tinh bò (kiểu như đi thả nọc heo ở ta – ND), còn Sweeny là một chuyên gia luật – người không biết bằng cách nào đó đã thuyết phục vợ mình bán cái xe hơi độc nhất lấy tiền cho những chuyến đi hang.

Ngày đầu tiên dưới chân tường, trong khi Clarky siết thừng, Sweeny bắt đầu liều lĩnh tìm đường lên, khoan từng lỗ một. Hầu hết các lỗ quá rỗng để có thể ăn vít néo dây.
Trong suốt 12 tiếng, họ huyên thuyên bằng thứ thổ ngữ đậm chất Yorkshire – “ê cái khốn này đầy bùn mày ơi,” tiếng Sweeny đâu đó phía trên. Không ai hé răng nửa lời về sự nguy hiểm. Nếu bất kỳ cái vít nào bung ra, sợi dây néo của Sweeny sẽ mất chốt và kéo theo các vít còn lại. Chết chắc!

Vào ngày leo thứ hai, sau một đêm hạ trại dưới chân tường, Sweeny lên đến cao điểm của ngày hôm trước, vẫn với Clarky là người siết dây. Ngay khi tiếng khoan của Sweeny dội lại trong bóng tối, chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy tia sáng le lói từ chiếc đèn pha của anh. Vào lúc 2 giờ chiều, sau 20 tiếng khoan lỗ và leo lên cao, cuối cùng Sweeny cũng biến mất phía trên bức tường. Vài phút sau chúng tôi nghe : “AAIIOOOOO!!”

Clarky leo lên theo, rồi gọi vói xuống, giọng va vập lung tung: “Ê, ông có lên đây không vậy!”

Trên đỉnh Trường Thành Việt Nam, chúng tôi thực sự có thể nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm và bắt đầu hú lên. Sau đó, các thành viên còn lại có kể với chúng tôi rằng họ có nghe thấy tiếng chúng tôi gọi từ hơn một cây số bên trong hang. Đo lường từ đỉnh bức tường cho thấy từ nền đến trần hang của khu Passchendaele là 654-phút (199,33 mét). Lúc này, chỉ có ba người chúng tôi, đang khám phá. Chưa từng có ai lên đến đây trước đó. Rồi chúng tôi leo xuống mặt sau của Trường Thành và bắt đầu lần xuống các bậc đá về phía đầu ra.

Hai mươi phút sau, chúng tôi trườn lên ra khỏi hang động. Trong rừng đang mưa. Chúng tôi đã đi đủ xa để nhận ra rằng đường chân trời này không phải là một vòm hang khác, mà chúng tôi đã thực sự khám phá cửa ra của Hang Son Doong. Sweeny và Clarky quá khiêm nhường để thừa nhận rằng chúng tôi vừa hoàn tất chuyến đi đầu tiên xuyên qua một thứ rất có thể là lòng hang động lớn nhất thế giới.

http://ngm.nationalgeographic.com/2011/01/largest-cave/peter-photography


https://i1185.photobucket.com/albums/z351/happypackvn/HangsonDoongcave1t.jpg

https://i1185.photobucket.com/albums/z351/happypackvn/1_hang-son-doong-cave-1.jpg

https://i1185.photobucket.com/albums/z351/happypackvn/hang-son-doong-cave-3.jpg

(hết)